Phần I: lời mở đầu 1
Phần II. Nội dung 2
A.Cơ sở khoa học và kinh nghiệp cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước 2
I. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là sự lựa chọn tất yếu. 2
1.Thực chất của cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước 2
2.Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong
giai đoạn hiện nay 3
II. Kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN của một số nước 5
1. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Nhật Bản 5
2. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Hàn Quốc. 7
3. Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước
trên thế giới 10
B.Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó 16
I.Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trong bước chuyển sang
nền kinh tế thị trường 16
II. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam 19
1. Bốn năm đầu thí điểm cổ phần hóa (1992-996) 19
c. Giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá DNNN
đến năm 2000 31
I. Tạo môi trường pháp đầy đủ, đồng bộ về cổ phần hoá
DNNN. 31
II.Xây dựng tiến trình cổ phần hoá 33
1. Lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá: 33
2. Phân loại doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục tiêu
cổ phần hoá. 35
III.Tạo sân chơi bình đẳng giữa DNNN và Công ty cổ phần (về những điều kiện hoạt động kinh doanh). 36
IV.Một số biện pháp tạo lập môi trường thuận lợi cho việc
hình thành và phát triển công ty cổ phần 37
1.Hình thành công ty đầu tư 37
2.Ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát 37
3.Chính sách tài chính 38
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện vai trò điều tiết
quản lý vĩ mô về mặt tiền tệ 38
5.Tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra 38
Phần III. Tài liệu tham khảo 40
Mục lục 41
42 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạo sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và Công ty cổ phần (về những điều kiện hoạt động kinh doanh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc này tỏ ra thích hợp với cả Chính phủ đang cần thời gian để nắm bắt và kiểm soát cũng như công chúng đang cần có thời gian để tin vào sự ổn định lâu dài về chính sách của Chính phủ. Riêng đối với nhiều nước đang phát triển và Đông Âu, nơi mà các điều kiện để cổ phần hoá còn rất thiếu như kinh tế thị trường chưa phát triển, thị trường chứng khoán chưa hình thành khu vực kinh tế tư nhân còn rất yếu ớt.. thì tính chất lâu dài, nhiều giai đoạn và phải thực hiện trong nhiều năm là điều không thể tránh khỏi,. Tính quá trình càng được nhấn mạnh khi các Chính phủ lưu ý đến quan hệ tác động nhân quả giữa cổ phần hoá với các điều kiện cho phép thực hiện để thúc đẩy tiến trình cải cách nền kinh tế. Mặt khác nó còn bao hàm cả một quá trình được tiến hành thường xuyên liên tục để di chuyển sở hữu Nhà nước sang các lĩnh vực khác nhau nhằm cơ cấu lại nền kinh tế giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp.
Cần xác định việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam sẽ là một quá trình lâu dài, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và có những bước đi cụ thể. Trong hoàn cảnh còn thiếu điều kiện quan trọng để cổ phần hoá như ở nước ta thì đây là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải thực hiện trong nhiều năm. vì vậy việc quán triệt quan điểm quá trình. Trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết để chỗng những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này trong một lần, trong thời gian ngắn.
Thứ năm: môi trường pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá
Với những tính chất cổ phần hoá đã được nêu ở trên, các mức đều phải tạo ra môi trường pháp lý cần thiết để tiến hành công việc này. Đó là các bộluật quan trọng có ý nghĩa là những điều kiện xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra khung khổ pháp lý cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá và các công ty nói chung. Hệ thống những văn bản luật ở nhiều nước có những tên gọi khác nhau nhưng đều tập trung giải quyết một số vấn đề chung như Luật công ty, Luật về thị trường chứng khoán, luật phá sản, Luật lao động và bảo hiểm. Luật doanh nghiệp Nhà nước … khác với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, sự không ổn định trong môi trường kinh tế vĩ mô của các nước đang phát triển và đông Âu đang gây cản trở lớn cho quá trình tiến hànhcn cũngnhư thu hút vốn đầu tư cổ phần của nước ngoài. Nhiều chinh sách đang trong quá trình thay đổ khó đoán trước về lãi suất, tỷ giá hối đoái, thuế quan, thị trường lao động càng tăng thêm sự rủi ro và tính không chắc chắn đối với các nhà đầu tư khi tham gia vào các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Điều đó khiến các nước này khẩn trương xác lập một hệ thống pháp luật tạo khung khổ cho sự hoạt động ổn định của nền kinh tế thị trường nói chung và quá trình tư nhân hoá nói riêng. Hiện nay trong quá trình cải cách các nước Đông Âu đã ban hành nhiều bộluật trong đó có Luật tư nhân hoà và thực hiện hàng loạt các chính sách về tự do hoá giá cả, lãi xuất, tỷ giá hối đoái…để từng bước tạo lập những điều kiện pháp lỹ cho sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện thànhcông quá trình cổ phần hoá ở các nướcnày.
ở Việt Nam, để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và đổi mới cơ chế kinh tế nói chung không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước. Hiện nay, cần có sự bổ sung, sửa đổi và ban hành các bộ luật quan trọng như Luật công ty, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật thương mại, Luật phá sản, luật lao động và bảo hiểm… để từng bước tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thực hiện có kết quả.
Thứ sáu: phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá.
Để thực hiện chơơng trình cổ phần hoá thành công, thực tiễn ở các nước đều cho thấy Nhà nước cần phải chịu một khoản phí tổn nhất định. Điều này nói lên sự khác nhau cơ bản giữa Nhà nước và tư nhân. Đối với tư nhân, sau khi đã bán cổ phần của mình để thu lợi và không còn trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp thì ngược lại Nhà nước vẫn phải quan tâm những vấn đề của doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá, cũng như những vấn đề nảy sinh như là hậu quả của quá trình này. Khoản phí tổn đó được Chính phủ quan niệm và xử lý khác nhau. Nó có thể là sự ưu đãi cổ phiếu khi bán hoặc những chi phí cho việc bảo hiểm trợ cấp thời gian đào tạo lại nghề và tìm việc mới với những người lao động bị mất việc làm trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá hoặc những chi phí cho bọ máy thẹ hiện và cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo cho việc thực hiện quá trình này…Những khoản chi phí này canà thiết và có tác dụng đảm bảo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội cho việc thực hiện một chương trình có tầm quan trọng lâu dài trong quá trình cải cách kinh tế ở các nước.
Đối với nước ta cũng cần có sự lưỡng định những khoản phí tổn không thể cắt giảm được, nhất là các ấn đề về việc làm mới và đào tạo lại bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá, các vấn đề về tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, môi giới đầu tư trong và ngoài nước… đối với vấn đề cổ phần hoá. Điều nay là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo thực hiện chơơng trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đạt được kết quả ở nước ta.
Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó
Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
ở nước ta, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện mô hình kế hoạc hoá tập trung, lấy việc mở rộngvà phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy khu vực kinh tế Nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý. Sau đây tôi xin trình bầy một số thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay.
ở Việt Nam, trước dây chúng ta có hơn 12000 doanh nghiệp Nhà nước sau nghị định 388/HĐBT và chỉ thị 500/Ttg số doanh nghiệp Nhà nước đã giảm xuống 6000 doanh nghiệp chiếm hơn 40% GDP. Hầu hết các doanh nghiệp còn nhỏ bé và dàn trải, chồng chéo về ngành nghề.
Đến nay cả nước vẫn còn tới 5280 doanh nghiệp Nhà nước vốn bình quân mỗi doanh nghiệp Nhà nước chỉ trên 18 tỷ đồng (khoảng 1,2 triệu USD). Trong đó số doanh nghiệp Nhà nước có vấn 5 tỷ đồng trở xuống chiếm 65,445%, số doanh nghiệp Nhà nước vốn trên 10 tỷ đồng chỉ dưới 21%. Đặc biệt số doanh nghiệp Nhà nước địa phương trực tiếp quản lý quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều, số doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng (khoảng 70 nghìn USD) còn trên 30%.
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh cấp quản lý trên cùng một địa bàn gây cạnh tranh không đáng có trong chính nộibộkhu vực kinh tế Nhà nước. doanh nghiệp Nhà nước còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ, du lịch gây tình trạng phân tán mạnh về vốn trong khi vốn đầ tư Nhà nước rất hạn chế, không thể tập trung vào được những ngành, lĩnh vực chủ yếu, then chốt.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ các doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém, rất hạn chế và thua thiệt trong hội nhập thị trường quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước khác nhau thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ khoa học công nghệ tại nhiều doanh nghiệp Nhà nước thuộc 7 ngành thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạch hậu so với thế giới từ 10-12 năm, trong khi mức kấu hao bình quân của khu vực kinh tế thế giới chỉ từ 7-8 năm. bới nhiều trường hợp khác nhau, không ít trường hợp nhập khẩu thiết bị, công nghệ không đáp ứng nhu cầu hiện đại hoá. Theo số liệu khảo sát của viện khoa học bảo hộ lao động thuộc tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến hành gần đây ở 42 cơ sở thuộc một ngành, trong số 727 thiết bị máy móc và 3 dây chuyền nhập khẩu, có tới 76% thuộc thế hệ những năm 50-60 trên 70% đã hết khấu hao, gần 30% đã tân trang. Báo cáo điều tra ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho biết số máy móc có tuổi trung bình trên 10 năm chiếm tới 40% và chỉ có 30% dưới 5 năm. Thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến chất lượng giá cả và hạn chế năng lực cạnh tranh của sản phẩm được tạo ra. Một số mặt hàng sản xuất như sắt thép, phân bón, hoá học xi măng, kính xây dựng.. có mức giá cao hơn hàng cùng loại nhập khẩu từ 20-40% cá biệt như đường thô cao hơn tới 70-80%. Nhiều mặt hàng tồn tại được là do chính sách bảo hộ của Nhà nước thông qua hệ thông thuế nhập khẩu cao. Song các doanh nghiệp Nhà nước vẫn thường xuyên bị đe doạ bởi hàng lậu tràn vào từ nước ngoài và đáng lo ngại là khi hội nhập trong khuôn khổ AFTA từ năm 2006 trở đi.
Nhìn chung, chất lượng sản phẩm làm ra ở trong nước còn quá thấp, chỉ khoảng 15% sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu. Đến giữa năm 1999 cả nước mới chỉ có 70 doanh nghiệp Nhà nước được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000 và 16 đơn vị khác đang đề nghị xem xét.
Nợ của các doanh nghiệp quá lớn. Theo báo cáo của ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trung ương, tổng số nợ của Nhà nước năm 1996 là 174.797 tỷ đồng, năm 1999 là 199.060 tỷ đồng trong đó nợ phải trả là 126.366 tỷ đồng và nợ phải thu là 72.644 tỷ đồng. So với tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước số nợ phảithu chiếm tới 62% và số nợ phải trả bằng 109% trong khi khả năng thanh toán rất thấp. Nợ quá hạn khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ đang là gánh nặngđối với doanh nghiệp Nhà nước. các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn phải dựa vào sự bao cấp lớn của Nhà nước. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu thành lập, hàng năm các doanh nghiệp Nhà nước cònphải vay tới 85% vốn từ Nhà nước với lãi suất ưu đãi. Trong khi ngân sách luôn thiếu hụt nhiều nhưng Nhà nước vẫn phải dành một tỷ lệ đáng kể để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp Nhà nước. trong ba năm 1997-1999 ngân sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp Nhà nước gần 8000 tỷ đồng trong đó 648 tỷ đồng cấp bổ sung vốn, 1464 tỷ đồng bù lỗ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước để giảm bớt khó khăn về tài chính. Ngoài ra, từ năm 1996 đến nay Nhà nước vẫn còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Mặc dù việc hỗ trợ ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước không đem lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp Nhà nước này ít hơn phần Nhà nước đã hỗ trợ. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Tình trạng thiếu việc làm, số lao động dôi dư lớn. Theo số liệu của bộ lao động- thương binh xã hội thì hiện nay số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp Nhà nước tới 6%, nhiều doanh nghiệp Nhà nước có số lao động quá lớn. So với nhu cầu như tổng công ty than Việt Nam, công ty gang thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương…Số lao động dôi thừa ở tổng công ty Than Việt Nam là 30% ở tổng công ty lương thực miền Bắc là 28% ở tổng công ty thép Việt Nam là 12%. Tỷ lệ này ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước địa phương còn cao hơn, tới khoảng 27-33%. Phần lớn người lao động không đượcđào tạo lại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Do thửctạng trên cùng với những ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước và bối cảnh hội nhập, cạnh tranh không thuận lợi, trong khu vực và quốc tế, những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hậu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng giảm dần. Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp Nhà nước. Sau thời gian những năm bước vào công cuộc đổi mới liên tục đạt 13%, đến năm 1998 đầu năm 1999 giảm xuống còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Năm 1998 các chỉ tiêu tương ứng đạt 2,9 đồng và 0,14 đồng. Thậm chí trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ làm là được 0,24 đồng lợi nhuận, số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40% số bị lỗ liến tục chiếm tới 20% (nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì tỷ lệ này còn lớn hơn); cong lại 40% là những DNNN trong tình trạng bấp bênh, nói chung là chưa có hiệu quả.
Thực trạng này đòi hỏi phải tiếp tục sắp xếp và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước.
II. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
1. Bốn năm đầu thí điểm cổ phần hóa (1992-996)
Những mục tiêu đạt được trong thực tế cổ phần hoá
Một chủ trương đúng: Từ những năm 80 các DNNN khi phải đối diện với nền Kinh tế thị trường dựa trên quy luật giá trị có sự điều tiết của Nhà nước đã thể hiện là một gánh nặng tài chính hơn là các nhân tố tạo phồn vinh cho đất nước.
4584 doanh nghiệp thua lỗ/12000 doanh nghiệp, các doanh nghiệp thua lỗ này chiến gần 41% giá trị tài sản cố định, 788 ngàn/2,6 triệu lao động của toàn khu vực kinh tế quốc doanh (niên giám thống kê 90)
các giải pháp kinh tế vĩ mô đã được nghị quyết đại hội 6 đề cập và cụ thể hoá thêm một bước tại đại 7 cải cách triệt để khu vực kinh tế Nhà nước và đa dạng hoá các hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động trong đó hình thức cổ phần hoá chính là một bộ phận mở cửa đa dạng hoá sở hữu
chủ trương đúng đắn này được nhân dân ủng hộ, dọn đường cho Chính phủ ban hành các quyết định về cổ phần hoá nhằm đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống với mục tiêu thay đổi về chất của các cổ phần hoá DNNN tạo nên những động lực mới cho nền kinh tế.
Từ điều 22 của quyết định 217 ngày 14/1/1987, QD 202/CT ngày 8/6/92 QĐ 145/HĐBT ngày 10/5/1990 và gần đây nghị định 28/Cp ngày 7/5/1996 trong suốt thời gian qua Đảng luôn luôn quan tâm đến tiến trình cổ phần hoá Nghị quyết đại hội 8 chr rõ “triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá DNNN đẻ huy động thêm vốn tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp lamf ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước càng tăng lên…”
Như vậy chúng ta đã có gần 10 năm để thực hiện một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá một chủ trương hợp với lòng dân, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, hoà nhập với su hướng cải cách mở cửa của các quốc gia trong khu vực.
Giai đoạn thí điểm (1992-1996): Thực hiện chỉ thị 202/CT.8/6/92 của chủ tịch hội động bộ trưởng về “thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần” và chủ thị 84/TTG 4/3/1993 về “xúc tiến thực hiện thí điển cổ phần hoá doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN ” trong 10 DNNN đã chọn làm thí điểm đến năm 1995 đã có 5 DNNN được chuyển thành công ty cổ phần. Cho đến thời tháng 5/1996 cẩ nước có 7 DNNN chuyển đổi sở hữu thành công chính thức hoạt động theo luật công ty. Trong đó Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc bộ giao thông vận tỉa đóng trên địa bàn TPHCM là DNNN đầu tiên chuyển sang Công ty côt phần từ 15/9/93. Tiếp đó là xí nghiệp cơ điện lạnh thuộc sở công nghiệp TPHCM chuyển hoá sở hữu vào ngày 4/12/93 … Hầu hết các doanh nghiệp chuyển sang Công ty cổ phần đều có vốn dưới 5-7 tỷ đồng (trừ công ty cơ điện lạnh) và hầu hết gặp khó khăn doanh thu thấp công nhân chán nản, thị trường hẹp điển hình như Công ty xe khách Hải Phòng mấp mé bờ vực phá sản khi nền “văn minh xe máy” thì những chiếc xe khách giá mua và thái độ phục vụ baats nhã đã mau chóng bị lãng quên.
Các Công ty cổ phần chuyển từ DNNN đang hoạt động theo luật Công ty hiện nay doanh nghiệp sớn nhất là 4 năm, muộn nhấ là gần 2 năm như công ty xe khách Hải Phòng chuển hoá sở hữu từ đầu năm 1996.
Tuy mới hoạt động theo luật Công ty một thời gian rất ngắ song các doanh nghiệp đã thể hiện tính hiệu quả cảu cổ phần hoá trên một số các hoạt động của doanh nghiệp.
Về kinh tế;
Một số các chỉ tiêu cơ bản của các DNNN cổ phần hoá thành công mang tính tiêu biểu tịa TPHCM (nguồn số liệu: cục thuế TPHCM 1996)
- Công ty cổ phần cơ điện lạnh (vốn điều lệ sau cổ phần hoá là:16 tỷ đồng )
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Trước cổ phần hoá
Sau cổ phần hoá
1992
1993
1994
1995
1996
Doanh thu
Triệu đồng
42000
45000
77000
214000
277.000
Nộp Ngân sách
2570
5437
13126
48.000
61.000
Lãi
6800
73000
11300
21.300
15.000
Thu nhập bình quân Người / tháng
1000đồng
774
1200
1400
1.500
1.800
Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (vốn điều lệ sau cổ phần hoá là 6.207.655đồng)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Trước cổ phần hoá
Sau cổ phần hoá
1992
1993
1994
1995
1996
Doanh thu
Triệu. đ
11.120
16.530
24.134
47.538
64.046
Nộp Ngân sách
3.336
3750
8.700
16.530
25.117
Lãi
3.400
3.700
8.800
15.200
23.000
Thu nhập bình quân người/tháng
1000đồng
850
900
1200
1.400
2.000
Công ty giầy Hiệp An (vốn điều lệ sau cổ phần hoá là 4.793.026.855 đồng)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Trước cổ phần hoá
Sau cổ phần hoá
1993
1994
1995
1996
Doanh thu
Triệu đồng
11.200
13.493
18.624
25.639
Nộp Ngân sách
2.100
2.800
5.200
8.100
Lãi
1000đồng
2.718
3.152
5.412
7.918
Thu nhập bình quân người/tháng
420
470
850
1.200
Các Công ty như xe khách Hải Phòng vốn điều lệ 486 triệu động vào đầu năm 1996 chỉ sau một năm hoạt động theo luật Công ty đã đạt được (trên 2,16 tỷ đồng). Lao động của Công ty chế biến hàng xuất khẩu long an từ 900 công nhân lên 1.610 công nhân, Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển từ 60 lên 270 Công ty điện lạnh tăng lên 100%. Hỗu hết đời sống công nhân đảm bảo tổ chức công đoàn phấn khởi. Về phía Nhà nước thu được ở các Công ty cổ phần này trên 20 tỷ đồng từ tiền bán cổ phần, lơn tức cổ phầ của Nhà nước tại các Công ty từ các lãi xuất của tổng số trên cho công nhân vay mua cổ phiếu. Song vấn đề quyết định nhất là Nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo điều nhất là Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo điều tiết ở các Công ty cổ phần này vf toạ điều kiện cho nó phát triển đúng hướng.
Về các mặt khác
Từ kết quả cổ phần hoá, hàng năm Nhà nước không còn tốn một khoản ngân sách lớn để bù đắp cho các DNNN thua lỗ, cán cân thu chi của Nhà nước được cân bằng hơn nguồn thu của ngân sách Nhà nước từ các DNNN được thay bằng nguồn cổ tức được chia từ các Công ty cổ phần có vốn của Nhà nước. Hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước được hoàn chỉnh và gắn bó bới mục tiêu nền kinh tế. Chính cơ chế toạ chuyên môn hoá dẫn đến sự thay đổi tất yếu về trình độ quản lý đạt mức cao. Nhà nước có điều kiện quản lý nền kinh tế thiông qua hệ thống thuế cổ phần hoá đã đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời bằng các bằng việc ra mắt uỷ ban chứng khoán quốc gia vừa qua làm cơ sở để Nhà nước kiểm soát lạm phát. lượng tiều lưu thông trong xã hội trong tương lai lại gần sẽ chuyển một phần vào thị trường vốn, thực hiện tái đầu tư trên diện rộng hoặc tập trung vốn giải quyết các công trình trọng điểm.
Thông qua cổ phần hoá tổ chức bộ máy của các doanh nghiệp đã được nâng lên mức chuẩn các chức vụ gắn liền với khả năng trình độ, doanh nghiệp có điều kiện áp dụng những điều kiện mới trong quản trị.
Đối với người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá thì khái niệm là chủ đã gần đúng nghĩa họ vừa là ngườichủ vừa là người thợ (Thợ hưởng phí lao động, chủ hưởng cổ tức hàng năm). Thái độ làm việc gắn liền với những quyền lợi họ được hưởng những hiện tượng và hành vi tiêu cực trước đây đã không còn chỗ để tồn tại
Những tồn tại và nguyên nhân của nó trong giai đoạn đầu thí điểm cổ phần hoá
Cổ phần hoá một bộ phận DNNN là một chủ trương có từ QĐ 217/HĐBT(11/87). Sau đó là quyết định 202/CT 8/6/92 của chủ tịch hội đồng bộ truởng (nay là thủ tướng chính phủ) “… Tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần” và QĐ 203/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT quy đinh danh sách 8 doanh nghiệp Nhà nước được chọn để chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần. Chỉ thị 84/TTG ngày 4/3/1993 của thủ tướng chính phủ xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoác hình thức sở hữu đối với DNNN.
Các doanh nghiệp được cổ phần hoá đều ó quy mô nhỏ, giá trị doanh nghiệp từ 2-16 tỷ các doanh nghiệp chủ yếu là hàng gia công dịch vụ tập trung ở khu vực TPHCM 8 doanh nghiệp thuộc diện Chính phủ chỉ đạo thí điểm cổ phần hoá chưa được thực hiện đươCông ty, 53 tỉnh thành phố trực thuộc TW và gần 10 bộ vẫn đững ngoài cuộc thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN. Hiện nay còn trên 6000 DNNN trong đó số cần phải đa dạng hoá sở hữu cổ phần hoá … chiếm một tỷ trong đáng kể. Vì vậy tìm ra các nguyên nhân chủ quan khách quan làm công tác này “dẫm chân tịa chỗ” (báo cáo của Chính phủ trước quốc hội) là điều cần thiết. Những nguyên nhân chủ yếu có thể là
Về nhận thức và hành động từ các cơ quan quản lý Nhà nước: do đứng trướng 3 nguy cơ lớn cảu đất nước là nguy cơ di chệch hướng Xã Hội chủ nghĩa nguy cơ tụt hậu so với sự phát triển chung nguy cơ của quốc nạn tham nhũng của số cán bộ có chức có quyền cán bộ các cấp còn rất dè dặt trong việc chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Vì cổ phần DNNN sẽ chuyển từ hình thức sỡ hữu Nhà nước sang hình thức sỡ hữu có một phần của Nhà nước nhiều ngưòi muốn “thế thủ” tốt nhất là không hăng hái trong công tác để chánh đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Người lãnh đạo (đầu tầu) đã không hăng hái thì không chuyển động được các (toa sau) phía sau.
+ Đối với các doanh nghiệp người lãnh đạo (chánh, phó giám đốc) hầu hết là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần dễ gf giữ được chức vụ đó trước đại hội cổ đông. Vì thế họ không muốn cổ phần hoá và không chịu cổ phần hoá DNNN; và khi cổ phần hoá lao động còn được làm việc “an toàn” và giữ vững “ghế” tránh được nguy cơ đi chệch hướng Xã Hội chủ nghĩa thượng sách là không sẵn tay áo lao vào công tác này.
* Khung pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ: chủ trương lớn của Đảng Nhà nước mới chỉ dừng lại ở một quyết định một chỉ thị của thủ tướng chính phủ, các ngành các cấp thiếu hoặc rất chậm trọng triển khai hướng dẫn các cơ quan chỉ đạo tức là mới hành động về hành chính, trong khi cổ phần hoá cần một loạt các quy địn của các ngành luật như luật hành chính, lao động màđến nay chưa có nên dẫn đến sự nhất quán trong thi hành, các điều của cơ chế thị trường dành cho hoạt động này còn thiếu tạo ra sự lúng túng trong quá trình chỉ đạo thí điểm cổ phần hoá, đặc biệt là sử lý các vấn đề có tính kỹ thuật nghiệp vụ ở cơ sở.
* Hình thức cổ phần hoá DNNN còn sơ sài đơn giản chưa mang tính đa dạng trong khi đó các loại hinh doanh nghiệp ở các vùng, các ngành có tính đặc thù riêng. Do đó nhiều doanh nghiệp ở các vùng các ngành có tính đặc thù riêng. Do đó nhiều doanh nghiệp muốn chuyển sang Công ty cổ phần nhưng chưa có hình thức chỉ đạo thiết ứng
Sự phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh (kể cả Công ty cổ phần) còn nặng nề trong nhận thức lẫn thực tế thực hiện.
DNNN được ưu ái (bao cấp) khá đậm nét về địa điểm, vốn, tín dụng… đặc biệt là kết quả kinh doanh nếu lỗ mất vốn… Nhà nước vẫn còn gánh chịu. Cá nhân (chính phó giám đốc) có mất cúng chỉ bị mất chức thậm chí còn được chuyển lên chức vụ cao hơn. Trong khi Nhà nước mất bạc tỷ thì họ cũng chỉ mất (hoặc tăng) chức nhưng đã “ăn đủ” cho cá nhân, công nhân viên DNNN, ngoài lương họ còn được thưởng và các quyền lợi khác mà họ không phải bỏ vốn.
Chuyển Công ty cổ phần; nhiều ý kiến chỉ chọn và đưa ra những doanh nghiệp không có hiệu quả hoặc lỗ những doanh nghiệp lãi có nguồn thu lớn phải giữ cho Nhà nước. có nghĩa là đã đưa ra thị trường “bán” các loại “hàng” thiu thối. Vì thế khó có người mua. Đã vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần, họ tưởng như Nhà nước mất tài sản do đó họ nâng tìa sản lên quá mức thị trường kết quả là các DNNN đưa ra cổ phần hoá sau một thời gian tranh cãi tốn phí tiền của, nhân lực… nhưng lại bỏ đó. Mặt khác nếu chuyển sang Công ty cổ phần doanh nghiệp còn chịu khá nhiều những “hắt hủi ” của doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà trong chính sách của Nhà nước khôngcó, nhưng trong thực tế lại này sinh như tín dụn, thuế, giá trị tài sản…
* Thói quen hùn vốn vào Công ty cổ phần để kinh doanh trong nhân dân ta chưa có đặc biệt là ở các tỉnh phía Bắc họ thà cất (vàng, ngoại tệ) gửi tiền tiết kiểm sinh lời hoặc mua bất động sản sẽ an toàn hơn là mua cổ phần doanh nghiệp. Đặc biệt đây là những đồng tiền gom góp mồ hôi nước mắt mới dành được.
Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong các DNNN chuyển sang Công ty cổ phần chưa nhiều, chưa có sự hấp dẫn cần thiết đẻ họ hăng hái trong hoạt động này. Nhà nước cũng phải có chính sách đãi ngộ thích đáng cho các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần thì mới tạo ra động lực trong từng doanh nghiệp để thúc đẩy công tác này phát triển đúng hướng. Bên cạnh sự khuyến khích lợi ích vật chât cũng cần có thái độ rứt khoát các với các loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước không cần đầu tư 100% vốn để có kế hoạch cụ thể từng bước chuyển DNNN sang Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp tư nhân tạo ra sự phát triển nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân
Thủ tục hành chính quá ư rườm rà và tốn kém. Một phần DNNN trị giá 2 tỷ bạc chuyển sang Công ty cổ phần mà hàng chucj đoàn cán bộ đến nghiên cứu soát xét, kiểm tra,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0585.doc