Thế lực Fes đè nặng lên đầu tổng thống Mỹ và các Chính phủ 
trên thế giới như thế nào? 
Nhóm tài phiệt Mỹ đã tạo ra một cơ chế kiểm soát nguồn cung 
ứng tiền xuyên quốc gia. Có chế độ, thực hiện chính sách bơm 
tiền vào các nền kinh tế. Sau đó chích nổ quả bong bóng kinh tế 
đó thu lợi như đã làm ở Ý, ở Thái Lan trong cuối thế kỷ thứ 20 
vừa qua (1190 và 1997). 
Drogchin nói: chỉ cần khống chế được quyền phát hành về tiền 
của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp 
luật nào do ai đặt ra".(1) 
Xem ra dựa vào pháp luật để giám sát thị trường tài chính chưa 
chắc đã thắng được mọi thế lực đen tối.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3800 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Về thị trường tài chính 
Theo Mashkim (1995) thì: "thị trường trong đó vốn được chuyển 
dịch từ người hiện có vốn dư thừa với những người thiếu vốn". 
Cơ cấu thị trường tài chính theo quan điểm của nước Anh, Mỹ 
Theo chúng tôi quan niệm về thị trường tài chính như trên cần 
phải làm rõ hoặc bổ sung thêm ba loại thị trường nữa đó là: 
+ Thị trường vàng bạc 
+ Thị trường tài chính phát sinh 
+ Thị trường bảo hiểm và các quỹ hưu trí 
Bởi vì có thể nói đồng tiền cuối cùng, tiền của các loại tiền chính 
là vàng. Vàng tiền là hai thước đo thực sự của mọi hàng hoá. Nó 
có vai trò giống như ngân hàng của các ngân hàng vậy. Do đó, 
khi bàn đến thị trường tài chính phải có thị trường vàng. 
Thị trường tài chính phái sinh trong thời đại ngày nay có vai trò 
rất to lớn, đa dạng và phong phú. Ví dụ, bên cạnh thị trường này 
có các thị trường tài chính phái sinh về vàng; bên cạnh thị trường 
cổ phiếu có thị trường tài chính cổ phiếu, trái phiếu phái sinh: 
Hợp đồng giao hàng chậm; Hợp đồng viễn kỳ điều kiện; Hợp 
đồng viễn kỳ biên lượng; Đối xứng delta và các hợp đồng quyền 
kỳ hạn khác... 
Năm 2006, tổng quy mô trên thị trường tài chính phái sinh đạt 
370.000 tỷ USD tương đương với 8 lần GDP của toàn thế giới 
(1). Do vậy, bàn đến giám sát thị trường tài chính mà không nói 
tới thị trường tài chính phái sinh là một khiếm khuyết lớn. 
Vì sao phải giám sát thị trường tài chính: Bắt nguồn từ sự 
hình thành thị trường tài chính: 
- Do kinh tế hàng hoá phát triển đến một độ nhất định thì tiền tệ ra 
đời, trước hết là tiền vàng, tiền giấy có bản vị vàng. 
- Khi trao đổi hàng hoá phát sinh mua bán chịu làm nảy sinh các 
kỳ phiếu thương mại rồi tiền tín dụng thương mại đi đến đến tiền 
tín dụng chung, donhn được Nhà nước bảo trợ phát hành làm 
cho thực chất tiền tín dụng là tờ "phiếu nợ" tờ phiếu nợ dần thay 
thế tiền hàng. 
- Kết quả chế độ tín dụng gắn với nghề kinh doanh tiền tệ làm 
xuất hiện thị trường tài chính. 
- Hệ thống tiền tệ và hệ thống tín dụng chủ yếu dựa vào yếu tố 
tâm lý và lòng tin, giống như các con chiên tin vào Chúa. Mác nói 
rằng: Hệ thống tiền tệ và thực chất là hệ thống của hệ thống của 
đạo Thiên Chúa, còn hệ thống tín dụng về thực chất là hệ thống 
của đạo Tin Lành" (2) mà cơ sở của đạo Tin Lành là đạo Thiên 
Chúa. 
Do vậy, cả hệ thống tín dụng hiện nay là nguồn gốc sinh ra thị 
trường tài chính, có tính hai mặt rõ rệt: mặt tích cực và tiêu cực. 
- Mặt tích cực của thị trường tín dụng là ở chỗ làm cho ll sản xuất 
phát triển mạnh, nhanh, thực hiện xã hội hoá, quốc tế hoá... 
- Nhưng mặt tiêu cực: nó là đòn bẩy mạnh nhất gây ra tình trạng 
sản xuất thừa và đầu cơ quá mức phá vỡ các xiềng xích giới hạn 
nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa gây ra những 
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như hiện nay. 
Đó cũng là tính hai mặt của thị trường tài chính ngày nay. Do vậy, 
giám sát thị trường tài chính đặt ra nhằm mục đích hạn chế bớt 
tiêu cực của thị trường tài chính phục vụ tăng trưởng bền vững 
nền kinh tế thế giới. 
Bắt nguồn từ thực tiễn: 
- Thực tiễn thế giới tư bản đang có cuộc khủng hoảng tài chính 
toàn cầu rất nặng nề, mà nguyên nhân chính là sự giám sát thị 
trường tài chính lỏng lẻo. 
- Thực tế Việt Nam: có nhiều ngân hàng thương mại, kinh doanh 
đã để mất hàng chục triệu USD, lấy cắp tiền ngân hàng, hàng 
trăm tỷ đồng mà phát hiện rất chậm còn có thể có nhiều vụ chưa 
phát hiện được, thực tế đòi hỏi phải xây dựng cơ chế giám sát thị 
trường tài chính tốt hơn. 
- Một hiện tượng thứ 2: các ngân hàng thương mại có dấu hiệu 
mất khả năng thanh toán một thời gian. Chứng cớ là họ phải huy 
động vốn qua đêm, qua ngày, qua tuần và tháng với lãi suất rất 
cao. 
- Ngân hàng thương mại đang hoạt động ngược lại với quy luật 
như: 
+ Lấy vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn trong khi lãi suất ngắn hạn 
ngày càng cao hơn lãi suất dài hạn nhiều lần. 
+ Lãi suất thấp hơn mức lạm phát nhiều lần: ước tính lạm phát 
2008 không dưới 2 con số 24% trong khi lãi suất huy động của 
ngân hàng không quá 18 - 20%. Đó là lãi suất thực âm. Vậy 
không thể đảm bảo lợi ích của khách hàng (nhà gửi tiền được...). 
+ Lạm phát giá như hiện nay có phần bắt nguồn từ việc giám sát 
thị trường tài chính không hiệu quả. 
- Hiện nay giám sát thị trường tài chính đang chủ yếu dựa vào 
giám sát nội bộ của từng ngành, từng Bộ. Chứ chưa có một tổ 
chức đủ mạnh giữa giám sát toàn bộ tài chính tài chính. 
- Vấn đề quốc tế thị trường tài chính tự do hoá thị trường tài 
chính, đặt ra phải có sự giám sát toàn diện chặt chẽ đủ mạnh để 
vừa có thể giữ được tính độc lập tự chủ của thị trường tài chính 
vừa hoà nhập tự do hoá tài chính theo hội nhập quốc tế. 
- Cần hiểu thêm về thị trường tài chính tư bản đang tràn vào 
nước ta một cách thực tế hơn. 
Trước hết phải hiểu viện Fes, IMF, WB... là những tổ chức tài 
chính đang chi phối cả thế giới. Viện Fes: đó là một ngân hàng cổ 
phần tư nhân mà đứng đầu l 7 nhà tài phiệt ở phố Wall Mỹ (đứng 
đầu là Morgan, Rochefeller, William) (1). 
Viện Fes kết hợp với ngân hàng TW Anh cũng là một ngân hàng 
tư nhân và bán tư nhân làm thành trục tài chính quốc tế chi phối 
cả thế giới mà trước đây ta đã nghe nói đến đó là bọn đầu sỏ tài 
chính. 
Thế lực Fes đè nặng lên đầu tổng thống Mỹ và các Chính phủ 
trên thế giới như thế nào? 
Nhóm tài phiệt Mỹ đã tạo ra một cơ chế kiểm soát nguồn cung 
ứng tiền xuyên quốc gia. Có chế độ, thực hiện chính sách bơm 
tiền vào các nền kinh tế. Sau đó chích nổ quả bong bóng kinh tế 
đó thu lợi như đã làm ở Ý, ở Thái Lan trong cuối thế kỷ thứ 20 
vừa qua (1190 và 1997). 
Drogchin nói: chỉ cần khống chế được quyền phát hành về tiền 
của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp 
luật nào do ai đặt ra".(1) 
Xem ra dựa vào pháp luật để giám sát thị trường tài chính chưa 
chắc đã thắng được mọi thế lực đen tối. 
Hai là: viện Fes có tổ chức Hội đồng tư vấn liên bang bao gồm 
các bang nằm trong ngân hàng chủ chốt trong đó số 1 là Ngân 
hàng Nework. 
Ba là: họ có lý thuyết vòng cung khủng hoảng để bảo vệ sức 
mạnh tài chính nhằm hạn chế đồng Ero của Châu Âu xâm nhập 
vào OPEC, để OPEC cung ứng dầu và gửi tiền bán dầu vào ngân 
hàng Châu Âu. Đó cũng là một ý đồ chiến tranh Irac, Trung Đông 
của Mỹ và Anh. 
Bốn là: vai trò Fes được các Tổng thống và các Thủ tướng đánh 
giá như sau: Napoleong vay tiền của ngân hàng, các ngân hàng 
nắm cục diện của Chính phủ. Bởi vì kẻ trao tiền bao giờ cũng 
nắm thế hơn kẻ nhận tiền (vay tiền). 
- Từ đây ta thấy vấn đề nợ IFM, WB hay 1 nhóm tài phiệt nào đó 
nhất định có ngày họ ăn thịt. Do vậy vấn đề giám sát thị trường 
tài chính trong đó có sự giám sát về các khoản nợ là rất quan 
trọng. 
Tổng thống Mỹ Lincon nói: Tôi có hai kẻ thủ, trong đó kẻ thù sau 
lưng là cơ cấu tiền tệ là kẻ thù nguy hiểm nhất. Tính đến năm 
2006 tổng nợ của Chính phủ Mỹ là 860.000 USD> Bình quân một 
gia đình Mỹ nợ 112.000 tỷ USD. Tốc độ tăng nợ của mỗi quý là 
20.000 USD. Khoảng chi trả nợ đến năm 2006 đã là 400 tỷ USD 
và nước Mỹ sẽ không bao giờ trả hết nợ. (2) 
- Nước Mỹ giầu nhất thế giới mà còn như thế, thử hỏi nước ta sẽ 
ra sao? Khi các khoản nợ ngày một lớn lên. 
Tổng thống Mỹ thứ 28 nói: ngân hàng tư hữu là thứ quyền lực vô 
hình được tổ chức một cách tĩnh lặng, bao phủ khắp nơi, khoá 
chặt lẫn nhau triệt để và toàn diện. 
Vậy ta dùng cơ chế, tổ chức và công cụ gì để có thể giám sát 
được một đối thủ "nặng cân" như vậy. 
- Thủ tướng Thạt Xỉn (Thái Lan) nói: "Vĩnh viễn không trở lại làm 
con mồi bị thương cho tư bản quốc tế, quyết không bao giờ xin 
viện trợ của quỹ tiền tệ quốc tế nữa. Bởi vì trước đó chỉ trong 
vòng 06 tháng tập đoàn tài chính quốc tế đã đánh sụp toàn bộ hệ 
thống tài chính Đông Nam Á và một phần Hàn Quốc lúc đó họ 
cho nợ của Thái Lan chủ yếu bằng USD nên khi làm cho USD 
tăng giá. Thủ thuật "bơm" tiền và hút tiền của họ sẽ làm cho dự 
trữ ngoại tệ của họ giảm xuống 10 tỷ USD. 
Liên hệ với số ngoại tệ dự trữ của chúng ta nếu cũng bị đánh sụp 
như thế thì còn gì để trả nợ. 
Cơ cấu tài chính quốc tế đang tràn vào nước ta ngày một mạnh 
mẽ: 
Về hệ thống tiền tệ thế giới 
Lúc đầu là tiền vàng: tiền giấy có bản vị vàng có thể đổi ra vàng 
bất kỳ lúc nào và theo một tỷ giá cố định hợp lý. 
Nhưng sau đó tiền tín dụng ra đời như đồng USD thực chất là "1 
tờ phiếu nợ" giữa Chính phủ Mỹ và viện Fes mà thôi. 
Lúc đầu nhân loại dùng tiền vàng, bản vị vàng đó là lúc đó có tiền 
thật, thước đo được trọng lượng mọi vật bởi vì chính bản thân nó 
cũng có trọng lượng. 
- Nhưng sau đó nhân loại đã dùng thước đo ảo dùng các tờ 
"phiếu nợ" để đo lường giá trị các hàng hoá là một thước đo 
không chính xác, không thật, vì sao nhân loại làm như vậy: trước 
hết là vì lợi ích của các nhà tài phiệt, lợi ích đó được biến thành 
học thuyết tiền tệ của Key Nes từ 1936 với chủ đích(1) 
- Có tiền giấy thì mới có lạm phát tiền tệ 
- Chính phủ có thể tận thu toàn bộ của cải của người dân một 
cách bí mật mà khó có thể bị phát giác... 
- Tiền tệ: tín dụng, gắn với quan hệ vay mượn, người ta tăng 
trưởng kinh tế dựa vào vay mượn, ổn định kinh tế dựa vào vay 
mượn khủng hoảng tài chính, lạm phát tiền tệ cũng chủ yếu do 
vay mượn tiền tệ bởi vì cho vay càng tăng, lãi suất càng tăng số 
tiền in thêm càng lớn đến mức vượt quá sự phát triển của nền 
kinh tế và dẫn đến sụp đổ (1) toàn bộ hệ thống. Tiền tệ hoá của 
dịch vụ vay mượn, cộng với sự tăng trưởng của các công cụ tín 
dụng, các sản phẩm tài chính phát sinh là một trong những nhân 
tố gây bất ổn nghiêm tọng nhất cho nền kinh tế hiện đại. Vì nó 
thông qua dự chi tương lai để thoả mãn nhu cầu hiện đại. 
Giám sát thị trường tài chính trước hết là giám sát những dòng 
tiền vay mượn dịch chuyển thông qua thị trường tài chính để thực 
hiện các ý đồ của mình. Hiện nay, trên thế giới có hai sự bảo hộ 
thông qua thị trường tài chính: 
- Viện Fes và các Chính phủ phương Tây đang bơm tiền cho các 
ngân hàng thương mại để cứu nguy sự phá sản, sự mất khả 
năng thanh toán các ngân hàng. 
- Chính phủ Achentina: quốc hữu hoá quỹ hưu trí để bảo vệ 
người về hưu. 
Như vậy, sự giống nhau là ở chỗ khẩu súng tiền tệ là giống nhau 
nhưng bắn vào ai? Bảo vệ ai thì khác nhau. 
Tóm lại cả Keynes, Fridmim, Samuelson đều chủ trương dùng 
tiền giấy, tiền tín dụng, các phiếu nợ thay thế cho tiền vàng. Do 
đó khủng hoảng tài chính, lạm phát tiền tệ mất thước đo thật là 
vấn đề không tránh khỏi công cụ tài chính của ngân hàng quốc tế: 
là dùng quan hệ vay mượn tiền tín dụng để lũng đoạn các tài 
chính tài chính của các quốc gia. Do vậy sự giám sát thị trường 
tài chính Việt Nam không thể không có sự giám sát, dịch chuyển 
dòng tiền có tính quốc tế được. Vấn đề là hàng trăm triệu tiền 
đồng đó đang chạy đi đâu, nhằm mục đích gì? Có lợi cho ai. Đó 
chính là nội dung được giám sát rất quan trọng. 
* Kiểu kinh tế dựa trên trục vay mượn tiền, "bơm" tiền và hút tiền 
trên thị trường tài chính của các ngân hàng quốc tế, các nhà tài 
phiệt đòi hỏi sự giám sát thị trường tài chính. 
Đã có một khách hàng kiện các ngân hàng thương mại khi ngân 
hàng này đem tiền bạc, vàng của khách hàng ra kinh doanh có 
thể gây mạo hiểm, nhiều ý đồ đen tối mà khách hàng không hề 
biết gì và phải chịu thua thiệt... 
- Toà án nước Anh đã phán quyết: (1) 
- Khi gửi vào ngân hàng thì tiền không còn thuộc về khách hàng 
nữa 
-Ngân hàng có toàn quyền sử dụng số tiền đó mà không có nghĩa 
vụ phải trả lời khách hàng ngay về việc số tiền đó có nguy hiểm 
không? Có bị dùng vào việc đầu cơ gây hại không?.... 
- Ngân hàng chỉ có nghĩa vụ trả tiền cho khách hàng theo hợp 
đồng. Vậy ai là người giám sát hoạt động ngân hàng, để tài sản 
công dân không bị xâm phạm, sử dụng đúng mục đích. Chắc 
chắn để thanh tra ngân hàng là không ổn, không đủ quyền lực 
phán quyết người nuôi mình được. 
Một thực tế là những công ty tài chính, ngân hàng mà vốn tự có 
của họ chỉ bằng 3,5% doanh số của các khoản nợ thì hỏi làm thế 
nào để họ có thể bảo đảm được rủi ro cho khách hàng, khi vốn 
huy động lên đến hàng ngàn lần vốn tự có. 
Nhờ vào các sản phẩm tài chính phát sinh, lại được Chính phủ 
bảo vệ, phát hành công trái ngắn hạn để hỗ trợ vốn cho khoản 
vay bất động sản có lãi suất cố định hơn 30 năm. Họ lấy vốn 
ngắn hạn đầu tư dài hạn, kiếm chênh lệch lãi suất, thử hỏi khi 
cách hoạt động tài chính đó xâm nhập vào Việt Nam thì chúng ta 
phải giám sát bằng cách nào? Và ai là người giám sát. 
Vậy nội dung giám sát: Do vay mượn tạo ra, do nhập khẩu tạo ra, 
do mất cân đối cán cân thương mại, do kinh doanh thua lỗ tạo 
ra... 
- Các hoạt động ngân hàng, các quỹ đầu tư một mặt là công cụ 
kiểm soát của nền kinh tế, mặt khác ngân hàng là mọt xí nghiệp 
kinh doanh. Do vậy ngân hàng đi kiểm soát người khác và phải 
có người khác kiểm soát lại ngân hàng. 
- Cơ cấu giám sát: Theo chúng tôi giám sát nhiều tầng, các 
ngành, Bộ, Uỷ ban, Tập đoàn có cơ cấu tổ chức tự giám sát nội 
bộ. Phải có cấp giám sát vĩ mô toàn diện và có tính chiến lược. 
Tổ chức giám sát này có thể trực thuộc Quốc hội. Giám sát cả 
ngân hàng Nhà nước, quỹ tiền tệ Chính phủ kiểm soát sự phát 
triển có tính định hướng chiến lược và kiểm soát có tính nghiệp 
vụ kỹ thuật để giúp kiểm soát định hướng đúng... 
Chẳng hạn, kiểm soát sự dịch chuyển các dòng vốn để phục vụ 
cho tăng trưởng bền vững thì phải không được bơm tiền vào lưu 
thông gây lạm phát, gây nhập siêu, mất khả năng thanh toán gây 
thất nghiệp, mất cân bằng vĩ mô, gây ô nhiễm môi trường... 
Trái lại, phải sử dụng việc bơm tiền vào, hút tiền vay, tiền mà hạn 
chế tăng trưởng nóng, kiểu tăng nợ, tăng nhập siêu... 
* Trọng tâm chính của sự giám sát thị trường tài chính là giám sát 
tính tự phát, tính đầu cơ lừa đảo, tính tạo ra những nhu cầu ảo, 
những cơn bão lũ về tiền tệ thông qua thị trường để rồi sau đó lại 
tạo ra những cơn hạn hán tiền tệ, qua đó mà gây ra sự đỗ vỡ, sự 
khủng hoảng tài chính và kinh tế. Bản chất của sự vay mượn vốn 
là vấn đề tạo ra các khoản nợ, những túi nợ, thông qua các sản 
phẩm tài chính phát sinh để chi phối con nợ và tạo ra sự sụp đổ 
toàn cầu như hiện nay. 
* Trình tự các bước sụp đổ về thị trường tài chính là: tự lạm phát 
đi đến tăng nợ, mất khả năng thanh toán, mất lòng tin, tăng sự 
hỗn loạn về tâm lý đi đến sự sụp đổ dây chuyền. Mà dù cho Fes 
hoặc ai đó có đổ ra hàng nghìn tỷ USD, hàng tấn vàng, hàng 
ngàn tấn dầu đầu cơ bấy lâu được gắn lại ở một nơi nào đó... thì 
cũng khó cứu vãn được tính thế. Bởi vì trong lòng thị trường tài 
chính đã chứa đựng những sự vô ảo, sự ảo tưởng những món 
nợ quá lớn, không gì vô lý bằng làm cho các món nợ cũng trở 
thành hàng hoá, nợ và các giấy tờ mua bán các doanh số lớn 
hơn của cải thực hàng trăm hàng ngàn lần. Thị trường tài chính 
như thế sớm muộn cũng xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng không tránh 
khỏi "Kinh nghiệm của tôi cho biết trong tương lai nhất định sẽ có 
kẻ phải trả những khoản nợ này. Tôi e rằng lòng tham vô đáy của 
con người sẽ kéo nhân loại đi theo vết xe đổ" (1). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ve_thi_truong_tai_chinh_2809.pdf ve_thi_truong_tai_chinh_2809.pdf