LỜI MỞ ĐẦU . 1
Phần I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ . 2
1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế . 2
2. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế 3
3. Các hình thức của chính sách thương mại quốc tế . 3
3.1 Chính sách mậu dịch tự do 3
3.2 Chính sách bảo hộ mậu dịch .4
4. Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế 4
4.1 Nguyên tắc tương hỗ 4
4.2 Nguyên tắc ngang bằng dân tộc 5
4.3 Nguyên tắc tối huệ quốc 5
5. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế 5
5.1 Công cụ thuế quan . 5
5.2 Hạn ngạch . 7
5.3 Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật 8
5.4 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện . 8
5.5 Cấm hẳn nhập khẩu hoặc xuất khẩu một số loại hàng hóa nào đó . 8
5.6 Trợ cấp xuất khẩu . 9
5.7 Bán phá giá hàng hóa 9
5.8 Bán phá giá hối đoái . 9
Phần II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP HIỆN NAY . 10
I.Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của ViệtNam . 10
1. Các nguyên tắc trong chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam hiện nay . 10
1.1 Thương mại không phân biệt đối xử . 10
1.2 Thương mại ngày càng tự do hơn . 11
1.3 Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch . 12
1.4 Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng 13
1.5 Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển . 13
2. Việt Nam hướng đến tự do hóa thương mại 14
3. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam hiện nay . 16
3.1 Thuế quan 16
3.2 Hạn ngạch 17
3.3 Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật . 19
3.4 Hạn chế xuất khẩu 19
3.5 Trợ cấp xuất khẩu 19
3.6 Các quy định về chống bán phá giá của Việt Nam . 20
II. Đánh giá về chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam hiện nay 21
1. Những mặt đạt được . 21
2. Những hạn chế .
Phần III. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ . 28
1. Về hệ thống chính sách . 28
2. Về chính sách thuế
3. Về công cụ tỷ giá . 29
4. Biện pháp về chống bán phá giá . 29
5. Điều hành nhất quán của các bộ, ngành, hiệp hội . 29
KẾT LUẬN . 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 31
42 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 24665 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
1.3. Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch:
Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO mà Việt Nam và các nước thành viên phải tuân thủ. Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ.
Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu Việt Nam và các nước thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
1.4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn:
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hoặc các biện pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
1.5. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất:
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ "cầu thủ" thì không hề ngang nhau.
Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các hiệp định của WTO.
Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.Việt Nam cũng là một trong những nước đang phát triển được hưởng các ưu đãi này của WTO.
2.Việt Nam hướng đến tự do hóa thương mại
Ở giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa được xem là quá trình hình thành một không gian kinh tế, tài chính và thông tin toàn cầu thống nhất. Mục đích của toàn cầu hóa là xóa dần các rào cản quốc gia trước hết là về kinh tế, tạo sự chuyển động tự do cho các dòng chảy thông tin, vốn, hàng hóa và dịch vụ. Do đó, có thể thấy một trong những trụ cột cơ bản của toàn cầu hóa là tiến trình tự do hóa thương mại. Làn sóng tự do hóa thương mại đang diễn ra sôi động chưa từng có trên thế giới. Và Việt Nam không nằm ngoài làn sóng đó trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.
Việt Nam tham gia đàm phán hiệp định thương mại tự do(FTA). FTA(Free Trade Agreement) là hình thái mậu dịch tự do, có thể áp dụng hình thái này với hợp tác song phương, đa phương, không chỉ giới hạn trong việc thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ mà còn cả xúc tiến và tự do hóa đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và nhiều nội dung khác.
Tính đến nay, Việt Nam chưa ký kết và triển khai FTA riêng với nước nào. Tuy nhiên, Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết và triển khai thực hiện 3 hiệp định FTAs là Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA).
Việt Nam và ASEAN hiện đã kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP). Các Hiệp đinh Thương mại Tự do ASEAN-Australia-New Zealand (AANZFTA) và ASEAN-Ấn Độ (AIFTA) hiện đã kết thúc đàm phán và dự kiến sẽ được ký vào cuối năm 2008. Riêng Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN – EU hiện đang tiếp tục đàm phán. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng hiệp định FTA song phương đầu tiên của Việt Nam và đang xem xét đàm phán một FTA song phương với Chi-lê.
Dưới đây xin khái quát lại những mốc thời gian quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam, bao gồm cả việc tham gia đàm phán FTA trong khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN với các nước ngoài khối:
Năm 1986: Việt Nam bắt đầu chính sách Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, thiết lập nền tảng cho quá trình cải tổ kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 1994: Việt Nam đệ đơn xin gia nhập GATT và năm 1995 tái khẳng định quyết tâm đàm phán gia nhập WTO.
Năm 1995: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Năm 1996: Việt Nam tham gia Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA của ASEAN. Năm 1996 cũng là năm Việt Nam trở thành thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM).
Năm 1998: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
Năm 2002: Cùng ASEAN khởi động đàm phán ACFTA với Trung Quốc.
Năm 2003: Chương trình Thu hoạch sớm (Early Harvest) trong khuôn khổ ACFTA chính thức được triển khai.
Năm 2003: Cùng ASEAN bắt đầu đàm phán FTAs với Ấn Độ (AIFTA) và Nhật Bản (AJFTA)
Năm 2004: Cùng ASEAN bắt đầu đàm phán FTAs với Hàn Quốc (AKFTA), Australia và New Zealand (AANZ FTA).
Năm 2006: Được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Năm 2007: Cùng ASEAN khởi động đàm phán FTA với EU và khởi động đàm phán FTA song phương với Nhật Bản.
Năm 2008: khởi động đàm phán FTA song phương với Chi-lê.
Việc Việt Nam gia nhập WTO chính là sự tiếp nối thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đó, tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - AFTA; tháng 12/2001, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ bắt đầu có hiệu lực; sau đó, nước ta cũng đã ký nhiều Hiệp định kinh tế song phương và đa phương với một số nước và tổ chức quốc tế. Do vậy, việc thực hiện cam kết WTO cần được đặt trong tổng thể các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, bởi chúng có quan hệ với nhau, cùng hướng tới tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế.
Trên cơ sở nguyên tắc đó, khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có những cam kết cụ thể về hàng hóa và dịch vụ. Cần có nhận thức đúng đắn rằng, những cam kết cụ thể của Việt Nam khi gia nhập WTO không phải là “sức ép từ bên ngoài” mà vì lợi ích dân tộc đòi hỏi phải tiến nhanh hơn trên con đường tự do hóa thương mại và đầu tư. Việc thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế có tác động thúc đẩy nhanh hơn quá trình đổi mới theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
3. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam hiện nay:
3.1. Thuế Quan:
Hệ thống thuế quan là một trong những thực thể bị chi phối nhiều nhất khi Việt Nam gia nhập WTO. Biểu thuế của Việt Nam có một số thay đổi để thực hiện những cam kết về hàng hóa với WTO.
Thuế suất đánh trên hầu hết hàng hóa, kể cả nông sản, sẽ không quá giới hạn 35%. Thuế suất cao hơn 35% đánh trên một số sản phẩm (thí dụ như rượu, thuốc lá, cà phê uống liền (instant coffee), xe hơi cũ và mới, phụ tùng xe hơi, và ngói) sẽ được giãm dần, kể từ nay cho đến 2014.
Một số sản phẩm về kỹ thuật thông tin(information technology) nhập cảng từ các quốc gia thành viên đã ký kết Thỏa ước Kỹ thuật Thông tin (Information Technology Agreement) sẽ được miễn thuế. Một số sản phẩm có hiệu lực ngay lập tức, một số khác sẽ được miễn dần từ nay cho đến 2010 hoặc 2014.
Thuế suất trên một vài sản phẩm (như trứng, thuốc lá, đường, và muối) sẽ được đánh theo thuế suất hạn ngạch (thuế suất thấp cho số lượng ít hơn hạn ngạch, thuế suất cao hơn cho số lượng vượt hạn ngạch). Tuy nhiên, Việt Nam sẽ nới rộng và bãi bỏ hạn ngạch theo thời biểu được thỏa thuận.
Việt Nam có quyền ấn định thuế quan dựa trên trọng lượng ($/tấn) thay vì trên giá cả (phần trăm) của hàng hóa, miễn là thuế suất thực sự không vượt quá giới hạn đã được thỏa thuận.
Việt Nam cam kết không trợ giá cho nông sản xuất cảng. Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam được quyền hỗ trợ cho nông dân trong nước nhưng không quá 246 triệu $US cộng với 10% tổng sản lượng nông nghiệp nội địa. Cũng như các thành viên WTO khác, Việt Nam có quyền hỗ trợ không hạn chế cho các hoạt động không có ảnh hưởng đến mậu dịch.
Có tất cả 18 loại hàng hóa bị cấm lưu hành ở Việt Nam. Trong số này có “Sản phẩm văn hóa phản động và khiêu dâm; sản phẩm phục vụ mê tín hoặc sản phẩm có hại cho việc phát triển con người
3.2 Hạn ngạch
Là thành viên của WTO, Việt Nam đã cam kết loại bỏ tất cả các biện pháp hạn chế định lượng với hàng nhập khẩu ngay khi gia nhập trong đó có hạn ngạch thuế quan. Điều này gây ra nhiều bất lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế cho Việt Nam. Bởi lẽ, bỏ quota, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, các nước nhập khẩu sẽ được tự do lựa chọn nơi nào có lợi thế cạnh tranh hơn để nhập khẩu hàng hoá. Khi đó, tình hình chắc chắn sẽ có lợi hơn cho các nước có đầy đủ năng lực cạnh tranh chiếm thêm thị phần mà trước đó đã là của nước khác. Các nước có tiềm năng sản xuất, xuất khẩu với công nghệ tiên tiến, chủ động được nguyên phụ liệu, có các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, được chính phủ quan tâm đầy đủ thì sẽ tận dụng được cơ hội này để phát triển. Còn đối với Việt Nam – 1 nước đang phát triển với nguồn lực còn nhiều hạn chế thì đây là một khó khăn rất lớn.
Ví dụ về việc dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng nông sản của Việt Nam.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường nông nghiệp bằng việc cắt giảm thuế nông sản là 20% so với mức hiện hành. Đồng thời, cam kết loại bỏ hết các hàng rào phi thuế, trừ các biện pháp hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng là đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá, muối.
Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế Tối huệ quốc (MFN) hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá: 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Mức cắt giảm thuế không đều giữa các lĩnh vực: thuế thấp đối với vật tư nông nghiệp (giống nguyên liệu chế biến, thức ăn) là 0-10%; thuế trung bình 15-30% với các sản phẩm nông sản tươi (rau quả, sữa, thịt); và thuế cao (40-50%) đến rất cao (60-100%) đối với sản phẩm chế biến (thịt, cà phê tan, rượu-bia, thuốc lá, nước giải khát. Với mức cắt giảm như vậy, đối tượng được bảo vệ là ngành công nghiệp chế biến hơn là nông dân.
Việc xoá bỏ hạn ngạch thuế quan cho một số lượng các mặt hàng nông sản mà Việt Nam vốn có khả năng cạnh tranh thấp sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với những người nông dân sản xuất trực tiếp, nhất là trong bối cảnh nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp, trong khi bình quân đất nông nghiệp theo đầu người quá ít, giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha canh tác trung bình ở mức 30 triệu đồng/ha.
Đặc biệt, trong ngành đường và muối của Việt Nam, chất lượng sản phẩm thấp trong khi giá thành sản xuất lại cao đã kéo theo lượng hàng nhập lậu lớn từ các nước láng giềng với chi phí thành phẩm thấp hơn một cách đáng kể. Trong năm 2006, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 185.000 tấn đường và 118.515 tấn muối, trong khi lượng hạn ngạch mà Việt Nam cam kết khi gia nhậpWTO là 55.000 tấn đường và 150.000 tấn muối.
Điều này cho thấy việc áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với những mặt hàng này rõ ràng có tác động đáng kể đối với khả năng tiếp cận thị trường củ các nhà nhập khẩu cũng như đời sống người nông dân.
Một số ngành như dệt may, da giầycũng đang gặp khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường thế giới do việc cắt bỏ hạn ngạch để thực hiện cam kết khi gia nhập WTO.
3.3 Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật:
Ðể bảo đảm cho việc tuân thủ Thỏa ước TBT của tổ chức thương mại thế giới WTO, vào tháng 6 năm 2006, Việt Nam đã ban hành Luật về Tiêu chuẩn và Quy định Kỹ thuật bao gồm tất cả các tiêu chuẩn ghi trong các văn bản pháp luật hiện hành như Quy định về Ðo lường, Phẩm chất Thực phẩm, Vệ sinh và An toàn Thực phẩm, Bảo vệ Thực vật, Thú y, và Bảo vệ Giới Tiêu thụ. Việt Nam cũng thực thi nhiều chương trình để dung hòa (harmonize) tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế. Tính đến cuối năm 2004, Việt Nam có trên 5.800 tiêu chuẩn, khoảng 1.450 tiêu chuẩn dịch thẳng và khoảng 4.350 nháy theo tiêu chuẩn quốc tế hoặc của các quốc gia trong vùng. Ngoại trừ 231 tiêu chuẩn bắt buộc, việc áp dụng tiêu chuẩn có tính cách tự nguyện (voluntary). Các tiêu chuẩn bắt buộc và những quy định kỹ thuật được áp dụng tại Việt Nam có thể đặt mua ở Trung tâm Thông tin Tiêu chuẩn Ðo lường Chất lượng trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Ðo lường Chất lượng (STAMEQ).
3.4 Hạn chế xuất khẩu:
Việt Nam vẫn duy trì việc kiểm soát xuất khẩu trên một số mặt hàng như gạo,một số sản phẩm gỗ và khoáng chất ( nhằm ngăn chặn việc khai thác bất hợp pháp) nhưng phải phù hợp với các hiệp định của WTO.
3.5 Trợ cấp xuất khẩu
Việt Nam đang từng bước thực hiện những cam kết về trợ cấp xuất khẩu khi gia nhập WTO:
- Bãi bỏ trợ cấp thay thế nhập khẩu (như thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa) và các loại trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước (như bù lỗ cho hoạt động xuất khẩu, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất cho hợp đồng xuất khẩu) kể từ khi gia nhập WTO.
- Với trợ cấp xuất khẩu “gián tiếp” (chủ yếu dưới dạng ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu), sẽ không cấp thêm kể từ khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, với các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã được hưởng ưu đãi loại này từ trước ngày gia nhập WTO, ta được một thời gian quá độ là năm năm để bãi bỏ hoàn toàn.
- Riêng với ngành dệt - may, tất cả các loại trợ cấp bị cấm theo Hiệp định SCM, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều được bãi bỏ ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tóm lại, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ hoàn toàn trợ cấp bị Hiệp định SCM cấm kể từ khi gia nhập, chỉ bảo lưu năm năm cho các ưu đãi đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu (ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất...) đã cấp cho các dự án từ trước ngày gia nhập WTO (nhưng không bao gồm các dự án dệt-may). Các hình thức hỗ trợ khác cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, nếu không gắn với xuất khẩu hoặc khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu, vẫn tiếp tục được duy trì.
3.5 Các quy định về chống bán phá giá của Việt Nam
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (Điều 2 và Điều 9) được Quốc hội thông qua ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng mức thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu có giá thấp hơn “giá thông thường do được bán phá giá, gây khó khăn cho các nhà sản xuất hàng hoá tương tự trong nước” hoặc thấp hơn “giá thông thường phát sinh do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây ra khó khăn cho các nhà sản xuất hàng hoá tương tự trong nước”.
Hiện Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ ngày 25/5/2002, Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 về “chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam” ngày 29/4/2004 và Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 “về các biện pháp chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam” ngày 20/8/2004.
Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, đại diện của Việt Nam công nhận rằng Việt Nam cần phải xây dựng khuôn khổ pháp luật, thể chế phù hợp để thực thi các quy định về các biện pháp chống bán phá giá và các biện pháp đối kháng. Các quy định mới của Việt Nam sẽ tuân thủ hoàn toàn Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng và Hiệp định Chống bán phá giá của WTO.
Trên đây là các nguyên tắc, hình thức và các công cụ của chính sách thương mại quốc tế mà Việt Nam đang áp dụng để thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO – 1 bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
II. Đánh giá về chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay:
1. Những mặt đạt được:
Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã đạt được những kết quả rất ấn tượng:
- Trong quá trình 11 năm kiên trì theo đuổi mục tiêu gia nhập WTO, cuối cùng Viêt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới vào ngày 11/1/2007.Đây là một thành công lớn trong tiến trình hội nhập thế giới của Việt Nam. Các doanh nghiệp có điều kiện chủ động nắm bắt thời cơ, mở rộng thị trường xuất khẩu, được hưởng mức thuế thấp, được đối xử bình đẳng và có nhiều sự lựa chọn khi nhập khẩu; vốn đầu tư nước ngoài thu hút được nhiều hơn, phát huy các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, nhân công, tài nguyên, vị trí địa lý, nâng cao năng lực của nền kinh tế, đặc biệt đối với sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó tác động tích cực đến xuất khẩu, vị thế, hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc tế.
- Những năm gần đây Việt Nam vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế cũng ngày càng được khẳng định bằng việc không chỉ gia nhập WTO mà Việt Nam còn được kết nạp và nhiều tổ chức khác như Tổ chức Hợp Tác và Phát triển Kinh Tế (OECD), là thành viên Ủy ban thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc
- Với việc gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế của Vịêt Nam năm 2007 đã phát triển mạnh mẽ, với GDP đạt 8.48% và vốn FDI cam kết là 20.3 tỉ đô la. Ngoại thương tăng đáng kể, tăng thêm 28,9%, nâng tổng giá trị xuất nhập khẩu lên 209.2 tỉ đô la Mỹ. Xuất khẩu tăng 21.5%, đạt 48.4 tỉ đô la. EU tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò là đối tác chính của Việt Nam về mặt kinh tế: EU là nhà đầu tư lớn thứ hai với vốn giải ngân thực tế (khoảng 5 tỉ đô la) chỉ đứng sau Nhật Bản; và là đối tác thương mại lớn thứ hai chỉ sau Trung Quốc với tổng giá trị thương mại theo số liệu của Tổng cục Hải Quan Việt Nam là 14.23 tỉ đô la. Tuy nhiên, những số liệu của Việt Nam lại chỉ tính các điểm đến trung gian nơi hàng hóa được phân loại lại và một số nơi như là Hồng Kông hay Thượng Hải, nên có thể nói rằng trên thực tế EU là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam
- Hiện nay, ở Việt Nam đang có sự "bùng nổ" thực sự của đầu tư nước ngoài. Nhiều tập đoàn quốc tế lớn như "Intel", "Canon", Microsorft... đã có mặt tại Việt Nam. Năm 2007, Nhà nước Việt Nam bắt đầu thực hiện cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp lớn như Vietcombank, Mekong Housing Bank... Sự kiện này chắc chắn sẽ tiếp tục thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Những kết quả đạt được về xuất nhập khẩu:
Năm 2007, có 10 mặt hàng xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên và đã có sự phân hoá rõ rệt: 4 mặt hàng bứt phá mạnh hơn đạt trên 3 tỉ USD, 2 mặt hàng đạt trên 2 tỉ USD. Việc bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ đầu năm 2007 và các biện pháp điều hành chủ động của nước ta phù hợp với bối cảnh bị Hoa Kỳ áp đặt Chương trình giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, đã làm cho các doanh nghiệp trong nước yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất, doanh nghiệp nước ngoài tin tưởng ký hợp đồng, nhờ vậy xuất khẩu dệt may vẫn tăng đều, trong đó riêng vào thị trường Hoa Kỳ tăng 27%. Đây là năm thứ hai liên tiếp, hàng dệt may đứng thứ nhì sau dầu thô, thậm chí đã có lúc “bỏ qua” dầu thô, đứng đầu các mặt hàng xuất khẩu. Cũng nhờ giải quyết được những khó khăn về nguyên liệu, xuất khẩu sản phẩm gỗ vào các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật đều tăng từ 12 đến 28% so với cùng kỳ năm 2006, đứng thứ 5 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đồ gỗ đã có mặt tại các thị trường của 120 nền kinh tế, vượt Thái Lan và In-đô-nê-xia để cùng với Ma-lai-xia đứng đầu về xuất khẩu mặt hàng này ở Đông Nam Á. Xuất khẩu than đá vào các thị trường chính tăng 22%, nổi bật là Trung Quốc (chiếm 80% lượng than xuất khẩu), đây là mặt hàng đầu tiên về đích kế hoạch năm ngay từ 6 tháng đầu năm.
Do mất cân đối gay gắt cung - cầu về gạo trên thị trường thế giới, trong khi chất lượng gạo của ta được cải thiện nhờ tiến bộ trong gieo trồng, bảo quản và xay sát, nên chỉ 11 tháng đầu năm đã đạt mục tiêu xuất khẩu năm. Lần đầu tiên gạo xuất khẩu của Việt Nam vươn lên ngang giá với gạo Thái Lan, thậm chí có chủng loại còn trúng thầu với giá cao hơn. Gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản - là những thị trường có yêu cầu khắt khe.
Cà phê xuất khẩu cũng gặp thuận lợi về thị trường, giá tăng từ 800 đến 1000 USD/tấn, nên đây là năm đầu tiên kim ngạch cà phê vượt gạo. Dù ảnh hưởng của bão lụt khiến đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại, song trên toàn cục, bức tranh xuất khẩu thuỷ sản vẫn sáng sủa, vì đã tạo được chỗ đứng trên thị trường của EU, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... , có giá cao và năng lực chế biến tăng. Xuất khẩu hạt điều tiếp tục khẳng định ngôi vị cao nhất, có mặt trên 40 thị trường, trong đó lượng cung vào Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản và Trung Đông đều tăng, riêng thị trường Hoa Kỳ tăng tới 33%, giá cũng tăng hơn khoảng 190 USD/tấn. Từ chỗ chúng ta chỉ chế biến từ hạt điều thô thu gom nội địa, nay phải nhập khẩu thêm hạt điều thô để chế xuất cho đủ công suất các dây chuyền chế biến và còn xuất khẩu cả công nghệ chế biến hạt điều, nên càng làm cho hình ảnh mặt hàng này thêm ấn tượng. Thêm nữa, 100 nghìn tấn hạt tiêu xuất khẩu (chiếm hơn 50% thị phần toàn cầu) đã duy trì vị trí số 1 của Việt Nam về xuất khẩu mặt hàng này.
Năm 2007 là năm đầu tiên khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước có mức tăng trưởng hiếm thấy, tăng 23,1%, vì trước đây, mức tăng trưởng của khối này thường thấp hơn mức tăng trưởng chung và khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy vậy các doanh nghiệp có vốn FDI vẫn chiếm tỷ trọng 58,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhóm các địa phương là các trung tâm kinh tế lớn vẫn tiếp tục dẫn đầu. Bình Dương vượt qua 5 tỉ USD, tăng 27,5% so với năm 2006. Hà Nội vượt 4 tỉ USD. Hải Phòng trong 11 tháng đã đạt 1 tỉ USD. Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vị trí hàng đầu, với tổng kim ngạch (không kể dầu thô) trên 6 tỉ USD. Cũng có địa phương chưa đạt mục tiêu, song do kim ngạch nhỏ nên không làm ảnh hưởng đến mức tăng trưởng cao của cả nước.
Chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có trị giá lớn, công nghệ cao đang được triển khai với tín hiệu tốt. Lần đầu tiên chúng ta xuất khẩu được thiết bị lò hơi cho Tập đoàn TKZ của Nga để bạn lắp ráp Nhà máy Điện tại Ấn Độ. Công ty dịch vụ cơ khí hàng hải cũng hạ thủy tại cảng Vũng Tầu dàn khoan khai thác dầu khí xuất khẩu sang Ma-lai-xia...
- Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức: Hàng trăm hội trợ triển lãm với quy mô khác nhau đã diễn ra ở trong và ngoài nước, trong đó có các hội chợ có tiếng về đồ gỗ ở Hoa Kỳ, thủy sản ở châu Âu và hội chợ Trung Quốc - SEAN (CAEXPO) lần thứ 4 tại Nam Ninh, Trung Quốc; nhiều lượt đoàn cán bộ đi khảo sát các thị trường trọng điểm, tiềm năng, thị trường xa, láng giềng, tiếp tục khôi phục thị trường truyền thống Nga, Đông Âu; nhiều doanh nghiệp tháp tùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những chuyến thăm nước ngoài hoặc tham gia hoạt động trong những “Ngày Việt Nam ở nước ngoài” tổ chức tại Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độđã ký kết được nhiều hợp đồng, bản ghi nhớ trị giá hàng tỉ USD. Các hoạt động đó góp phần quảng bá tiềm năng kinh tế - thương mại Việt Nam; gương mặt mới về xuất khẩu của Việt Nam, nhất là thương hiệu quốc gia; giúp cho doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, trên cơ sở đó tổ chức sản xuất, kinh doanh; giúp các nhà quản lý học tập kinh nghiệm, mở rộng tầm nhìn.
- Về hệ thống thuế xuất nhập khẩu:
Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hòa (HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hóa góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thuế suất tuế xuất nhập khẩu cũng được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5968.doc