Thiết bị đầu cuối khách hàng bao gồm một loạt các thiết bị , card giao tiếp thực hiện chức năng chuyển đổi dữ liệu người sử dụng thành dạng tín hiệu xDSL. ADSL CPE sẽ tuân theo các chuẩn sau đây: T1.431, ANSI ADSL DMT Isue 2, g.992.1 G.DMT, G.992.1 annex H, G.992.2 G.Lite.
Hiện nay có các lọai CPE chính sau đây:
- ADSL Bridge: Thiết bị này giao tiếp với PC sẽ hỗ trợ 10base T ethernet, chỉ định số cổng Ethernet được hỗ trợ.
- ADSL Router, thiết bị này có các đặc tính sau:
• Cung cấp 1 cổng 10/100 Base T Ethernet(RJ45), 1 cổng USB, 1 cổng ADSL(RJ11), và cổng điện thoại tuỳ chọn.
• Xác định số lượng tối đa các PVC/SVC.
• Định tuyến RFC 2648 qua ATM, RFC 22364PPPoA, RFC 1483 LLC/SNAP
Hỗ trợ chức năng DHCP server, NAT server, hỗ trợ password, firewall (tuỳ chọn), định tuyến RIP,RIP II
98 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thiết kế hệ thống cung cấp dịch vụ ADSL cho bưu điện Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng ATM.
ADSL là cầu nối thông tin tới thế kỷ sau mà không cần thay cơ sở hạ tầng mới, không cần thêm các chi phí ngoài luồng và không phải tái đầu tư.
1.5 Kỹ thuật VDSL
Kỹ thuật cung cấp các đường thuê bao số với tốc độ rất cao được viết tắt là kỹ thuật VDSL. Cũng như các kỹ thuật xDSL khác như: ADSL, HDSL, SDSL, kỹ thuật VDSL được sử dụng để cung cấp các dịch vụ số liệu băng rộng như các kênh tivi, truy nhập dữ liệu với tốc độ rất cao, hội nghị qua video, video động, truyền tổ hợp dữ liệu và tín hiệu và tín hiệu video trên cùng một đường dây..v v.. cho các thuê bao dân cư và kinh doanh trong lúc chưa lắp đặt được mạng cáp quang đến tận nhà thuê bao.
Kỹ thuật VDSL sử dụng phương thức truyền dẫn giống như kỹ thuật ADSL, nhưng kỹ thuật VDSL có khả năng cung cấp số liệu với tốc độ cao gần gấp 10 lần tốc độ truyền dẫn của kỹ thuật ADSL (hình 1.19). Tốc độ truyền dẫn của VDSL thường nằm trong khoảng từ 13Mbit/s đến 60Mbit/s tuỳ thuộc vào khoảng cách truyền dẫn. Kỹ thuật VDSL có thể sử dụng phương thức truyền dẫn dịch vụ đối xứng (phương thức truyền dẫn có tốc độ truyền dẫn xuôi từ phía tổng đài tới thuê bao bằng với tốc độ truyền dẫn từ phía thuê bao đến tổng đài) và không đối xứng (phương thức truyền dẫn có tốc độ truyền dẫn xuôi từ phía tổng đài tới thuê bao cao hơn rất nhiều so với tốc độ truyền dẫn từ phía thuê bao tới tổng đài). Ðối với dạng truyền dẫn không đối xứng kỹ thuật VDSL thường dùng tỷ lệ tốc độ chiều đi và chiều về là 10:1, phương thức truyền dẫn này phù hợp để cung cấp dịch vụ tốc độ cao từ phía tổng đài tới thuê bao nên rất hay được sử dụng trong kỹ thuật VDSL.
Ngoài việc có khả năng cung cấp tốc độ cao hơn nhiều so với tốc độ truyền dẫn của kỹ thuật ADSL kỹ thuật VDSL còn yêu cầu khoảng động nhỏ hơn kỹ thuật ADSL nên kỹ thuật truyền dẫn của VDSL không phức tạp bằng kỹ thuật truyền dẫn ADSL. Mặc dù có nhiều ưu điểm như vậy nhưng kỹ thuật này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi đó là vì chưa lựa chọn được cơ chế điều chế, băng tần, phương pháp ghép kênh thích hợp. Hơn nữa, một số chipset của modem sử dụng kỹ thuật VDSL vẫn còn đắt nên kỹ thuật này chưa được sử dụng nhiều trên thực tế. Tuy nhiên đây là một kỹ thuật đầy hứa hẹn trong một vài năm tiếp theo.
Chương 2 : Triển khai ADSL trên thế giới và ở Việt Nam
Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ
2.1 Tình hình triển khai ADSL
Trong những năm gần đây các hệ thống cung cấp dịch vụ xDSL mà đặc biệt là ADSL đang phát triển hết sức mạnh mẽ trên toàn cầu. Một số nước có nền viễn thông phát triển mạnh thì thị trường đã bắt đầu đi vào giai đoạn bão hoà. Các nước khác có cơ sở hạ tầng kém hơn hoặc từ trước đến nay vẫn còn dè dặt với công nghệ này thì bây giờ cũng đang chuẩn bị hoặc đã đầu tư triển khai. Rõ ràng họ không thể đứng ngoài cuộc chờ đợi một sự thống trị của mạng toàn quang (không biết bao giờ thực hiện được) trong khi họ đang từng ngày từng giờ phải chịu một sức ép nặng nề từ phía khách hàng trong và ngoài nước. Với một chi phí vừa phải, tận dụng đựơc tối đa cơ sở hạ tầng hiện có xDSL giúp cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông thoả mãn đựợc đồng thời cả hai yêu cầu có thể nói là “thường xuyên đối nghịch nhau ” : giá thành và tốc độ truy nhập.
2.2 Việt Nam
Sau khi xem xét : Báo cáo nghiên cứu khả thi số hiệu 08-03- 2002/DADT-TVTK do Viện Khoa học kỹ thuật Bưu Điện lập và Biên bản kháo sát hệ thống cung cấp dịch vụ ADSL cho các tỉnh và thành phố. Ngày 20/06/2003 Hội đồng quản trị Tổng Công Ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam đã ra quyết định số 292/QĐ-ĐTPT/HĐQT quyết định đầu tư dự án (pha 1) “Hệ thống cung cấp dịch vụ ADSL Bưu điện thành phố HÀ Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bưu điện tỉnh Đồng Nai và Bình Dương”. Tổng Công Ty cũng đã quyết định dự án đầu tư pha hai sẽ được triển khai vào cuối năm nay tại : Thành phố Đà Nẵng, Tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, Cần Thơ, Khánh Hoà, Thừa Thiên- Huế, An Giang, Nghệ An, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Kiên Giang. Pha 1 đã dược triển khai và hiện tại đã đi vào hoạt động tạo nên một không khí sôi động trong việc sửdụng Internet, theo những gì mà tôi quan sát được tại Hà Nội thì kể từ sau ngày Bưu điện Hà Nội khai trương dịch vụ Internet tốc độ cao Mega VNN(ADSL), số lượng thuê bao đăng kí sử dụng tăng lên rất nhanh (chủ yếu là các cơ quan công sở, các doanh nghiệp và các quán cafe internet) đặc biệt tại Hà Nội và Thành Phố hồ Chí Minh chỉ sau vài tháng khai trương số lượng thuê bao đăng kí đã vượt xa số cổng lắp đặt, vì vậy biện pháp mở rộng dung lượng đã ngay lập tức được triển khai. Các dịch vụ internet công cộng này đã thu hút một lực lượng rất lớn thanh niên sinh viên tới sử dụng. Những sinh viên như chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc khi với chỉ 3000đ/tiếng chúng tôi có thể truy cập tới bất cứ một trang Web nào để tìm kiếm thông tin mà không phải quá bận tâm về vấn đề tốc độ như trước đây. Có thể nói rằng cùng với sự nâng cấp đường truyền đi quốc tế của VDC, ADSL đã làm nên sự khác biệt, tạo ra một bộ mặt mới cho ngành bưu điện.
Cụ thể :
Tổng số vốn đầu tư cho:
Pha một :
Tổng vốn đầu tư : 223.497.560.000đ
Trong đó
+ Bưu thành phố Hà Nội : 3000 thuê bao
+ Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh : 5000 thuê bao
+ Bưu điện thành phố Hải Phòng : 1000 thuê bao
+ Bưu điện tỉnh Đồng Nai : 1000 thuê bao
+ Bưu điện tỉnh Bình Dương: 1000 thuê bao
Pha hai : 198.704.000.000 VNĐ.
2.3 Thế giới
2.3.1 Xu hướng toàn cầu
Trong "mùa đông hạt nhân" năm 2001 sau sự kiện ngày 9 tháng 11 thị trường viễn thông đi xuống nhưng DSL vẫn phát triển mạnh và tăng 78%. DSL vào đầu năm 2002 đã vươn lên dẫn đầu trong các phương pháp truy xuất tốc độ cao trên toàn thế giới đạt 18,7 triệu thuê bao (theo Point Topic) vượt qua mặt đối thủ truyền kiếp cable modem 15 triệu thuê bao (theo Kinetic Strategies). Tuy nhiên, ở thị trường Bắc Mỹ thì số thuê bao DSL vẫn còn thua xa số thuê bao cable modem. Số đường dây thuê bao số trên toàn thế giới đã tăng 36% trong 6 tháng đầu năm 2002, từ 18,7 triệu lên đến 25,6 triệu. So ra thì đây là sự sút giảm so với 6 tháng cuối năm 2001 khi tỷ lệ tăng trưởng đã là 78% với 8,2 triệu đường dây mới được lắp đặt. Ðây cũng là 6 tháng có tỷ lệ phát triển thấp nhất trong lịch sử ngắn ngủi của DSL.
Hình 2.1 DSL đã tăng từ 880 000 đường dây năm 1999
lên 25,5 triệu đường dây vào cuối tháng 6 năm 2002
Hình 2.2 Phân bố DSL trên thế giới tính đến 30 tháng 6 năm 2002
Nhưng nhìn vào quá trình phát triển của DSL từ con số 880 000 đường dây vào cuối năm 1999 đến 25,5 triệu đường dây vào cuối tháng 6 năm nay thì có thể thấy đó là kết quả của thời kỳ suy thoái và khủng hoảng tài chính trong ngành viễn thông toàn thế giới và nó không phải là dấu hiệu của sự chựng lại lâu dài của DSL. Sự phát triển chậm lại của một vài vùng chỉ có tính thời vụ vì loại thị trường dịch vụ này có xu hướng mạnh lên trong 6 tháng cuối năm. Hai cường quốc DSL là Hàn Quốc và Hoa Kỳ cũng ở tình trạng chững lại theo thời vụ. Thị trường Hàn Quốc đã đạt đến trạng thái bão hoà trong khi Hoa Kỳ đang phải đối mặt với khủng hoảng trầm trọng trong ngành viễn thông đã làm suy thoái tài chính đáng kể cho DSL. Sự phát triển ở các quốc gia khác đáng chú ý là Nhật Bản và hầu hết các nước Tây Âu vẫn rất mạnh mẽ. Tất cả các quốc gia ngoài Hàn Quốc thì còn lâu mới đạt được thị trường bão hoà.
2.3.2 Các quốc gia và các vùng phát triển trên thế giới
Vùng châu Á - Thái Bình Dương vẫn là vùng phát triển DSL lớn nhất với 10,7 triệu đường dây. Vùng Bắc Mỹ là 6,6 triệu đường dây trong khi Tây Âu đang gần lấp đầy chỗ trống còn lại. Kế đó, vùng gây được sự chú ý là Nam và Ðông Á bao gồm Trung Quốc và Ấn Ðộ với tổng số 1,1 triệu đường dây. Phần còn lại của thế giới bao gồm Mỹ La Tinh, Trung Ðông và châu Phi có tổng số 800 ngàn đường dây. Tốc độ phát triển giữa các vùng rất là ấn tượng. Bắc Mỹ đã đạt được tốc độ phát triển cao nhất vào 6 tháng cuối năm 2000 nên đang chậm lại. Tuy nhiên, các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương dẫn đầu là Hàn Quốc đã trở thành đối thủ cạnh tranh với Bắc Mỹ từ cuối năm 2000 và ngày càng phát triển nhanh hơn dù có chậm lại đôi chút trong 6 tháng đầu năm 2002. Hiện nay đã thấy được những dấu hiệu đầu tiên cho sự cất cánh của vùng Nam và Ðông Á, đặc biệt là Trung Quốc. Sự phát triển của các vùng khác (Mỹ La Tinh, Trung Ðông, châu Phi và Ðông Âu) vẫn còn đang ở giai đoạn sơ khởi. Tuy nhiên Ba Tây, Do Thái và Estonia đã có được mức độ phát triển tương đối.
Về tổng số đường dây thì Hàn Quốc vẫn dẫn đầu. Tuy nhiên, trong tương lai gần có lẽ sẽ bị Hoa Kỳ hay cũng có thể là Nhật Bản qua mặt trong 12 tháng sắp tới. Hiện nay, Nhật Bản, Mỹ và Ðức đang phát triển nhanh hơn Hàn Quốc. Ba Tây cũng cho thấy sự phát triển vượt bậc. Trong 10 quốc gia có tỷ lệ phát triển nhanh nhất trong 6 tháng qua thì có đến 7 quốc gia Tây Âu khi chỉ thống kê các quốc gia có trên 100 000 đường dây DSL. Nga và Mê Hy Cô cũng có tỷ lệ phát triển cao nhưng con số đường dây lại ở mức thấp.
Hình 2.3 Tốc độ tăng trưởng từng vùng: tiềm năng châu Á - Thái Bình Dương
và Tây Âu vẫn mạnh mẽ nhất
Hình 2.4 Tổng số đường dây DSL của 10 quốc gia dẫn đầu thế giới
2.3.3 Tỷ lệ phổ biến DSL
Hàn Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về số đường dây DSL trên 100 dân. Về con số này thì Ðài Loan đã qua mặt Hương Cảng và Ðan Mạch qua mặt Gioóc Đa Ni. Ấn tượng nhất là Nhật Bản chỉ trong vòng 18 tháng đã đi từ chỗ gần như số không đã phát triển nhanh chóng và lọt vào "top ten" trên thế giới về số đường dây DSL trên 100 dân.
Hình 2.5 10 quốc gia dẫn đầu về số đường dây
được lắp đặt mới trong 6 tháng đầu năm 2002
Hình 2.6 10 quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng DSL cao nhất trong 6 tháng đầu năm 2002
Hình 2.7 10 quốc gia có tỷ lệ phổ biến DSL cao nhất
Trong khi đó thì Hoa Kỳ đã bị loại, đứng vị trí thứ 12 sau Tây Ban Nha. Mặt khác Hoa Kỳ là một trong rất ít quốc gia có số thuê bao cable modem cao hơn DSL (các quốc gia khác là Gioóc Đa Ni, Hà Lan, Tây Ban Nha và Úc ). Nhiều nước nhỏ nhưng lại có số đường dây DSL trên 100 dân khá cao như Iceland với 5,3 còn Estonia ở Ðông Âu lại có con số này là 1,5 vượt qua cả Pháp, Ý và Liên Hiệp Anh.
Xu hướng phát triển
Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về thị trường DSL trong nhưng ngày đầu nhưng đã nhanh chóng bị Hàn Quốc bắt kịp và qua mặt. Ðức và Nhật tiếp cận thị trường bằng nhiều cách khác nhau, bắt đầu cất cánh từ năm 2001 nhưng hiện vẫn đang tụt hậu so với Mỹ, Ðại Hàn khoảng 15 tháng.
Hình 2.8 10 quốc gia có tỷ lệ đường dây PSTN chuyển sang DSL cao nhất
Cần nhận xét rằng ở Mỹ và Ðại Hàn thì 6 tháng cuối năm bao giờ tỷ lệ phát triển cũng cao hơn 6 tháng đầu năm. Ðiều này cũng tương tự như ở thị trường máy tính cá nhân hay điện thoại di động và là yếu tố phải kể đến khi dự báo. Tình hình Hàn Quốc cũng cho thấy dấu hiệu của sự bão hoà dịch vụ thông tin tốc độ cao. Cuối tháng 6 năm 2002 Hàn Quốc có 3,3 triệu modem cáp đồng trục và 5,7 triệu đường dây DSL, tương đương với 58 đường dây thông tin tốc độ cao trên 100 dân. Trong khi đó, số kết nối Internet qua modem dial-up đã giảm xuống còn 520 ngàn hay 3 đường dây trên 100 dân. Rõ ràng là sự phát triển thông tin tốc độ cao ở Hàn Quốc rất khó có thể tăng thêm.
Hình 2.9 Tình hình phát triển của các cường quốc DSL
Nguyên nhân phát triển của DSL
Với công nghệ DSL thì các trở ngại kỹ thuật đã được khắc phục dần. Bên cạnh đó, hạ tầng cơ sở pháp lý cho thông tin tốc độ cao ngày càng phát triển tuy có chậm nhưng đã giảm bớt bất ổn trong đầu tư. Khả năng DSL ngày càng phong phú và càng có nhiều phiên bản mới cho DSL như ADSL2 và Splitterless ADSL2 được ITU-T thông qua ở khuyến nghị 992.3 và 992.4 vào tháng 7 năm 2002. Những phiên bản khác nhau của DSL đáp ứng được từng nhu cầu cũng như từng điều kiện đường dây cụ thể.
Công nghệ DSL đáp ứng được yêu cầu của các dịch vụ đòi hỏi thời gian thực, tốc độ cao như mua sắm trên mạng, chơi trò chơi trực tuyến, chat, giáo dục, lên kế hoạch đi lại và xem video.
Triển vọng DSL
Trong các loại công nghệ truy xuất tốc độ cao thì DSL có tỷ lệ khách hàng là doanh nghiệp cao nhất: 20%. Với số đường dây trên 1 tỷ của thế giới thì DSL chỉ chiếm có hơn 2,5%. Dự báo đến cuối năm 2005 thì số đường dây DSL có thể đạt được đến con số 200 triệu.
2.4 Tình hình phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An trong những năm gần đây:
Nghệ An, mảnh đất thân yêu của tổ quốc Việt Nam là một bức tranh hoành tráng nhiều màu sắc:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
Con người Nghệ An trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử từ xa xưa tới nay không những chỉ ngắm bức tranh hoạ đồ đó, mà đã sống với nó, sống trong nó và trang điểm chốn tươi đẹp hơn. Nhiều con sông xanh ngày nay ta cứ ngỡ là có nguồn gốc tự nhiên, mà thực ra đó là những dòng kênh do con người ở đây đã đào ra từ bao thế kỷ trước. Nhiều cánh đồng ngày nay khi mùa về như tấm lụa vàng trải rộng mênh mông thực ra được bắt đầu hình thành nhờ những cuộc khẩn hoang, vỡ đất của các bậc tiền nhân.
Địa danh Nghệ An xuất hiện từ năm 1033 dưới triều đại Lý Thánh Tông thay cho tên Hoan Châu đã có từ mấy trăm năm về trước. Về địa hình, diện mạo, Nghệ An là nơi bắt đầu thắt lại của dải đất miền trung, có vị trí địa lý đóng vai trò yết hầu trên con đường thiên lý xuyên Việt, là vùng đất có núi rừng trùng điệp, chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh, án ngữ sau lưng là dãy trường sơn hùng vĩ, trải ra trước mặt là biển đông lai láng mênh mông. Với diện tích 16.487,3km2 , 82 km bờ biển, có nhiều khoáng sản quí hiếm như đá Rubi, thiếc đá vôi, vàng. Dân số gần 3 triệu người 1,5 triệu lao động trong đó có 250 tiến sĩ, hơn 3 vạn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, 6 vạn cán bộ kỹ thuật trung cấp, 3,6 vạn công nhân lành nghề.Con người ở đây cần cù, chịu khó làm ăn, ham học hỏi, thông minh sáng tạo. Nghệ An thực sự trở thành một tỉnh có tiềm năng kinh tế và nguồn nhân lục dồi dào, có truyền thống cách mạng lâu đời.
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới và phát triển của quốc gia, các ngành công nghiệp, du lịch, văn hoá, thể thao của tỉnh cũng được phát triển mạnh mẽ. Từ một tỉnh bị đổ nát sau chiến tranh, ngày nay Nghệ An đã trở thành một tỉnh tương đối phát triển xứng đáng là trung tâm kinh tế, xã hội, chính trị của khu vực Bắc trung Bộ và là đầu mối giao thông quan trọng nằm trên quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt. Kết cấu hạ tầng của Nghệ An bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu khách trong nước và quốc tế như: Bưu chính viễn thông, hệ thống ngân hàng, hệ thống điện nước, mạng lưới giao thông khách sạn, nhà hàng. Sân bay Vinh được cải tạo nâng cấp để máy bay hạng nặng có thể lên xuống, phục vụ khách trên các tuyến quan trọng. Cảng biển quốc tế cửa lò hiện tại tàu 6.000 – 7.0000 tấn đã vào ra thường xuyên, đang được đầu tư và nạo vét và làm thêm bến để tàu một vạn tấn vào ra nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá cho Lào và Đông- Bắc Thái Lan theo đường số 7, đường 8 qua cảng Cửa Lò để đi các nước. Đây thực sự là một tiềm năng to lớn chưa được khai thác hợp lý cho phát triển kinh tế của khu vực miền trung và tiểu vùng Nghệ An- Lào- Đông bắc Thái Lan. Cửa Lò cũng là điểm du lịch hấp dẫn mà hàng năm đã thu hút một lượng khách (trong nước và quốc tế) rất lớn viếng thăm cũng như chọn làm điểm dừng chân trên cuộc hành trình xuyên Việt. Nhiệt độ trung bình của Nghệ An khonảg 23,50C, lượng mưa trung bình 1.800 – 2.000mm/năm, độ ẩm 71% - 91%. toàn tỉnh Nghệ An có 01 thành phố, 01 thị xã và 17 huyện.
Nghệ An đang từng bước khắc phục khó khăn và cố gắng thu hút đầu tư bằng các chính sách ưu đãi, áp dụng triệt để các chính sách đầu tư của chính phủ đối với đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay Nghệ An đã và đang tập trung vào xây dựng bốn khu công nghiệp trọng điểm là: KCN Hoàng Mai, KCN Nam Cấm, khu công nghiệp Phủ Quỳ và KCN Bắc Vinh.
Một số chỉ tiêu kinh tế đạt được của Nghệ An trong những năm qua như sau :
Năm
2000
2001
2002
6 tháng 2003
GDP(%)
6,21%
8,9%
11%
11,55%
GNP(tỷ)
6317
6880
7636
8025
Tỉ lệ tăng DS(%)
1,5
1,43
1,36
1,2
bảng 2.1:mức tăng trưởng kinh tế và dân số
Cơ cấu các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện nay như sau :
Doanh nghiệp nhà nước : 110
Công ty cổ phần : 61
Công ty TNHH : 275
Chi nhánh tại Nghệ An : 13
Doanh nghiệp tư nhân : 193
Xí Nghiệp : 87
Ngoài ra còn có các nhà máy sản xuất lớn , tổng các doanh nghiệp tại Nghệ An là 908 DN quốc doanh và ngoài quốc doanh. Nếu tính cả các doanh nghiệp nhỏ hoặc mới thành lập thì con số này có thể lên tới 4.540(doanh nghiệp ) trong đó có 183 doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Các doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở thành phố Vinh, các khu công nghiệp và các trung tâm kinh tế lớn của tỉnh.
Hiện trạng và tiềm năng phát triển của mạng viễn thông Nghệ An:
So với tình hình phát triển chung của cả nước thì Nghệ An được xem là một trong những tỉnh có mạng viễn thông hiện đại ở Việt Nam. Một số thành tựu mà Bưu điện Nghệ An đã đạt được .
“Bưu điện Nghệ An là một trong những đơn vị đi đầu trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công gnhệ vào sản xuất kinh doanh., với mạng lưới trên 120 bưu cục, 342 điểm bưu điện văn hoá xã, 80 tổng đài, 17 trạm thông tin di động, 429 km cáp quang nội tỉnh, gần 10 vạn máy điện toại có trên mạng và nhiều dịch vụ bưu chính như; chuyển phát nhanh, tiết kiệm bưu điện, điện hoa, chuyển tiền nhanh ...đã khẳng định hướng đi đúng và có hiệu quả của mình. Doanh thu hàng năm của Bưu điện tỉnh tăng trên 20% trong đó năm 2002 doanh thu đạt 217 tỉ đồng tăng 34% so với năm 2001. Thu nhập của cán bộ công nhân viên ngày một cao hơn. Với những kết quả đạt được trong nhiều năm qua đặc biệt là năm 2002 có thể nói rằng Bưu điện Nghệ An là một tập thể vững mạnh với 5 thành tích nổi bật sau:
Nội bộ đoàn kết, hợp tác, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn đơn vị. Đây chính là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng của Đảng ta, là lời dặn ân cần của Bác với toàn đảng, toàn dân, toàn quân trước lúc người đi xa.được Bưu điện Nghệ An thấm nhuần, quán triệt và thực hiện tốt. Mạng bưu chính viễn thông được phát triển, mở rộng, hiện đại, đồng bộ với tốc độ cao.Năng lực phục vụ của Bưu điện không ngừng được tăng lên, đảm bảo các nội dung: chất lượng phục vụ, văn minh nghề nghiệp, an ninh và an toàn, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận ,tiền lương tự đầu tư phát triển, nộp ngân sách, trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân viên tiến bộ nhanh và tương đối vững chắc. Là một đơn vị thực hiện tốt các chính sách xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn, được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba về thực hiện chính sách xã hội. Các hoạt động thể thao, văn hoá, văn nghệ quần chúng sôi động bổ ich và lành mạnh. Đảng bộ và các đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ liên tục đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh và tiên tiên xuất sắc. Đối nội yên vui, đối ngoại rộng mở, nghĩa tình. Mối quan hệ phối hợp giữa các đoàn viên và các đoàn ,các cấp ngày càng tốt hơn tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để đơn vị liên tục phát triển và trưởng thành.
Những kết quả và sự nỗ lực phấn đấu của Bưu điện Nghệ An trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp chấn hưng nền kinh tế địa phương, tạo đà cho Nghệ An đi nhanh hơn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bưu điện Nghệ An luôn là tập thể mạnh, xứng đáng với danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1996), đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới năm 2000 và đặc biệt là tấm huân chương độc lập hạng ba được đảng và nhà nước trao tặng năm 2002”.
Trích phát biểu của đồng chí Lê Doãn Hợp, Uỷ viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh Uỷ Nghệ An trong hội nghị triển khai kế hoạch năm 2003 và lễ đón nhận huân chương độc lập hạng ba của Bưu điện Nghệ An.
Hiện trạng mạng viễn thông Nghệ An được thể hiện đầy đủ qua các báo cáo sau (xin mời xem phụ lục 2):
* Phát triển Internet của Nghệ An trong những năm vừa qua
Thuê bao internet công cộng đăng kí sử dụng qua bưu điện:
TT
Khu vực
1998
1999
2000
2001
2002
2003(6 tháng đầu)
1
Quế Phong
1
1
2
Quỳ Châu
2
1
3
Quỳ hợp
1
5
1
8
4
4
Nghĩa Đàn
1
3
2
1
1
5
Quỳnh Lưu
2
4
1
5
8
6
Yên Thành
1
1
1
5
7
Diễn Châu
1
0
2
3
8
Nghi Lộc
1
0
0
1
1
9
Vinh
16
32
50
64
108
108
10
Cửa Lò
3
3
3
3
11
Hưng Nguyên
1
12
Nam Đàn
1
2
13
Thanh Chương
1
1
14
Đô Lương
1
1
6
1
15
Tân Kỳ
1
2
16
Anh Sơn
1
2
6
17
Con Cuông
1
1
18
Tương Dương
1
2
19
Kỳ Sơn
1
Bảng 2.2: Thuê bao Internet công cộng phát triển hàng năm
Trung bình số thuê bao điện thoại thường xuyên kết nối Internet
TT
Khu vực
1998
1999
2000
2001
2002
2003
1
Quế Phong
3
9
20
34
50
55
2
Quỳ Châu
5
10
24
30
56
60
3
Quỳ hợp
7
20
33
50
87
55
4
Nghĩa Đàn
4
12
27
46
70
65
5
Quỳnh Lưu
5
12
30
35
103
70
6
Yên Thành
3
11
25
30
57
48
7
Diễn Châu
6
25
30
63
76
54
8
Nghi Lộc
4
24
32
44
74
51
9
Vinh
20
55
134
256
350
308
10
Cửa Lò
6
30
58
85
107
98
11
Hưng Nguyên
2
8
26
34
58
40
12
Nam Đàn
3
7
15
36
45
32
13
Thanh Chương
4
12
34
35
57
46
14
Đô Lương
5
18
40
57
69
54
15
Tân Kỳ
1
3
15
24
34
22
16
Anh Sơn
2
6
18
27
33
24
17
Con Cuông
1
3
9
21
29
32
18
Tương Dương
0
2
7
18
24
31
19
Kỳ Sơn
0
1
5
10
20
18
( Số liệu từ Bưu Điện Nghệ An )
Phân tích nhu cầu sử dụng dịch vụ ADSL :
Qua các số liệu đã có trên ta thấy: Nếu phấn đấu để đảm bảo chỉ tiêu đến năm 2005 số thuê bao internet đạt 1,3 – 1,5 trên 100 dân (như trong Quyết định phê duyệt kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam đến năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ ) thì số lượng thuê bao Internet cần phát triển là 39.000 – 45.000 thuê bao. Giả sử rằng tỉ lệ hộ gia đình sử dụng dịch vụ ADSL khoảng 1%(tức là 1 thuê bao ADSL/100 hộ gia đình hay tương đương 1 thuê bao ADSL/493 người dân) thì số cổng ADSL phải lắp đặt sẽ là: 6.085 (cổng).
Nếu dặt mục tiêu phát triển thuê bao ADSL tương ứng với tỷ lệ 5% số lượng doanh nghiệp thì nhu cầu phát triển thuê bao ADSL sẽ vào khoảng 227 thuê bao, đây thực sự là những thuê bao có nhu cầu rất lớn về tốc độ truy nhập cũng như băng thông. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng doanh nghiệp có nhu cầu truy nhập Internet và truyền số liệu rất nhiều, khó có thể xác định chính xác, nhưng sẽ lớn hơn nhiều so với số lượng thuê bao dự tính này. Mức tăng trưởng doanh thu hàng năm cao và đặc biệt đột biến trong năm 2002 cho thấy nhu cầu về dịch vụ mới có chất lượng cao, hơn nữa vấn đề “tắc nghẽn” trong truy nhập Internet cũng như truyền số liệu đang là một vấn đề cần phải được giải quyết kịp thời mới có khả năng đáp ứng được chất lượng dịch vụ và nhu cầu đòi hỏi. Một trong các dịch vụ mới đáp ứng được các yêu cầu này là ADSL.
2.7 Dự Báo nhu cầu
2.7.1 Nguyên tắc phát triển dịch vụ ADSL:
- Dựa trên nhu cầu yêu cầu thực tế trong hiện tại và có tính tới xu thế phát triển nhu cầu trong tương lai.
- Đáp ứng vừa kịp thời, vừa đa dạng các loại hình dịch vụ trên cơ sở kế hoạch phát triển mạng hợp lý, hiệu quả.
- Phát triển dịch vụ phù hợp với nhu cầu, yêu cầu trong từng gia đoạn ngắn và trung hạn.
2.7.2 Dự báo đối tượng khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ ADSL:
- Khách hàng hiện có : là những khách hàng đang sử dụng các dịch vụ truy hiện có (Leased Line, Dial Up, truyền số liệu X.25, v.v...), bao gồm: các khách hàng đang sử dụng thuê kênh Leased Line, các khách hàng thuê kênh truyền số liệu X.25, các điểm truy nhập Internet, các thuê bao VNN(1260/1267/1268/1269), v.v... Cụ thể như sau:
+ Đối tượng khách hàng sẽ có nhu cầu sử dụng dịch vụ ADSL trong việc truy nhập Internet tốc độ cao, băng rộng đó là : các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp có chi nhánh trong nước, nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, công nghiệp, thương mại, du lịch, khách sạn, v.v...
+ Đối tượng khách hàng sẽ có nhu cầu sử dụng dịch vụ ADSL trong việc tích hợp dịch vụ thoại và kết hợp với dịch vụ truyền số liệu đó là: các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực thương mại - dịch vụ (ngân hàng, khách sạn , du lịch, ...), các thuê bao Internet phổ thông, các điểm truy nhập Internet phổ thông, hộ gia đình, v.v...
+ Đối tượng khách hàng sẽ có nhu cầu sử dụng dịch vụ ADSL trong việc truy nhập trực tuyến, video theo yêu cầu, giáo dục từ xa, y tế từ xa, v.v...đó là : các viện nghiên cứu, các trường đại học cao đẳng, các trung tâm y tế, doanh nghiệp du lịch , khách sạn, nhà hàng.
- Khách hàng tiềm năng: Là những khách hàng hiện tại chưa hoặc ít sử dụng các dịch vụ truy nhập Internet, truyền số liệu nhưng có khả năng sẽ sử dụng dịch vụ ADSL khi dịch vụ này được đưa vào sử dụng và phát triển. Đối tượng khách hàng này bao gồm:
+ Các doanh nghiệp công nghiệp, thương mại, dịch vụ v.v...
+ Các cơ quan quản lý của chính quyền địa phương (UBND tỉnh, thành phố, thị xã, quận, huyện, phường, xã, ... ), các ban ngành chức năng (Sở KHĐT, Sở Xây Dựng, Sở Tài Chính, ngân hàng, v.v...)
+ Các hộ gia đình có thu nhập cao trở lên.
2.7.3 Các mô hình dự báo được khuyến nghị bởi ITU-T(CCITT):
2.7.3.1 Qui trình dự báo:
Dự báo nhu cầu thoại là một quá trình phức tạp nhưng về cơ bản có thể phân làm các bước chính như hình sau:
Thu Thập dữ liệu
Lựa chọn mô hình dự báo
Phát triển mô hình dự báo
Phân tích kết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CD260.doc