MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Một số nội dung chung về thuế GTGT
I./ Khái niệm thuế GTGT
II./ Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới
III./ Những điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế GTGT và thuế doanh thu
a. Điểm giống
b. Điểm khác
IV./ Ưu nhược điểm chủ yếu của thuế GTGT
a. Ưu điểm
b. Nhược điểm
Chương II: Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT ở nước ta
I. Đối tượng đánh thuế và đối tượng nộp thuế
1/ Đối tượng đánh thuế
2/ Đối tượng nộp thuế
II. Căn cứ tính thuế
1/ Giá tính thuế
2/ Thuế suất
III/ Phương pháp tính thuế
1. Phương pháp khấu trừ thuế
a/ Đối tượng áp dụng
b/ Xác định thuế GTGT phải nộp
2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
a/ Đối tượng áp dụng
b/ Xác định thuế GTGT phải nộp
c/ Phương pháp xác định gtgt làm căn cứ tính thuế gtgt phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh.
IV. Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
V. Hoàn thuế GTGT
1. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT
2. Thẩm quyền giải quyết hoàn thuế
3. Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế
VI. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế
1. Đăng ký nộp thuế
2. Kê khai thuế GTGT phải nộp NSNN
3. Nộp thuế GTGT
4. Quyết toán thuế GTGT
5. Xử lý các vi phạm về thuế GTGT
6. Tổ chức quản lý thu thuế.
Chương III: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta.
I/ Tình hình áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta
1. Những kết quả bước đầu.
2. Những tồn tại trong quá trình thực hiện.
49 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực tiễn áp dụng luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p phế liệu.
Tỷ lệ 3% đối với các phế liệu khác.
Các trường hợp khác, cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ thuế đầu vào như sau:
Tỷ lệ 5% đối với tiền bồi thường của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Tỷ lệ 4% đối với hàng chịu thuế TTĐB của cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở sản xuất để bán.
Tỷ lệ 3% đối với đất, đá, cát, sỏi mà cơ sở sản xuất mua của người khai thác không có hoá đơn nhưng có bản kê hoặc mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng.
Tỷ lệ 3% đối với tất cả các loại hàng khác mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, chịu thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ; trường hợp không hạch toán riêng thì được khấu trừ theo tỷ lệ % giữa doanh số chịu thuế GTGT so với tổng doanh số bán ra.
2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
a/ Đối tượng áp dụng
Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam (người kinh doanh độc lập, hộ gia đình, các cá nhân hợp tác với nhau sản xuất kinh doanh không hình thành pháp nhân).
Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
b/ Xác định thuế GTGT phải nộp
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT không được tính giá trị tài sản mua ngoài, đầu tư xây dựng làm tài sản cố định vào doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào để tính GTGT.
GTGT xác định đối với một số ngành nghề như sau:
Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng, GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh.
Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt, GTGT là số chênh lệch giứa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình.
Đối với hoạt động vận tải, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải.
Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng ăn uống, tiền phục vụ và các khoản thu khác trừ doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống.
Đối với các hoạt động kinh doanh khác, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu về hoạt động kinh doanh trừ doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoạt động kinh doanh đó.
Doanh số hàng hoá, dịch vụ bán ra bao gồm cả các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu được tiền.
Doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào bao gồm cả các khoản thuế và phí đã trả tính trong giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc hàng hoá nhập khẩu.
c/ Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau:
Đối với từng cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, bán ghi trên chứng từ.
Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu sẽ được tổng cục thuế hướng dẫn các cục thuế xác định phù hợp từng nghành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương.
IV/ Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
1. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT)
2. Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên GTGT và các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT sử dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực thanh toán đã có thuế GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT).
3. Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với mẫu quy định chung (kể cả loại hoá đơn tự phát hành) phải đăng ký với Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng khi đã được thông báo bằng văn bản cho sử dụng.
4. Cơ sở kinh doanh trực tiếp bán lẻ hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ có giá trị thấp dưới mức quy định phải lập hoá đơn thì có thể không phải lập hoá đơn. Nếu cơ sở không lập hoá đơn thì phải lập bảng kê bán lẻ theo mẫu số 05/GTGT để làm căn cứ tính thuế GTGT; trường hợp người mua yêu cầu lập hoá đơn bán hàng thì phải lập hoá đơn theo đúng quy định.
5. Cơ sở kinh doanh mua các mặt hàng là nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người sản xuất trực tiếp bán ra hoặc ngưòi không kinh doanh bán, nếu không có hoá đơn theo chế độ quy định thì phải lập bảng kê hàng hoá mau vào theo mẫu số 04/GTGT.
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý , sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ tài chính ban hành.
V. Hoàn thuế GTGT
1. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đựơc xét hoàn thuế nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ của 3 tháng liên tục lớn hơn số thuế đầu ra. Những cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng thời kỳ với số lượng lớn, nếu phát sinh số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu lớn hơn so với thuế đầu ra thì đựơc xét hoàn thuế GTGT từng kỳ.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nợp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, có đầu tư mua sắm TSCĐ, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn:
Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa có doanh thu bán hàng phát sinh để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên đựơc xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp số thuế được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quý.
Trường hợp cơ sở mới đầu tư nhưng chưa thành lập doanh nghiệp hoặc chưa đăng ký nộp thuế thì không thuộc đối tượng được hoàn thuế.
Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ sau 3 tháng mà chưa được khấu trừ hết thì được hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ này.
Cơ sở thuộc đối tượng quy định được hoàn thuế trên đây phải lập hồ sơ theo quy định chung, cơ sở phải gửi kèm theo luận chứng hay dự án đầu tư.
Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thế, phá sản có thuế GTGT nộp thừa.
Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Quyết định của bộ trưởng bộ tài chính yêu cầu phải hoàn lại thuế cho cơ sở kinh doanh.
2. Thẩm quyền giải quyết hoàn thuế.
Chi cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các cá nhân kinh doanh do chi cục quản lý; Cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các đối tượng do cục thuế quản lý; Bộ trưởng Bộ Tài chính giải quyết đối với các trường hợp đặc biệt và các Tổng công ty 90/TTg, 91/TTg.
3. Thời hạn giải quyết hoàn thuế.
Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế cho cơ sở đối với cơ quan thuế là 15 ngày, kể từ này nhận được đầy đủ hồ sơ, trường hợp đặc biệt cũng không được kéo dài quá 30 ngày. Nếu cần bổ sung hồ sơ hoặc xét thấy không được hoàn thuế thì cơ quan thuế phải thông báo cho cơ sở biết trong thời hạn là 10 ngày, kể từ ngày nhận đựơc hồ sơ. Kho bạc có trách nhiệm làm thủ tục hoàn trả tiền thuế cho cơ sở trong thời hạn là 5 ngày, kể từ ngày nhận đựơc quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế.
VI. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế
1. Đăng ký nộp thuế.
Các cơ sở kinh doanh, kể cả các đơn vị, chi nhánh cửa hàng trực thuộc các cơ sở kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế với cục thuế (hoặc chi cục thuế nếu là cá nhân kinh doanh) về địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộp thuế và các chỉ tiêu liên quan khác theo mẫu quy định.
Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày cơ sở được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Cơ sở hoạt động ở một số địa phương nhưng có trụ sở, văn phòng giao dịch làm thủ tục bán hàng ở một địa phương khác thì cơ sở bán hàng cũng phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế địa phương nơi bán hàng (địa phương được xác định là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
Những cơ sở kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ có chi nhánh cửa hàng ở các địa phương khác nhau thì từng chi nhánh cửa hàng phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đặt chi nhánh, cửa hàng.
Các tổ chức, cá nhân thực hiên dịch vụ tư vấn, khảo sát, thiết kế đăng ký, kê khai nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi xây dựng công trình.
Cơ sở thực hiện cơ chế khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo phương thức tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh thì tập thể, cá nhân khoán phải trực tiếp đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế nơi kinh doanh.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, nếu thực hiện đúng, đủ các điều kiện mua, bán hàng hoá, dịch vụ có đầy đủ hoá đơn, chứng từ, ghi chếp hạch toán sổ kế toán đúng chế độ, kê khai nộp thuế GTGT đúng chế độ và tự nguyện đăng ký thực hiện hình thức nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì có thể được áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
2. Kê khai thuế GTGT phải nộp NSNN.
Các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theo bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra theo các mẫu quy định (mẫu 01/GTGT, 02/GTGT, 03/GTGT, 04/GTGT, 05/GTGT, 06/GTGT). Thời gian gửi tờ khai của tháng cho cơ quan thuế chậm nhất là trong 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Trường hợp không phát sinh doanh số bán hàng hoá, dịch vụ, thuế đầu vào, thuế đầu ra, cơ sở kinh doanh vẫn phải kê khai và nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Cơ sở nhận thầu xây dựng mà thời gian xây dựng kéo dài, việc thanh toán tiền thực hiện theo tiến độ hoặc theo khối lượng công việc hoàn thành bàn giao thì phải kê khai và xác định thuế tạm nộp phát sinh hàng tháng tính theo số tiền tạm thanh toán. Khi lập hóa đơn thanh toán khối lượng xây lắp bàn giao cũng phải xác định rõ phần doanh thu chưa có thuế và thuế GTGT. Nếu không xác định rõ thì thuế GTGT đầu ra tính trên tổng doanh thu đã thanh toán.
Cơ sở xuất hàng bán thông qua các đại lý, ký gửi phải lập hoá đơn ghi rõ giá giao và thuế GTGT hàng giao cho các đại lý, ký gửi làm cơ sở tính thuế đầu ra và thuế phải nộp của tháng (coi là tạm nộp). Khi kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc năm tài chính, cơ sở thực hiện kê khai quyết toán hàng thực tế đã bán để xác định thuế GTGT phải nộp theo thực tế.
Cơ sở bán hàng đại lý, ký gửi kê khai thuế GTGT phải nộp tính trên doanh thu của hoạt động đại lý, ký gửi theo phương pháp áp dụng đối với cơ sở.
Đối với đại lý bán vé xổ số kiến thiết hưởng hoa hồng, thuế GTGT do các công ty xổ số kiến thiết kê khai nộp tập trung tại công ty.
Đối với các Tổng công ty, công ty có các đơn vị trực thuộc:
Các đơn vị hạch toán độc lập và các đơn vị hạch toán phụ thuộc xác định được thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào phải kê khai, nộp thuế tại địa phương nơi cơ sở kinh doanh.
Các đơn vị hạch toán phụ thuộc, thực hiện hạch toán giá mua, bán hàng hoá, dịch vụ theo giá điều chuyển nội bộ, không xác định được doanh thu, thuế GTGT phải nộp thì Công ty hoặc Tổng công ty kê khai, nộp thuế tập trung thay cho các đơn vị hạch toán phụ thuộc.
Các đơn vị trực thuộc như: bệnh viện, trạm xá, nhà nghỉ điều dưỡng, viện, trường .. không trực tiếp kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT không phải kê khai, nộp thuế và không được khấu trừ hay hoàn trả thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ do cơ sở mua để dùng cho hoạ động của cơ sở. Nếu đơn vị có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì phải hạch toán riêng và kê khai, nộp thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế.
2. Các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hoá dịch vụ chịu thuế tại Việt Nam nhưng không có văn phòng hay trụ sở điều hành tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân ở Việt Nam trực tiếp ký hợp đồng tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ với tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài trước khi thanh toán tiền trả cho phía nước ngoài.
3. Cơ sở nhập khẩu có hàng hoá chịu thuế GTGT phải kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu với cơ quan thu thuế nhập khẩu.
4. Cơ sở kinh doanh buôn chuyến kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng, trước khi chuyển hàng đi. Số thuế phải nộp đối với kinh doanh buôn chuyến tính theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Trong trường hợp cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu không gửi tờ khai thuế hoặc kê khai không đúngquy đinh, cơ quan thuế có quyền căn cứ vào tình hình kinh doanh của cơ sở và các số liệu điều tra để ấn định doanh thu và tiền thuế GTGT phải nộp, thông báo cho cơ sở thực hiện.
3. Nộp thuế GTGT.
Đối với cơ sở kinh doanh thực hiện nộp thuế hàng tháng theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất của tháng không quá ngày 25 của tháng tiếp theo.
Đối với những cơ sở có số thuế nộp hàng tháng lớn thì thực hiện tạm nộp thuế phát sinh trong tháng theo định kỳ 10 ngày hoặc 15 ngày 1 lần. Khi kê khai số thuế phải nộp của cả tháng, trừ số thuế đã tạm nộp, cơ sở sẽ nộp số thuế còn thiếu. Kỳ nộp do cơ quan thuế xác định và thông báo cho cơ sở.
Cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo nộp thuế nhập khẩu. Đối với hàng hoá không phải nộp thuế nhập khẩu hoặc có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0% thì thời hạn nộp thuế GTGT thực hiện như quy định đối với hàng hoá phải nộp thuế nhập khẩu. Đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc diện không phải nộp thuế GTGT khi nhập khẩu như: Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, quà biếu, quà tặng, hàng viện trợ nhân đạo... nếu đem bán hoặc xuất dùng vào mục đích khác thì phải kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý cơ sở như quy định đối với hàng hóa do cơ sở kinh doanh.
Cơ sở kinh doanh cố định đi mua nguyên liệu, hàng hoá, vận chuyển hàng của cơ sở đi bán hoặc trao đổi với cơ sở khác, vận chuyển trong nội bộ cơ sở phải có đủ hoá đơn, chứng từ theo quy định, nếu không sẽ phải nộp thuế GTGT tính trên giá trị hàng hoá; hàng nhập khẩu còn bị truy thu thuế nhập khẩu và thuế GTGT khâu nhập khẩu.
Trong một kỳ tính thuế, nếu cơ sở kinh doanh có số thuế nộp thừa kỳ trước được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo, nếu kỳ trước nộp thiếu thì phải nộp đủ số thiếu đó.
Thuế GTGT nộp vào NSNN bằng đồng Việt nam. Trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu hoặc mua hàng hoá, dịch vụ thanh toán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt nam theo tỷ giá mua, bán thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm phát sinh hoạt động mua, bán hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ để xác định số thuế GTGT phải nộp.
4. Quyết toán thuế GTGT.
Các cơ sở (trừ hộ kinh doanh vừa và nhỏ nộp thuế theo mức ấn định doanh thu, hộ kinh doanh buôn chuyến) đều phải thực hiện quyết toán thuế GTGT
Thời hạn cơ sở kinh doanh phải nộp quyết toán thuế chậm nhất không quá 60 ngày, kể từ ngày 31 tháng 12 của năm quyết toán thuế.
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán tài chính theo chế độ Nhà nước quy định; trên cơ sở quyết toán tài chính, cơ sở kinh doanh có trách nhiệm kê khai toàn bộ số thuế phải nộp, số đã nộp của năm hoặc thời hạn quyết toán, số còn thiếu hay nộp thừa tính đến thời điểm quyết toán thuế. Mẫu quyết toán thuế là mẫu số 10/GTGT.
5. Xử lý các vi phạm về thuế GTGT
Cảnh cáo hoặc phạt tiền nếu không thực hiện đúng những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai, nộp thuế, kê khai lập sổ kế toán và giữ chứng từ, hoá đơn liên quan đến việc tính và nộp thuế.
Phạt chậm nộp thuế: Nộp tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo thu thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt thì ngoài việc nộp đủ số thuế hoặc tiền phạt theo luật định, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% số tiền chậm nộp.
Thời hạn tính phạt chậm nộp thuế hàng tháng kể từ ngày 26 của tháng tiếp theo; đối với hàng hoá nhập khẩu và các trường hợp khác là sau ngày quy định phải nộp theo luật định.
Phạt tiền từ 1 đến 5 lần số thuế gian lận, truy cứu trách nhiệm hình sự nếu trốn thuế với số lượng lớn hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng.
Không nộp thuế hoặc nộp phạt sẽ bị xử lý như sau:
Trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại NH, kho bạc, tổ chức tín dụng để nộp thuế, nộp phạt.
Giữ hàng hoá, tang vật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt.
Kê biên tài sản theo quy định của pháp luật.
6. Tổ chức quản lý thu thuế.
Tổng cục thuế chịu trách nhiệm tổ chức thu thuế GTGT và hoàn thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh.
Tổng cục hải quan chịu trách nhiệm thu thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu.
Chương III: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và kiến nghị một số vấn đề cần xem xét.
I/ Tình hình áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta trong thời gian vừa qua.
Những kết quả bước đầu.
Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ năm 1999, trong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta, gây ra những bất lợi, nhưng tính đến nay đã đạt được nhiều kết quả tốt và đang phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.
Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã có tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ. Có một số ngành nghề, mặt hàng trong thời gian đầu áp dụng Luật thuế GTGT đã không tránh khỏi gặp khó khăn, lúng túng ban đầu do chậm chuyển đổi phù hợp với mức thuế mới như than, cơ khí (trừ cơ khí tiêu dùng), luyện cán - kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, vận tải, bốc xếp, xây dựng, khách sạn, ăn uống, du lịch... Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn như: cho bổ xung một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế, mở rộng việc khấu trừ thuế... Đến cuối năm 1999, các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng trên đã đi vào ổn định, sản phẩm tăng, nộp được thuế và có lãi. Có nhiều sản phẩm, tính chung cả năm 1999, tăng cao hơn so với năm 1998 như phân hoá học tăng 14%, sứ vệ sinh tăng 52,9%, gạch lát tăng 25%, thép cán tăng 12,9%, máy biến thế tăng 23,2%, động cơ đi-ê-zen gấp hơn 2,5 lần. Đối với một số doanh nghiệp đã bị thua lỗ lớn từ trước, qua hơn một năm áp dụng các luật thuế mới, chưa kịp chuyển biến nên sản xuất kinh doanh vẫn trì trệ và chưa hết lỗ.
Các hoạt động dịch vụ có khá hơn, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 3,5% so với năm 1998.
Việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp còn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý, thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ; đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới.
Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đã thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá thuận lợi. Tính chung cả năm 1999, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 5,1% (bao gồm cả yếu tố trượt giá 4,7%).
Thứ hai, Luật thuế GTGT và các Luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như: đối với những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao trong năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế doanh thu cũ; từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó, trong năm 1999, tuy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chỉ bằng 77,7% so với thực hiện năm 1998 nhưng vốn đầu tư xã hội vẫn tăng khoảng 9% so với năm trước.
Thứ ba, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Luật thuế GTGT quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu nên đã khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Số tiền hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng trong năm 1999 cho hàng xuất khẩu đã góp phần quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào tăng cao như: gạo tăng 12%; hàng dệt may tăng 14%; giày dép tăng 31%; thuỷ hải sản tăng 11%; hàng điện tử tăng 16%; rau quả tăng 31%; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 33%. Kết quả cho thấy năm 1999 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của nước ta vừa đạt tốc độ tăng trưởng cao, vừa vựơt mức kế hoạch. Trong điều kiện kinh tế thế giới lâm vào tình trạng giảm phát, hàng hoá ứ đọng, thị trường tiêu thụ hàng hoá bị co lại, nhiều mặt hàng liên tục giảm giá, nhưng tính chung cả năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại đạt 115,2% kế hoạch năm và tăng 23,1% so với năm 1998 (năm 1998 tăng 1,9%).
Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ được thị trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu, thực hiện thuế suất ưu đãi khi tham gia các hiệp định thương mại đa phương, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999, thuế GTGT đã góp phần hạn chế hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho sản xuất. Đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về, nhưng đã có xem xét, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn định sản xuất trong nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể đến tác động của thuế GTGT, mà tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999 chỉ tăng 1% so với năm 1998.
Thuế GTGT còn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu chuyển mạnh sang sản xuất hướng nhập khẩu. Thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nước ta có thế mạnh như nông sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các quy định cụ thể như: không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra; cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng trên; hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất khẩu các mặt hàng này nếu có hoá đơn GTGT đầu vào... Nhờ vậy, trong năm 1999, lượng gạo xuất khẩu đạt 4,55 triệu tấn, tăng hơn 80 vạn tấn so với năm trước; lượng thuỷ sản xuất khẩu cả năm đạt giá trị 979 triệu USD, bằng 11,4% so với năm 1998. Hầu hết các nông sản xuất khẩu chủ yếu tăng về khối lượng như chè tăng 13,0%; cà phê tăng 27,6%; cao su 37,2%; hạt tiêu tăng 2,3 lần.
Thứ tư, thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hoá. Bản chất của thuế GTGT là không làm tăng giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào trong giá. Một vài tháng đầu thực hiện Luật thuế GTGT, một số doanh nghiệp và hộ kinh doanh đã cộng thêm thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hoá đã nhích lên chút ít. Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã có biện pháp quản lý k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0125.doc