Thị trường chứng khoán và các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Lời nói đầu

Mục lục

Phần I - Chứng khoán và thị trường chứng khoán

I. Chứng khoán

1. Cổ phiếu

2. Trái phiếu

3. Các loại chứng khoán khác

II. Thị trường chứng khoán

1. Khái niệm

2. Các loại chứng khoán

3. Mặt tích cực và tiêu cực

4. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán

Phần II - Thị trường chứng khoán Việt Nam

I. Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

II. Thuận lợi và khó khăn

1. Thuận lợi

2. Khó khăn

III. Các giải pháp

A. Cổ phần hoá

B. Trái phiếu chính phủ

C. Trái phiếu doanh nghiệp

D. Cơ quan quản lý

E. Hệ thống pháp lý

F. Sự tham gia của nước ngoài

G. Các tổ chức trung gian

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường chứng khoán và các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i phiếu của họ. Với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác hơn là nhà quản lí các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng hơn và có hiệu quả hơn. 3.2. Những mặt tiêu cực: 3.2.1.Yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo. 3.2.2. Mua bán nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường. 3.2.3. Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán: Luật về TTCK cũng hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu ngoài TTCK. Vì nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khôn lường. 3.2.4. Tin đồn thất thiệt: Việc phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hoạt động của một đơn vị kinh tế sẽ gây hậu quả xấu cho đơn vị. Đây là điều cấm trong hoạt động của TTCK. 3.2.5. Mua bán liên tục nhằm đầu cơ: Liên tục mua một loại cổ phiếu nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá cổ phiếu để đầu cơ. 4. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán Các đối tượng tham gia thị trường CK chia thành các nhóm:nhà phát hành,nhà đầu và các tổ chức có liên quan. 4.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty, hay các tổ chức tài chính. 4.2. Nhà đầu tư Nhà đầu tư có thể chia làn hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. 4.2.1. Các nhà đầu tư các nhân Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình. 4.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho mình. 4.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán 4.3.1. Công ty chứng khoán Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. 4.3.2. Các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. 4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 4.4.1. Cơ quan quản lý nhà nước Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 75/CP ngày 28/11/1996. 4.4.2. Sở giao dịch chứng khoán Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức SGDCK: Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của sgdck tự tổ chức và tự quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành. Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra. Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm. Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành viên của một SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều SGDCK,nhưng khi đã là thành viên của SGDCK (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại. Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban chứng khoán để điều tra xử lý. 4.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: - Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. - Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán. - Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. - Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. 4.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ. 4.4.5. Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm. Phần hai - Thị trường chứng khoán việt nam I. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD. Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau: - Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia. - Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn. - Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp. - Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng. II Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1.Thuận lợi Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đnag phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD. Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp (FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán. Trong vòng 12 năm qua, giá vàng liên tục sụt giảm và yếu tố tâm lý giữ vàng của nhân dân không còn như trước. Do vậy, người ta thường dùng tiền để gửi tiền tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu... 2. Khó khăn Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về TTCK cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hoá” cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức và các công ty chứng khoán và có uy tín hàng đầu thế giới, chúng ta đã ban hành được 2 văn bản pháp quy quan trọng là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 và Quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTCK, cũng như đào tạo được nhiều cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam, tuy nhiên lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có TTCK nên chất lượng chưa được kiểm chứng. Từ thực trạng và những thuận lợi trên đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị mọi mặt chu đáo hơn nữa, tạo ra những điều kiện tiền đề thật hoàn chỉnh để sớm cho ra đời hoạt động của TTCK Việt nam. Đây là đòi hỏi vô cùng bức xúc, khách quan cho công tác huy động nguồn lực về vốn cho nền kinh tế đất nước, phục vụ cho chủ trương CNH-HĐH mà Đảng, nhà nước đã đề ra. III. Các giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam A. Cổ phần hoá doanh nghiệp 1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành CPH ở bất cứ một DNNN nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho CBCNV trong DN cũng như những người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi công việc CPH được tiến hành. Bởi vì chủ trương CPH ở nước ta hiên nay là ưu tiên cho CBCNV trong DN cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt được những yêu cầu tối thiểu sau: - CBCNV trong DN phải ý thức một rõ ràng CPH là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải thực hiện. Trong giai đoạn này, tiến hành càng sớm thì DN càng được lợi do Nhà nước vẫn còn dành rất nhiều ưu đãi cho các DNNN tiến hành CPH. Kinh nghiệm của các DN đi trước đã được đúc kết tương đối đầy đủ. Hơn nữa CPH sớm sẽ giúp cho DN có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức SXKD, chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi chúng ta tham gia AFTA. Trông chờ, ỷ lại lúc này chính là con đường ngắn nhất dẫn đến chỗ phá sản. - Họ cũng cần hiểu rằng, CPH trước hết là vì lợi ích của các DN, của CBCNV của DN. Sau khi trở thành CTCP, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong SXKD, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống đỡ với những cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không thể tránh khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có thực lực, thực tài, những DN thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình. Còn đối với những DN yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì cũng phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn lên hoàn thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo qui luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. - Phải làm rõ cho người lao động hiểu những lợi ích mà họ được hưởng khi DN của họ tiến hành CPH. Song cũng đồng thời phải làm cho họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra để họ có cái nhìn đầy đủ toàn diện, làm cơ sở cho nỗ lực quyết tâm của họ. - Ngoài ra một vấn đề nữa cần lưu tâm giải thích là vấn đề phân định rạch ròi giữa quyền của một cổ đông với quyền của một người lao động trong DN, tránh để rơi vào tình trạng CBCNV mua cổ đông để giữ vị trí, giữ công việc. Và cũng tránh để xảy ra những rắc rối khi DNCP cần phải sắp xếp lại nhân sự sau này. Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên thì đài, báo, vô tuyến truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên để công tác tuyên truyền thực sự đi sâu, đi sát với CBCNV thì cần phải có nhiều biện pháp khác, sát sườn hơn. ở đây chúng tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm mà nhiều DN đã áp dụng tốt. Đó là việc cung cấp cho CBCNV trong DN những văn bản, có nội dung liên quan trực tiếp đến chủ trương CPH. Sau đó tổ chức các buổi nói chuyện có mời các chuyên gia giỏi về nhằm giải đáp những thắc mắc của họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho họ được đóng góp ý kiến tham gia việc xây dựng đề án CPH... Ngoài ra, để công tác phổ biến, tuyên truyền được đều đặn và kịp thời, theo chúng tôi, các cơ quan có chức năng nên tổ chức các lớp tập huấn cho những cán bộ chủ chốt trong DN như Giám đốc, lãnh đạo Đảng, lãnh đạo công đoàn trong DN. Ngoài việc phát huy vai trò lãnh đạo tư tưởng của tổ chức Đảng trong DN cần có một cơ quan thường trực bao gồm những người có uy tín, nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước để giải đáp những thắc mắc cho CBCNV đồng thời tiếp thu những ý kiến của họ phản ánh lên cơ quan cấp trên. Cơ quan này nên là một bộ phận của tổ chức công đoàn tại DN. Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài DN thì không có biện pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và truyền hình TW. Chương trình thời sự cũng như các bộ phim, những câu chuyện truyền thanh là những chương trình mà theo chúng tôi thu hút được rất nhiều khán thính giả. Việc đưa tin về các CTCP làm ăn có hiệu quả, những buổi phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền thanh, truyền hình về chủ trương CPH; những bộ phim hay, thiết thực về CPH chắc chắn sẽ đóng góp rất nhiều cho việc tuyên truyền cho đông đảo công chúng các chủ trương đúng đắn của nhà nước nói chung, chủ trương CPH nói riêng. Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như vậy vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của qui trình CPH 2. Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại DNNN thành 4 nhóm. - Nhóm DN làm ăn có hiệu quả. - Nhóm DN có khó khăn về tài chính. - Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao. - Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên). Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì DN, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản. Những biện pháp nói trên có áp dụng cho nhóm 4 theo chúng tôi là hợp lý. Tuy nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kd, cho thuê vẫn còn nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn thiện. Song nếu các biện pháp khoán kd cho thuê mà thành công thì đây sẽ được coi là những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả SXKD của các DNNN để tiến tới CPH. Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ CPH không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này. Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính. - Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN. - Vốn trợ cấp từ NSNN. - Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi). Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong DNNN khi tiến hành CPH. Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau: - Kế thừa hoặc mua lại nợ của DN. - Cho DN vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay. Sự hỗ trợ của quỹ CPH sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn cho DN, từ đó giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành công của việc CPH nhiều DN. Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả SXKD cũng chính là mục tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các DN gặp khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao. Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng SXKD hoặc tuyên bố phá sản. Những DN không có khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4. Những DN có khả năng khắc phục nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong ban quản lý DN. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được phương án SXKD có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của máy móc, công nghệ, lao động của DN hiện tại. Một số tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người đó đối với CBCNV trong DN, khả năng tổ chức nhân sự. Với biện pháp cải cách như trên chúng tối có nhiều tin tưởng là hiệu quả SXKD của DN sẽ được nâng lên. ở đây cũng xin lưu ý là chúng ta phải có những ưu đãi, khuyến khích đối với các nhà quản lý, gắn trách nhiệm của họ với quyền lợi, gắn lợi ích của họ với hiệu quả SXKD của DN. Chính phủ và Nhà nước nên sớm có chủ trương củng cố công tác đào tạo trong ngành quản trị kinh doanh . Khi nền kinh tế phát triển, công tác quản lý được chuyên môn hoá thì nhu cầu đối với các Giám đốc giỏi sẽ không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kd hiện nay xem ra vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nhất là yêu cầu về chất lượng, vì rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về kinh tế cho dù có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những thiếu hụt về trình độ. 3. Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển chọn lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả SXKD trong nhiều DNNN. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc tại 5.790 DNNN vào khoảng 1,8 triệu người. Song chất lượng lao động rất thấp: Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10 - 12% số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản ánh phần nào những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư sau khi tiến hành cải cách DNNN cũng như CPH. Bởi vì cùng với việc chú trọng nâng cao hiệu quả SXKD thì việc làm tất yếu của các DN là phải giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con số này quả là không nhỏ trong nhiều DNNN hiện nay. Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh. Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là DN và Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó thì DN là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa DN với người lao động. Về các giải pháp cụ thể, sau một quá trình nghiên cứu, tham khảo tài liệu, chúng tôi nhận thấy những giải pháp mà tác giả Đặng Quyết Tiến trong bài “Lao động dôi dư - những hướng giải quyết” ( Báo Tài Chính) số tháng 10 năm 1998, 25) đưa ra là những giải pháp khá sâu sắc và toàn diện. Nội dung của các giải pháp đó chúng tôi xin phép được trình bày tóm tắt như sau: - Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là. + Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu ( người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu)có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại ( chiếm đa số), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới. + Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại DN có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có). - Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp. + Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ CPH DNNN. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động:Hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại DN để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc ( khoảng từ 6 tháng đến một năm). + Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế SXKD. Trong các giải pháp nêu trên, cũng như tác giả của bài báo, chúng tôi nhất trí rằng giải pháp khuyến khích lập nghiệp, tự tạo việc là là giải pháp cần được nhân rộng. Đây là giải pháp có tác dụng kích thích sự sáng tạo tự chủ của người lao động. Đã đến lúc người lao động phải chủ động, sáng tạo vươn lên đối mặt với những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37241.doc
Tài liệu liên quan