Với mỗi mẻcâu sửdụng từ400 đến 450 ưỡi câu, có thểthấy năng suất khai thác (CPUE
– kg/100 lưỡi câu) trong cả2 chuyến khảo sát là ương đối thấp, trung bình đạt 8,77 ởvụnam và
10,67 ởvụbắc. Mẻcâu có CPUE cao nhất ghi nhận được trong vụnam chỉ đạt 32,42 tại trạm
số1 và trong vụbắc đạt 29,63 tại trạm số30. Riêng nhóm cá ngừ đại dương là đối tượng
chính của nghềcâu cũngchỉcó CPUE trung bình đạt 1,5 trong vụnam và 0,7 trong vụbắc
đối với cá ngừvây vàng, tương ứng là 0,96 và 1,49 đối với cá ngừmắt to. Trong khi đó CPUE
rung bình của các nhóm cá khác đạt 6,32 ởvụnam và 8,48 ởvụbắc (bảng 2).
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành phần loài, sản lượng và đặc điểm sinh học một số loài cá nổi lớn đại dương trong các chuyến điều tra khảo sát năm 2008 tại vùng biển xa bờ miền Trung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389
381
_______
Thành phần loài, sản lượng và đặc điểm sinh học
một số loài cá nổi lớn đại dương trong các chuyến điều tra
khảo sát năm 2008 tại vùng biển xa bờ miền Trung
Đoàn Bộ1,*, Trần Chu2, Lê Hồng Cầu2, Trần Liêm Khiết2, Phạm Quốc Huy2
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2Viện Nghiên cứu Hải Sản
Nhận ngày 25 tháng 11 năm 2009
Tóm tắt. Kết quả 2 chuyến điều tra khảo sát nghề cá và nguồn lợi cá nổi lớn đại dương trên các
tàu câu vàng trong năm 2008 tại vùng biển xa bờ miền Trung cho thấy:
1) Thành phần các loài cá nổi lớn đại dương đã bắt gặp trong các mẻ câu tương đối đơn giản,
gồm gồm 30 loài (trong đó có 5 loài thuộc họ cá thu ngừ) thuộc 22 giống, 13 họ. Không thấy có sự
khác biệt đáng kể về số lượng loài bắt gặp tại cùng một khu vực và trong 2 mùa gió.
2) Sản lượng và năng suất khai thác trong các chuyến điều tra không cao, trong đó sản lượng
họ cá thu ngừ chỉ chiếm từ 23-29% tổng sản lượng với CPUE trung bình dao động trong khoảng
0,7-1,5 kg/100 lưỡi câu.
3) Đã bắt gặp 6 loại thức ăn trong thành phần thức ăn của cá ngừ đại dương, chủ yếu gồm cá
và mực. Có khoảng 50% cá thể bắt được có độ no dạ dày bậc 2. Quan hệ giữa chiều dài và trọng
lượng của các cá thể khá chặt chẽ và không nằm ngoài quy luật tự nhiên với hệ số tương quan đạt
trên 0,9.
Từ khóa: Đặc điểm sinh học, Cá nổi lớn đại dương, Vùng biển xa bờ.
1. Mở đầu
Cá ngừ đại dương thuộc nhóm cá nổi lớn, là
đối tượng được quan tâm hàng đầu trong hoạt
động khai thác hải sản xa bờ ở Việt Nam. Theo
số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn [1], hàng năm sản lượng khai
cá ngừ đại dương ở Việt Nam đạt cỡ 10000 tấn,
tương đương giá trị gần 1000 tỷ đồng. Hiện tại,
việc vươn khơi khai thác xa bờ đã và đang được
sự khuyến khích đầu tư của Nhà nước và đã trở
thành các hoạt động phổ biến của ngư dân, nhất
là ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh
Hòa.
Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-35586898.
E-mail: bodv@vnu.edu.vn
Hiển nhiên hoạt động khai thác xa bờ ngoài
những đòi hỏi về trang thiết bị kỹ thuật và lực
lượng lao động phù hợp còn rất cần sự đóng
góp của khoa học nghề cá. Cho đến nay, mặc dù
đã có những nghiên cứu nhất định về nghề cá
xa bờ và các đối tượng khai thác của nó, song
để có thể tiến tới xây dựng những dự báo ngư
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 382
trường phục vụ khai thác hiệu quả thì những
thông tin trong lĩnh vực này vẫn đang là vấn đề
thời sự đòi hỏi phải tiếp tục được bổ sung.
Với mục đích cung cấp và cập nhật thông
tin cho kho tư liệu hiện có, bài báo này giới
thiệu một số kết quả mới nhất nghiên cứu đặc
trưng sinh học một số loài cá nổi lớn đại dương,
chủ yếu là 2 loài cá ngừ vây vàng (Thunnus
albacares) và ngừ mắt to (Thunnus obesus)
thuộc họ cá thu ngừ (Scombridae) ở vùng biển
xa bờ miền Trung. Đây là một trong những nội
dung nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước
KC.09.14/06-10 Ứng dụng và hoàn thiện qui
trình công nghệ dự báo ngư trường phục vụ
khai thác hải sản xa bờ” thuộc Chương trình
Khoa học công nghệ Biển KC.09/06-10.
2. Tài liệu và phương pháp
Trong năm 2008, đề tài KC.09.14/06-10 đã
triển khai 2 chuyến khảo sát (tháng 5,6 và tháng
11,12) đại diện cho 2 mùa gió trên các tàu câu
vàng tại vùng biển xa bờ miền Trung với tổng
số 33 lượt trạm cho mỗi chuyến (hình 1). Tại
mỗi trạm, ngoài việc thực hiện khảo sát hải
dương học, đã tiến hành thả một mẻ câu
(khoảng 10-12 giờ) để thu thập số liệu liên quan
về nguồn lợi và các đặc điểm sinh học, sinh thái
một số đối tượng cá ngừ. Các dụng cụ cân,
thước, dao kéo mổ, bao bì, chai lọ, formaline cố
định mẫu... và các biểu bảng ghi chép hiện
trường (theo quy cách của Viện Nghiên cứu Hải
Sản) được chuẩn bị đầy đủ để thực hiện các
công việc chuyên môn trên biển và bảo quản
mẫu.
Độ no dạ dày của cá được xác định theo
thang 5 bậc của Nikolsky (1963) [2]. Cá được
coi là no khi có độ no dạ dày từ bậc 3 trở lên.
Đối với các cá thể có độ no dạ dày từ bậc 1, đã
tiến hành thu mẫu dạ dày, ghi chép các thông
tin cần thiết và bảo quản trong formaline 7-
10%. Mẫu dạ dày được xử lý bằng cách cân
toàn bộ và cân riêng lượng thức ăn và phân tích
thành phần thức ăn trên kính soi nổi.
Độ chín muồi sinh dục của cá được xác
định theo thang 6 bậc của Nikolsky (1963) [2].
Cá có độ chín muồi sinh dục ở giai đoạn IV trở
lên được coi là thành thục. Đối với các cá thể
(con cái) thành thục, đã tiến hành cân toàn bộ
buồng trứng, sau đó lấy mẫu ở 3 vị trí khác
nhau trên buồng trứng (phần đầu, phần giữa và
phần cuối), mỗi vị trí lấy khoảng 1gam. Cân
mẫu và tách rời trứng khỏi màng buồng trứng
trong đĩa petri chứa nước. Đếm số lượng trứng
trong mẫu bằng buồng đếm trên kính soi nổi.
Trứng cá được chia theo đường kính thành hai
loại, loại lớn (≥ 3mm) và loại nhỏ (< 3mm).
Tương quan chiều dài và trọng lượng của cá
được xác định theo phương pháp hồi quy lặp
(Iterative Non-linear Regression) với phương
trình dạng W=a.Lb, trong đó W là trọng lượng
(kg) và L là chiều dài (cm) của cá, a là hằng số
tỷ lệ, b là hệ số sinh trưởng [3].
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 383
Hình 1. Sơ đồ mạng trạm trong các chuyến khảo sát năm 2008.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Đặc điểm thành phần loài
Trong chuyến khảo sát tháng 5, 6 năm 2008
đã bắt gặp 26 loài thuộc 20 giống, 12 họ, trong
đó họ cá thu rắn (Gempylidae) có tần suất bắt
gặp 84,85%, họ cá hố ma (Alepisauridae)
66,67%, họ cá đuối (Dasyatidae) 39,39% và họ
cá thu ngừ (Scombridae) 39,39%. Trong số 4
loài thuộc họ cá thu ngừ bắt gặp được, loài cá
ngừ vây vàng (Thunnus albacares) có 8 cá thể
(24,24%) và loài cá ngừ mắt to (Thunnus
obesus) có 3 cá thể (9,09%). Các dẫn liệu tương
tự thu được trong chuyến khảo sát tháng 11, 12
năm 2008 là: bắt gặp 15 loài thuộc 12 giống, 9
họ, trong đó họ cá thu rắn có tần suất bắt gặp
94,44%, họ cá hố ma 38,89%, họ cá vền
(Bramidae) 38.89%, họ cá thu ngừ 38.90% và
họ cá đuối 22.23%. Cũng chỉ bắt gặp 4 loài
thuộc họ cá thu ngừ, trong đó loài cá ngừ vây
vàng có 2 cá thể (11,11%) và loài cá ngừ mắt to
có 3 cá thể (16,67%) – bảng 1.
Có thể thấy tổng số loài bắt gặp được trong
các chuyến khảo sát năm 2008 không nhiều,
gồm 30 loài (trong đó có 5 loài thuộc họ cá thu
ngừ) thuộc 22 giống, 13 họ, đồng thời cũng
không có sự khác biệt đáng kể (không quá
12%) về số lượng loài bắt gặp tại cùng một khu
vực (trạm khảo sát) trong 2 mùa gió. Trong khi
đó, số liệu thống kê từ các đợt khảo sát xa bờ
trước đây [1] cho thấy, đã bắt gặp 106 loài
thuộc 72 giống, 44 họ và thành phần giống, loài
có sự khác biệt khá rõ theo mùa vụ. Cụ thể,
trong mùa gió tây nam đã bắt gặp 99 loài thuộc
66 giống, 41 họ, trong khi vào mùa gió đông
bắc các giá trị tương ứng chỉ là 39 loài, 25
giống, 16 họ.
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 384
Bảng 1. Thành phần loài và sản lượng khai thác trong các chuyến khảo sát năm 2008
Khảo sát tháng 5, 6/2008 Khảo sát tháng 11, 12/2008
TT
Tên họ và loài bắt gặp
Sản
lượng
(kg)
% so
với
sản
lượng
Tần
suất bắt
gặp (%)
Sản
lượng
(kg)
% so
với
sản
lượng
Tần
suất bắt
gặp (%)
1 Alepisauridae 192,55 14,78 66,67 62,10 8,16 38,89
1 Alepisaurus ferox 192,55 14,78 66,67 62,10 8,16 38,89
2 Alopiidae 100,00 7,68 3,03
2 Alopias superciliosus 100,00 7,68 3,03
3 Bramidae 47,65 3,66 30,30 62,10 8,16 38,89
3 Brama brama 5,10 0,39 3,03
4 Brama orcini 0,80 0,06 3,03
5 Brama sp 1,45 0,11 6,06
6 Taractichthys longipinnis 20,30 1,56 6,06 49,10 6,45 27,78
7 Taractichthys steindachneri 20,00 1,54 12,12 13,00 1,71 11,11
4 Caracanthidae 56,00 4,30 3,03
8 Prionace glauca 56,00 4,30 3,03
5 Carcharhinidae 2,95 0,23 6,06 5,50 0,72 5,56
9 Carcharhinus brachyurus 2,95 0,23 6,06
10 Carcharias Tricuspidatus 5,50 0,72 5,56
6 Coryphaenidae 1,90 0,15 6,06 3,00 0,39 5,56
11 Coryphaena hippurus 1,90 0,15 6,06 3,00 0,39 5,56
7 Dasyatidae 50,52 3,88 39,39 14,70 1,93 22,23
12 Dasyatis bennetti 8,15 0,63 9,09
13 Dasyatis kuhlii 8,30 0,64 6,06 10,20 1,34 16,67
14 Dasyatis sinensis 2,80 0,21 3,03 4,50 0,59 5,56
15 Himantura fai 31,27 2,40 21,21
8 Gempylidae 354,26 27,21 84,85 350,40 46,03 94,44
16 Gempylus serpens 307,46 23,61 66,67 190,30 25,00 94,44
17 Lepidocybium flavobrunneum 23,40 1,80 9,09 160,10 21,03 66,67
18 Promethichthys prometheus 1,30 0,10 3,03
19 Ruvettus pretiosus 0,80 0,06 3,03
20 Thyrsitoides marleyi 21,30 1,64 3,03
9 Lampridae 25,00 1,92 3,03 77,00 10,11 11,11
21 Lampris guttatus 25,00 1,92 3,03
22 Lampris sp 77,00 10,11
10 Scombridae 384,25 29,50 39,39 178,00 23,39 38,90
23 Acanthocybium solandri 18,00 1,38 3,03 4,00 0,53 5,56
24 Katsuwonus pelamis 2,15 0,17 3,03
25 Thunnus alalunga 16,50 2,17 5,56
26 Thunnus albacares 222,10 17,05 24,24 50,00 6,57 11,11
27 Thunnus obesus 142,00 10,90 9,09 107,50 14,12 16,67
11 Sphyraenidae 8,50 0,65 3,03
28 Sphyraena jello 8,50 0,65 3,03
12 Xiphiidae 78,80 6,05 18,18
29 Xiphias gladius 78,80 6,05 18,18
13 (Chưa xác định) 8,50 1,12 11,11
30 (Cá phướn ?)* 8,50 1,12 11,11
Cộng 1302,38 100,00 761,30 100,00
* Chi chú: Tiêu bản lưu tại Viện Hải dương học, Nha Trang.
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 385
3.2. Sản lượng và năng suất khai thác
Tổng sản lượng đánh bắt trong chuyến khảo
sát tháng 5, 6 năm 2008 là 1302,38 kg, trong đó
cá ngừ vây vàng 222,10 kg chiếm 17,05%, cá
ngừ mắt to 142 kg chiếm 10,90%. Trọng lượng
trung bình cá thể ngừ đại dương là 30,34 kg,
lớn nhất 68 kg, nhỏ nhất 3,5 kg. Trong 33 trạm
ở chuyến khảo sát này chỉ có 11 trạm bắt được
cá ngừ đại dương, mỗi trạm 01 cá thể. Các dẫn
liệu tương tự cho chuyến khảo sát tháng 11, 12
năm 2008 bao gồm: tổng sản lượng 761,3 kg,
trong đó cá ngừ vây vàng 50kg (6,57%), cá ngừ
mắt to 107,5 kg (14,12%), cá ngừ vây lưng dài
(Thunnus alalunga) 16,5 kg (2,17%) – bảng 1,
hình 2. Trọng lượng trung bình cá thể của nhóm
cá ngừ đại dương trong chuyến khảo sát này là
25,4 kg, lớn nhất 45,4 kg, nhỏ nhất 9,5 kg và
chỉ có 5/18 trạm bắt được chúng.
222.1
50
272.1
142 107
249
0 16.5 16.5
587.8
1526.1
1302.4
761.3
2063.7
938.3
0
500
1000
1500
2000
Tháng 5-6/2008 Tháng 11-12/2008 Tổng 2 chuyến
Sản lượng (Kg)
Ngừ vây vàng Ngừ mắt to
Ngừ vây lưng dài Cá khác
Tổng
Hình 2. Sản lượng đánh bắt cá ngừ trong hai chuyến điều tra năm 2008.
Với mỗi mẻ câu sử dụng từ 400 đến 450
lưỡi câu, có thể thấy năng suất khai thác (CPUE
– kg/100 lưỡi câu) trong cả 2 chuyến khảo sát là
tương đối thấp, trung bình đạt 8,77 ở vụ nam và
10,67 ở vụ bắc. Mẻ câu có CPUE cao nhất ghi
nhận được trong vụ nam chỉ đạt 32,42 tại trạm
số 1 và trong vụ bắc đạt 29,63 tại trạm số 30.
Riêng nhóm cá ngừ đại dương là đối tượng
chính của nghề câu cũng chỉ có CPUE trung
bình đạt 1,5 trong vụ nam và 0,7 trong vụ bắc
đối với cá ngừ vây vàng, tương ứng là 0,96 và
1,49 đối với cá ngừ mắt to. Trong khi đó CPUE
trung bình của các nhóm cá khác đạt 6,32 ở vụ
nam và 8,48 ở vụ bắc (bảng 2).
3.3. Đặc điểm dinh dưỡng, sinh sản và sinh trưởng
Kết quả phân tích mẫu dạ dày thu được
trong cả 2 chuyến khảo sát đối với hai loài cá
ngừ vây vàng và mắt to cho thấy, cá có độ no
bậc 2 chiếm ưu thế (45%), tiếp theo là độ no
bậc 1 (25%), bậc 3 (15%) và bậc 4 (15%).
Trong các mẫu này đã bắt gặp 6 loại thức ăn
khác nhau, trong đó cá và mực chiếm ưu thế về
số lượng (60-80%), các loại khác có số lượng
mỗi loại không nhiều - là những thức ăn không
ưa thích hoặc bị bắt ngẫu nhiên. Có thể thấy
thành phần thức ăn như trên là tương đối phong
phú bởi cá ngừ đại dương là loài cá nổi lớn
thuộc nhóm cá dữ, có tính chọn lọc thức ăn cao
và di chuyển nhanh để bắt mồi.
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 386
Kết quả phân tích còn cho thấy không có sự
khác biệt đáng kể về thành phần thức ăn giữa 2
loài cá ngừ vây vàng và mắt to và giữa 2 mùa
vụ. Dựa vào kết quả phân tích đã đưa ra chỉ số
tần xuất bắt gặp các loại thức ăn của cá ngừ như
hình 3. Chỉ số càng lớn thể hiện tính lựa chọn
thức ăn càng cao.
Đa phần cá thể cá ngừ đại dương bắt gặp
trong các chuyến khảo sát năm 2008 có độ chín
của tuyến sinh dục ở giai đoạn III, IV và V.
Nhìn chung sức chứa trứng tuyệt đối của cá ngừ
vây vàng có xu hướng tăng theo trọng lượng cơ
thể, dao động tương đối lớn từ 3,3 đến 18,7
triệu trứng, trung bình 12,4 triệu trứng. Trong
các mẫu phân tích, trứng có kích thước lớn (≥
3mm) dao động từ 0,7 đến 15 triệu trứng, trứng
nhỏ 2,6 - 5,8 triệu trứng (hình 4). Do không thu
được mẫu trứng cá ngừ mắt to nên không có
ước tính sức chứa trứng của loài cá này.
Bảng 2. CPUE (kg/100 lưỡi câu) của một số đối tượng tại các trạm khảo sát.
Khảo sát tháng 5-6/2008 (33 trạm) Khảo sát tháng 11-12/2008 (18 trạm) Trạm
số Cá ngừ vây vàng
Cá ngừ
mắt to Cá khác
CPUE
Chung
Cá ngừ
vây vàng
Cá ngừ
mắt to Cá khác
CPUE
Chung
1 9,33 23,09 32,42
2 8,74 8,74
3 0,33 0,33
4 15,40 15,40
5 2,80 2,80 5,89 5,89
6 14,44 14,44 11,83 11,83
8 11,56 5,36 16,91
9 4,63 4,63 10,70 10,70
10 0,00 0,00 11,88 11,88
11 15,11 0,67 15,78
12 4,78 4,78 15,40 15,40
13 6,39 6,39 6,85 6,85
15 7,31 7,31
16 11,29 11,29 9,25 2,55 11,80
17 3,51 3,51 1,75 1,75
18 0,18 0,18
19 0,80 0,80 4,13 4,13
20 2,67 2,67 10,28 10,28
22 8,44 4,31 12,76
23 4,00 2,67 6,67 9,15 9,15
24 3,31 3,31 4,00 4,00
25 1,10 1,10
26 8,00 14,98 22,98 6,28 15,75 22,03
27 0,62 0,62 11,35 8,80 20,15
29 24,33 24,33
30 7,67 3,67 11,33 10,13 19,5 29,63
31 6,00 1,16 7,16 6,30 6,30
32 4,18 7,40 11,58
33 2,40 0 2,40 2,38 0,75 3,13
34 6,17 6,17 7,23 7,23
36 14,93 14,93
37 6,66 6,66
38 4,22 4,82 9,04
T.B. 1,50 0,96 6,32 8,77 0,7 1,49 8,48 10,67
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 387
Nhuyễn thể
5%
Mực
20%
Polychaeta
15%
Cá
15%
Thức ăn khác
25%Heterocarpus sp.
20%
Hình 3. Giá trị trung bình tần số xuất hiện thức ăn trong dạ dày cá ngừ.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3
Triệu trứng Trứng loại nhỏ
Trứng loại lớn
Hình 4. Sức chứa trứng tuyệt đối theo kích thước trứng của loài cá ngừ vây vàng.
Chiều dài và trọng lượng các cá thể cá ngừ
vây vàng và mắt to bắt gặp trong các chuyến
khảo sát có sự khác nhau đáng kể. Giữa chiều
dài cực đại và cực tiểu (tính đến chẽ vây đuôi)
của từng đối tượng mặc dù khác nhau không
nhiều (từ 1,1 đến 2,7 lần), song trọng lượng cực
đại và cực tiểu của chúng lại hơn kém nhau từ
1,8 đến 14,8 lần (bảng 3). Tuy nhiên có thể thấy
được tỷ lệ giữa các giá trị tương ứng có trong
bảng 3 đối với 2 loài cá và trong 2 mùa không
có sự khác biệt quá nhiều (trừ tỷ lệ của các giá
trị cực tiểu). Điều này cho thấy không có biểu
hiện khác biệt rõ nét về vai trò của habitat và
tác động của nó đến lứa tuổi của hai loài này
[4].
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 388
Bảng 3. Giá trị thống kê chiều dài và trọng lượng cá ngừ vây vàng và mắt to trong 2 chuyến khảo sát
Chiều dài (cm) Trọng lượng (kg)
Tên loài
Trung bình
Max
Min
Tỷ lệ
Max/Min Trung bình
Max
Min
Tỷ lệ
Max/Min
Trong chuyến khảo sát tháng 5, 6 năm 2008
Cá ngừ vây vàng (1) 106,7 145 53 2,74 24,7 52 3,5 14,86
Cá ngừ mắt to (2) 136 161 120 1,34 47,3 68 36 1,89
Tỷ lệ (2)/(1) 1,27 1,11 2,26 - 1,92 1,31 10,29 -
Trong chuyến khảo sát tháng 11, 12 năm 2008
Cá ngừ vây vàng (3) 82,8 107 65 1,65 25.0 40,5 9,5 4,26
Cá ngừ mắt to (4) 128 134 120 1,12 35,8 45,4 25 1,82
Tỷ lệ (4)/(3) 1,55 1,25 1,85 - 1,43 1,12 2,63 -
Với hầu hết các loài cá, giữa chiều dài và
trọng lượng luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Điều
này đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập
đến [3]. Trong nghiên cứu này, mặc dù số
lượng mẫu không nhiều, song mối quan hệ nêu
trên cũng không nằm ngoài quy luật vốn có với
hằng số tỷ lệ a=0,00009, hệ số sinh trưởng
b=2,6087, được thể hiện trên hình 5 với hệ số
tương quan khá cao (R2>0,9).
4. Kết luận
Thành phần loài cá nổi lớn đại dương trong
cả 2 chuyến khảo sát năm 2008 khá đơn giản,
gồm 30 loài (trong đó có 5 loài thuộc họ cá thu
ngừ) thuộc 22 giống, 13 họ, đồng thời cũng
không có sự khác biệt đáng kể về số lượng loài
bắt gặp tại cùng một khu vực và trong 2 mùa
gió.
Sản lượng và năng suất khai thác trong các
chuyến khảo sát nêu trên không cao, trong đó
sản lượng họ cá thu ngừ chỉ chiếm từ 23-29%
tổng sản lượng với CPUE trung bình dao động
trong khoảng 0,7-1,5 kg/100 lưỡi câu. Trong
tổng số 51 mẻ câu đã thực hiện trong cả 2
chuyến, chỉ có 4 mẻ câu có CPUE của họ cá thu
ngừ đạt trên 10 kg/100 lưỡi câu.
Đã bắt gặp 6 loại thức ăn trong thành phần
thức ăn của cá ngừ đại dương, chủ yếu gồm cá
và mực. Có khoảng 50% cá thể bắt được có độ
no dạ dày ở bậc 2.
Quan hệ giữa chiều dài và trọng lượng của
các cá thể khá chặt chẽ và không nằm ngoài quy
luật tự nhiên với hệ số tương quan khá cao
(R2>0,9).
Cá Ngừ vây vàng (Thunnus albacares) - n = 9
W = 9E-05 L2.6087
R2 = 0,97
0
10
20
30
40
50
60
0 50 100 150 200 LT (cm)
W (kg)
Hình 5. Tương quan giữa chiều dài toàn thân và
trọng lượng của cá ngừ vây vàng.
Tài liệu tham khảo
[1] Đinh Văn Ưu và nnk, Xây dựng mô hình dự báo
cá khai thác và các cấu trúc hải dương có liên
quan phục vụ đánh bắt xa bờ ở vùng biển Việt
Nam, Tuyển tập nghiên cứu nghề cá biển, T. IV,
Nxb Nông nghiệp (2006), 55.
Đoàn Bộ và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 381‐389 389
[2] G.V. Nikolsy, The ecology of fishes (Translation
of “Ekogiya ryb”), Academic Press, London and
New York, 1963.
[3] Nguyễn Xuân Huấn, Đặc điểm sinh trưởng, biến
động trữ lượng và dự báo khả năng khai thác
một số loài cá kinh tế ở vùng biển Bình Thuận-
Ninh Thuận, Luận án Tiến sỹ sinh học, ĐHTH
Hà Nội, 1996.
[4] Đinh Văn Ưu, Đoàn Bộ, Hà Thanh Hương,
Tương quan biến động điều kiện môi trường và
ngư trường nghề câu cá ngừ đại dương ở vùng
biển khơi nam Việt Nam, Tạp chí khoa học
ĐHQG HN, tXXI, No3AP (2005) 108.
Species composition, yield and biological characteristics
of some species of ocean large pelagic fish in surveys
at offshore area of Vietnam Centre in 2008
Doan Bo1, Tran Chu2, Le Hong Cau2, Tran Liem Khiet2, Pham Quoc Huy2
1Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, College of Science, VNU
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2Research Institute for Marine Fisheries
In 2008, we were performed two surveys by longline at offshore area of Vietnam centre and have
some results:
1. Species composition of ocean large pelagic fish is very simply, include in 30 species (in which
there are 5 species in the Scomberidae family), 22 genus and 13 families. It is no relatively differed
about species composition in the two season.
2. Scomberidae family was about 23-29% of total catch and mean CPUE was about 0,7-1,5kg/100
hooks.
3. Food composition in the stomach of Yellow fin tuna and Big eye tuna consists of 6 kinds, but
primarily was fish and squid. In that, about 50% individual catched were full stomach at 2 level.
Relationship between length and weight of Yellow fin tuna and Big eye tuna is closely related, with
R2>0,9.
Keywords: Biological characteristics, Ocean large pelagic fish, Offshore area.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_thuy_van_8__6617.pdf