Vấn đề 3: Thể chế Nhà nước, những yêu cầu để hoàn thiện thể chế Nhà
nước ở nước ta hiện nay?
Trong lịch sử tư tưởng và hiện thực của nhân loại, từ khi có giai cấp, đấu
tranh giai cấp, xã hội hình thành hình thành nên Nhà nước; thì vấn đề tổ chức và
thực thi có hiệu quả quyền lực nhà nước là vấn đề khó khăn và phức tạp nhất
trong lĩnh vực chính trị. Nhà nước dù ở trong tay một nhóm người, một giai cấp
hay một liên minh giai cấp bao giờ cũng đòi hỏi phải được tổ trên cơ sở vừa tập
trung được quyền lực vừa giám sát được quyền lực, bảo đảm thể chế Nhà nước
trở thành một chủ thể thống nhất. Nhà nước - quyền lực nhà nước là quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị.
Thể chế theo nghĩa hẹp là những qui định, qui phạm, theo nghĩa rộng là các
qui định, qui phạm, nguyên tắc, luật lệ (các định chế) và các tổ chức bộ máy
quyền lực hành xử theo định chế.
Thể chế Nhà nước, trụ cột của hệ thống tổ chức quyền lực cần được xem
xét từ hai giác độ.
- Giác độ bản chất: Thể chế nhà nước đề cập tới tính chất cai trị, điều hành
một nhà nước thông qua những biện pháp nhất định, trong đó biện pháp cưỡng
chế là biện pháp đặc quyền của nhà nước. Từ giác độ này, khi đề cập tới vấn đề
tăng cường và củng cố thể chế nhà nước cần thiết phải tăng cường pháp chế
cũng như tăng cường giáo dục đạo đức cho công dân.
- Giác độ cơ cấu: Thể chế nhà nước được xem xét từ khía cạnh tổ chức bộ
máy, định rõ các vị trí, thẩm quyền chức năng của từng cơ quan trong bộ máy
10 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 51 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thể chế nhà nước, những yêu cầu để hoàn thiện thể chế nhà nước ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thể không tự tiêu vong được, cho dù quá trình này
diễn ra hết sức lâu dài.
Quyền lực là đặc trưng cơ bản, điển hình của chính trị, là vấn đề trung
tâm của chính trị và cách mạng chính trị. Do đó, Nhà nước tập trung đầy đủ,
trực tiếp nhất của quyền lực trong xã hội chính trị. Chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại; sức mạnh quyền lực bao giờ cũng do
sức mạnh kinh tế, cái giá đỡ vật chất - kinh tế chi phối, quyết định.
Do đó, Nhà nước là sinh khí, là tính hiện thực của chính trị. Quyền lực
nhà nước là quyền lực chính trị nổi bật nhất trong những nội dung và hình
thức biểu hiện của quyền lực chính trị, của xã hội chính trị.
Những nội dung cơ bản của thể chế nhà nước bao gồm: nguyên tắc tổ chức
Nhà nước; hệ thống các cơ quan Nhà nước và nguyên tắc hoạt động của bộ máy
Nhà nước. Ở các nước có chế độ xã hội khác nhau thì có thể chế nhà nước khác
nhau. Ngoài ra, thể chế nhà nước còn phụ thuộc vào đặc điểm tình hình của phát
triển kinh tế, xã hội, truyền thống dân tộc, tương quan lực lượng giai cấp bên
trong mỗi Nhà nước.
- Về nguyên tắc tổ chức Nhà nước: Trong lịch sử thường tồn tại hai nguyên
tắc tổ chức Nhà nước khác nhau là nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc tập
quyền. Tư tưởng tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền đã có
từ thời cổ đại Hy Lạp do Aritxtốt đề xướng. Đến thời kỳ cận đại, nhà tư tưởng
Anh là J. Lốccơ và các nhà tư tưởng Pháp là Môngtetxkiơ và J.Rútxô đã tuyên
truyền nguyên tắc phân quyền. Thuyết phân quyền được hoàn chỉnh trong cuộc
đấu tranh của giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong kiến chuyên quyền độc đoán,
thiết lập quyền lực của giai cấp tư sản. Theo nguyên tắc phân quyền thì quyền
lực được phân chia thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Các
quyền này độc lập chế ước lẫn nhau (tam quyền phân lập). Trong đó có quyền
lập pháp thuộc về Quốc hội (Nghị viện ) được lập ra qua phổ thông đầu phiếu,
quyền hành pháp thuuộc về chính phủ và quyền tư pháp thuộc về tòa án.
Nguyên tắc phân quyền là một bước tiến bộ của lịch sử so với chế phong
kiến chuyên chế, nhờ đó đã hình thành thiết chế dân chủ tư sản. Tuy nhiên,
nguyên tắc này cũng bộc lộ nhiều nhược điểm do sự ngang bằng và chế ước lẫn
nhau về quyền lực giữa ba cơ quan nói trên dễ dẫn tới xung đột quyền lực trong
nội bộ bộ máy nhà nước gây mất ổn định chính trị mỗi khi chúng có sự bất đồng
nào đó.
Nguyên tắc tập quyền gắn liền với tư tưởng cho rằng quyền lực nhà nước
gắn bó với một chủ thể không thể phân chia – chủ quyền của nhân dân. Quyền
lực của nhân dân được thể hiện và thực hiện tập trung thống nhất vào một cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân đó là Quốc hội (Nghị viện). Mọi cơ quan Nhà nước khác đều do cơ
quan quyền lực nhà nước này thành lập, giao nhiệm vụ và phải chịu sự giám sát
của nó. Tất cả các Nhà nước XHCN đều tổ chức trên nguyên tắc này.
Việc tổ chức quyền lực theo nguyên tắc này đã loại bỏ được nhược điểm
của cách tổ chức Nhà nước theo nguyên tắc phân quyền ở chổ nó cho phép cơ
quan dân cử (Quốc hội) có chủ quyền toàn vẹn đối với các cơ quan nhà nước
khác (hành pháp, tư pháp). Tuy nhiên, việc vận dụng nguyên tắc tập quyền cần
phải có sự phân công thẩm quyền một cách rõ ràng, hợp lý, nhất là giữa các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có như vậy mới tránh được tổ chức bộ máy
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, quan liêu, lạm quyền, tham nhũng trong bộ
máy Nhà nước.
- Hệ thống các cơ quan Nhà nước: Bộ máy Nhà nước được tổ chức thành
hệ thống các cơ quan nhằm thực hiện các chức năng thống trị chính trị và chức
năng công quyền. Bất kỳ một Nhà nước nào cũng phải thành lập một hệ thống
các cơ quan Nhà nước, tùy theo tính chất và nội dung nhiệm vụ mà các cơ quan
Nhà nước có hình thức và hoạt động khác nhau.
Hiện nay, nhìn chung trên thế giới có các loại hình cơ quan Nhà nước sau:
+ Các cơ quan lập pháp): Quốc hội (Nghị viện), các cơ quan dân cử địa
phương (theo hệ thống dọc – Hội đồng nhân dân các cấp, ).
+ Các cơ quan hành pháp): Chính phủ, các Bộ quản lý chuyên ngành, các
ủy ban Nhà nước, các cơ quan khác thuộc chính phủ (văn phòng chính phủ, Ban
tổ chức Chính phủ), hệ thống các cơ quan hành pháp ở địa phương (ủy ban
nhân dân các cấp)
+ Các cơ quan tư pháp: hệ thống tòa án các cấp, hệ thống các cơ quan kiểm
sát (công tố), các cơ quan tư pháp khác.
Toàn bộ các cơ quan này tạo thành bộ máy Nhà nước, hoạt động của chúng
nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
- Những nguyên tắc hoạt động của Nhà nước: Căn cứ vào bản chất giai cấp,
vào sự tương quan lực lượng giai cấp trong xã hội; đồng thời căn cứ vào truyền
thống dân tộc mà mỗi Nhà nước có những nguyên tắc hoạt động khác nhau.
Song nhìn chung, hoạt động của các Nhà nước bao giờ cũng phải tuân theo các
nguyên tắc chung như sau: Bảo đảm địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền ( và
của nhân dân trong điều kiện CNXH). Đảm bảo duy trì và phát triển chế độ, trấn
áp sự phản kháng của giai cấp và các lực lượng thù địch.
Vai trò của thể chế nhà nước thể hiện ở vị trí độc quyền kiểm soát lãnh thổ,
thay mặt toàn xã hội thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, làm luật, các
hoạt động điều tiết cần thiết cho toàn xã hội, thu thuế, các khoản thu khác,
quyền kiểm soát việc chấp hành pháp luật và các chuẩn mực pháp lý khác quyền
sử dụng cưỡng bức thể chất và các hình phạt khác.
Sự phát triển của thể chế Nhà nước trong tương quan tác động của các chủ
thể chính trị diễn ra chủ yếu trong sự phát triển của các tổ chức và hoạt động
Nhà nước, trong từng cơ cấu (lập pháp, hành pháp và tư pháp) của thể chế Nhà
nước. Thực tiễn cho thấy, sự tác động của các đảng chính trị đối với Nhà nước
được hình thành trong quá trình đấu tranh chính trị lâu dài với những mục tiêu
và cơ chế tác động cụ thể. Trong quá trình đó nó đã rút ra được bài học có tính
nguyên tắc. Sau nữa, được hợp pháp hóa bằng cơ chế tác động trên cơ sở hiến
pháp của mỗi quốc gia và các đạo luật ban hành, các đảng chính trị tác động vào
tất cả các cơ quan của thể chế Nhà nước, vào lĩnh vực tổ chức, vận hành và kiểm
soát. Điều đó thể hiện trong cơ chế tác động các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp qua việc thể chế hóa mục tiêu chính trị của các đảng chính trị (cương lĩnh,
đường lối) thành hiến pháp, pháp luật; gây ảnh hưởng trong quá trình cơ quan
Nhà nước quyết định các vấn đề về luật pháp, về nhân sự, tài chính, những vấn
đề đối nội và quan hệ quốc tế
Tác động của các tổ chức chính trị - xã hội khác đối với thể chế Nhà nước ở
các giai đoạn lịch sử khác nhau có sự khác nhau, song nói chung có một số đặc
trưng phổ quát là chúng can thiệp vào xã hội từ các khía cạnh khác nhau của sự
hình thành và vận hành của thể chế Nhà nước. Sự can thiệp ở đây có thể ảnh
hưởng hoặc tích cực hoặc tiêu cực đối với Nhà nước. Sự can thiệp thường có
tính cục bộ. Nghĩa là, trước hết nó tác động đến Nhà nước từ một mục tiêu của
một nhóm lợi ích chứ không thay mặt cho toàn xã hội. Sau nữa, sự can thiệp chỉ
nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó như một sức ép để Nhà nước có thể (hoặc
không) điều chỉnh chính sách có lợi cho họ. Nhìn chung, các tổ chức xã hội,
theo quá trình phát triển của chúng, có khả năng, nhu cầu và quy mô tác động
khác nhau đến thể chế Nhà nước. Vì vậy, tham gia vào các hoạt động của hệ
thống chính trị như một cơ cấu hay đứng ngoài cơ cấu phụ thuộc vào vị trí chính
trị - xã hội của mỗi tổ chức.
Để nâng cao hiệu quả việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam chúng ta cần phải xác định rõ vấn đề Nhà nước pháp quyền
như thế nào ? Mô hình Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà
nước riêng biệt trong lịch sử mà chỉ là trình độ phát triển hiện đại của bản
thân nhà nước, một khi pháp luật được tôn trọng, được coi là tối thượng trong
quản lý nhà nước và xã hội.
Pháp luật là công cụ quan trọng bậc nhất và có vai trò quyết định trong
quản lý nhà nước. Pháp luật đồng thời kiểm soát các hoạt động của nhà nước,
cả hành vi của công chức nhà nước. Đảng Cộng sản cầm quyền thực hiện vai
trò lãnh đạo nhà nước và xã hội cũng phải hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, phù hợp với pháp luật, tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật là hình thức quy định hành lang vận
động của dân chủ, là giới hạn tất yếu của dân chủ và tự do đối với mọi chủ
thể, mọi tổ chức và mọi cá nhân công dân trong một xã hội công dân và nhà
nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền XHCN và dân chủ XHCN hướng tới mục tiêu đảm
bảo quyền làm chủ và dân chủ cho nhân dân lao động - chủ thể gốc của quyền
lực. Nhân dân lao động làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, đó là địa vị chính
trị, pháp lý của người chủ. Sự phát triển lành mạnh của nhà nước pháp quyền
và dân chủ còn đảm bảo và tạo điều kiện cho chủ thể - nhân dân lao động
phát triển các năng lực dân chủ của mình bằng cách tham gia có hiệu quả vào
hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát nhà nước của mình. Chế độ ủy quyền
của nhân dân vào nhà nước được thực hiện bởi sức mạnh dân chủ trong nhà
nước pháp quyền được thể chế hóa, chế tài hóa, nhất là chế độ trách nhiệm
của các công chức, các quan chức, các tổ chức lãnh đạo và quản lý có thẩm
quyền ra quyết định. Dân chủ và việc thực hiện dân chủ trong nhà nước pháp
quyền được đảm bảo không chỉ bởi sức mạnh của luật pháp mà còn bởi sức
mạnh của đạo đức, của văn hóa trên nền tảng của sức mạnh kinh tế.
Đó là biểu hiện sự kết hợp giữa tính pháp lý và tính nhân văn của dân
chủ, của nhà nước pháp quyền - dân chủ XHCN của dân, do dân, vì dân. Nó
đảm bảo cho quyền công dân, quyền con người được tôn trọng và thực hiện,
đảm bảo sự kết hợp giữa dân chủ với tự do, bình đẳng và công bằng xã hội
hướng vào mục tiêu phát triển con người đồng thuận với phát triển cộng đồng
xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là nhân
tố chính trị cơ bản, là giải pháp chiến lược để phát triển dân chủ, hạn chế sự
tha hoá của chính trị, khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng như một
biến dạng phản dân chủ. Đó còn là giải pháp để phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong tiến trình đổi mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong điều kiện quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một quá trình lâu dài, phải vượt qua không ít
những khó khăn, trở ngại. Đó là, lực lượng sản xuất lạc hậu, phân công lao
động xã hội theo hướng xã hội hóa, chuyên môn hóa chưa triệt để; tính tất yếu
kinh tế cho sự chín muồi của nhà nước pháp quyền chưa bộc lộ đầy đủ; nền
kinh tế đang chuyển đổi trong một xã hội đang qúa độ. Những lực cản, tàn dư
lạc hậu của cơ chế cũ và ý thức xã hội cũ còn tồn tại; trình độ dân trí thấp.
Pháp luật chưa đồng bộ, quản lý bằng pháp luật chưa thành thục; quan liêu
tham nhũng nặng nề, đạo đức xã hội đang suy thoái, một phần quan trọng bởi
mặt trái của kinh tế thị trường và những yếu kém trong quản lý - Đội ngũ
công chức chưa được đào tạo theo chuẩn mực, không thành thạo chuyên môn,
nghiệp vụ; Đảng lãnh đạo nhà nước chưa khắc phục hết những hạn chế,
nhược điểm của cách lãnh đạo hành chính, quan liêu, mệnh lệnh, can thiệp
quá sâu vào hoạt động nhà nước. Nhà nước hóa Đảng và hình thức hóa nhà
nước là một trở ngại lớn phải vượt qua.
Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành hàng trăm đạo luật,
pháp lệnh, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội góp phần rất
quan trọng vào sự phát triển và ổn định đất nước theo đường lối đổi mới của
Đảng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của nước ta nhìn chung vẫn chưa hoàn
thiện, đồng bộ; chất lượng và hiệu quả chưa cao, chưa thật sát với cuộc sống,
chưa đáp ứng với yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH, phát triển nên kinh tế thị
trường định hướng XHCN, chưa phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Nhiều qui định của luật còn thiếu cụ thể, muốn đưa vào cuộc sống
còn phải chờ đợi ban hành nhiều văn bản dưới luật. Hoạt động giám sát của
Quốc hội, của các cơ quan Quốc hội, của các đại biểu quốc hội vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu nâng cao sức mạnh của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế. Hiến pháp, pháp luật vẫn chưa thực hiện một cách nghiêm
minh, kỷ cương Nhà nước, pháp chế vẫn chưa được cũng cố vững chắc. Các
hiện tượng tiêu cực trong hoạt động Nhà nước như vô trách nhiệm, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, không tôn trọng kỷ cương, kỷ luật vẫn chưa được đẩy
lùi niềm tin của nhân dân vào Nhà nước, vào công lý vẫn có nguy cơ suy
giảm.
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN từ một Đảng lãnh đạo duy nhất với một
Chính phủ thống nhất và sự đoàn kết của toàn dân. Nội dung mà nền kinh tế
nước ta đang hướng tới là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại” như chiến lược 10 năm 2001 – 2010 của Đại hội IX đã xác định. Như vậy,
sự quản lý của Nhà nước ta không nằm ngoài những nguyên lý cơ bản về vai trò
quản lý của Nhà nước nói chung trên thế giới, song, nó có những đặc điểm kinh
tế - chính trị - xã hội khác với các nước khác. Điều đó đòi hỏi sự nhận thức, vận
dụng các qui luật kinh tế và việc xác định các cơ chế, chính sách về quản lý phải
xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nền kinh tế - chính trị - xã hội nước ta theo
những định hướng và mục tiêu đã được xác định trong từng thời kỳ cách mạng.
Hệ thống cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy quản lý và con người thừa hành
công vụ phải thúc đẩy nền kinh tế thị trường tăng trưởng mà đặc điểm của nền
kinh tế đó là đi lên từ một nền nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá và đã trảiqua nhiều năm trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp nặng nề. Do vậy sự
quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phải vừa phát huy
được thành tựu, vừa khắc phục có hiệu quả những nhược điểm, khuyết điểm của
cơ chế quản lý qua hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế để đạt mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công , dân chủ, văn minh sớm trở thành hiện thực trên đất
nước ta.
Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước
ta hiện nay, yêu cầu bức thiết là tăng cường vai trò của Đảng, phát huy tích
tích cực của nhân dân. Đảng CSVN đã chỉ rõ là:
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng giữ vững bản chất cách
mạng và khoa học, thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
nước. Trước hết là đổi mới hoạt động của Quốc hội bằng cách tập trung vào hai
lĩnh vực chủ yếu là hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát. Từng bước xây
dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật đảm bảo tính quản lý cho việc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan này. Liên quan đến vấn đề này cần: xây dựng
chương trình hợp pháp, phát huy quy trình dự án luật của đoàn thể nhân dân;
nâng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- the_che_nha_nuoc_nhung_yeu_cau_de_hoan_thien_the_che_nha_nuo.doc