Phần mở Đầu 1
Nội dung 2
I. Khái quát về cổ phần hoá. 2
1. Khái quát về cổ phần hoá- Mục tiêu và những lợi thế. 2
2. Tính tất yếu của việc cổ phần hoá. 7
3. Quan điểm của Đảng và tiến trình cổ phần hoá từ 1986-2002. 9
3.1. Một số quan điểm của Đảng về cổ phần hoá 9
3.2. Tiến trình chỉ đạo cổ phần hoá (1986-2002). 11
II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 13
1. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 1986-2002. 13
2. Một số nhân tố ảnh hưởng. 20
2.1. Các nhân tố thuận lợi. 20
2.2. Những nhân tố khó khăn. 20
III. Một số kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. 25
1. Về tư tưởng: 25
2. Về hệ thống chính sách: 26
3. Trong công tác chỉ đạo : 26
4. Giải pháp cho các vấn đề phát sinh ở hậu cổ phần hoá: 27
Kết luận 30
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 1986 - 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hữu nhà nước mà thực chất là cổ phần hoá một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Với mục đích đó chúng ta đưa ra nhiều dạng công ty cổ phần nhưng có thể quy về hai nhóm chính:
* Nhóm các công ty cổ phần trong đó nhà nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước hoặc nắm giữ cổ phiếu khống chế (51%) hoặc không nắm giữ sở hữu cổ phiếu khống chế. Nhóm nay bao gồm các công ty kêu gọi thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu hoặc bằng cách bán một phần tài sản doanh nghiệp hoặc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp.
* Nhóm bao gồm các doanh nghiệp cổ phần hoá theo thể thức bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động, nhà nước rút vốn của mình. Nhà nước sẽ chỉ tập trung đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Với những ngành, lĩnh vực về sản phẩm và dịch vụ khác nhà nước chỉ cần giữ thị phần một cách vừa đủ. Ngoài ra nhà nước không cần phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế.
- Quan điểm 2: Dựa vào điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá nhằm chuyển sang một mô hình doanh nghiệp huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
- Quan điểm 3: Nếu nhằm mục tiêu tư sản hoá công nhân, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì nhà nước cần chú ý đến điều kiện mức thu nhập của cong nhân có khả năng mua cổ phiếu dưới dạng trả góp cũng như tỉ trọng vốn tự có trong tổng số vốn pháp định của doanh nghiệp.
- Quan điểm 4: Mọi tài sản cuả doanh nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể, là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên thuộc về nhà nước và trở thành vốn cổ phần nhà nước trong công ty cổ phần. Khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị còn lại để cổ phần hoá cần đưa vốn tự có vào bảng cân đối. Ngoài ra khi tiến hành cổ phần hóa đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cần xem xét kỹ lưỡng để có cách xử lý nguồn vốn này một cách hợp lý tránh đánh đồng những doanh nghiệp làm ăn tốt do đầu tư thêm với doanh nghiệp chỉ dựa vào nguồn vốn nhà nước.
- Quan điểm 5: Việc xác định giá trị của doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình để có sự kết hợp hợp lý những phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
- Quan điểm 6: Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Việc bán cổ phần có thể được bán trực tiếp tại các trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài chính làm đại lý.
- Quan điểm 7: Để thực hiện thành công chương trình cổphần hoá nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà còn cầnphải mất một khoản phí tổn nhất định như chi phí bảo hiểm, trợ cấp mất việc, chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi cho tầng lớp dân cư... Thực tiễn cho thấy khoản phí tổn này là cần thiết cho sự nghiệp cổ phần hóa để mưu cầu lợi ích cơ bản và lâu dài hơn làlợi ích trước mắt của việc thu hồi vốn đối với nhà nước.
- Quan điểm 8: Theo tinh thần quyết định 202- HĐBT thì các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật doanh nghiệp cả về hình thức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Bên cạnh đó, cùng với việc chuyển sang cổ phần hoá, nhà nước cần gấp rút xây dựng một đội ngũ cán bộ (đội ngũ các nhà sáng lập viên) độc lập không phụ thuộc vào hàng ngũ công chức ở các bộ chủ quản và địa phương để thay mặt nhà nước quản lý các nguồn vốn trong các công ty cổphần có sự tham gia cuẩ nhà nước. Ngoài ra còn phải xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt khu vực nhà nước và tư nhân.
- Quan điểm 9: Các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần.
Cùng với những quan điểm trên, Đảng đã chủ trương chỉ đạo thực hiện quá trình này thông qua một số chính sách và nghị quyết từ 1986-2002.
3.2. Tiến trình chỉ đạo cổ phần hoá (1986-2002).
Năm 1986 tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI có chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.
Đến 11/1987 Hội đồng bộ trưởng (ngày nay là Chính phủ) có chủ trương cổ phần hoá một số bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà trước hết là sẽ thí điểm ở một số ngành, lĩnh vực, sau khi tổng kết rút kinh nghiệm sẽ nhân rộng toàn quỗc.
Tháng 5/1990, Hội đồng bộ trưởng có quyết định 143/ HĐBT nhắc lại chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước.
11/1991, nghị quyết TWII khoá VII của Đảng đã chỉ rõ chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng ở phạm vi thích hợp.
08/06/1992: Hội đồng bộ trưởng có chỉ thị 202CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
04/03/1993: Ban hành chỉ thị số 84/TTg của thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
07/05/96: Ban hành nghị định số 28/CP chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
06/1996: Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng có khẳng định “Cổ phần hoá không phải là tư nhân hoá” va nhấn mạnh “ phải triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp để huy động thêm vốn, tạo động lực phát triển.”
26/03/ 1993: Nghị định số 25/CP về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP.
20/08/1997, thủ tướng chính phủ có chỉ thị 658/TTg về việc thúc đẩy cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước.
29/06/1998 thủ tướng chính phủ lại ban hành nghị định số 44/1998-NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần, thay thế nghị định 28/CP.
Năm 1999, Nghị định 103/ 1999 NĐ-CP có chủ trương thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cùng với đa dạng hoá về sở hữu.
09/2001, Nghị quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng lần thứ IX của Đảng khẳng định “ Mục tiêu của cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo nguời lao động tham gia, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh...”
26/04/2002, chính phủ ban hành quyết định số 58/QĐ-TTg về phân loại doanh nghiệp nhà nước, trong đó nhà nước phải nắm toàn bộ sở hữu một số lớn các doanh nghiệp ở những lĩnh vực được coi là có tầm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước.
19/06/2002, chính phủ ban hành nghị định số 64/NĐ-CP thay nghị định số 44/NĐ-CP, về việc xác định quyền được mua cổ phiếu của các tổ chức, cá nhân nguời Việt Nam và nước ngoài.
09/09/2002, Bộ tài chính ra thông tư số 79 hướng dẫn định giá tài sản doanh nghiệp và xác định cơ cấu chính phủ khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp.
12/07/2002 nghị định số 69/ NĐ-CP hướng dẫn thanh toán nợ đọng trong doanh nghiệp.
12/09/2002, thông tư số 80 của Bộ tài chính quy định về ưu tiên bán cổ phiếu cho nguời lao động, nhà sản xuất, cung ứng vật tư trong các doanh nghiệp nông, lâm ngư nghiệp với giá ưu đãi.
Như vậy, thông qua những thông tư chỉ thị Đảng và nhà nước ta đã thể hiện tính nhất quán và kiên trì với chủ trương cổ phần hoá nhằm đẩy nhanh thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
1. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 1986-2002.
Xét về tốc độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thì mặc dù Đảng ta đã có chủ trương sớm về cổphần hoá và đã theo sát chỉ đạo với nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn đồng thời đã tổ chức thí điểm rồi rút kinh nghiệm sau đó mới tiến hành rộng rãi nhưng tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm chạp. Theo như một vài số liệu thì từ 1992-1997 trong vòng năm ta cổ phần hoá được 28 doanh nghiệp nhà nước. Sau nghị định 44/NĐ- CP được chính phủ ban hành năm 1998 tốc độ cổ phần hoá mới được đẩy nhanh phần nào với 102 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong năm. Đến 1999, theo kế hoạch của thủ tướng chínhphủ dự định các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 tiến hành cổ phần hoá 450 doanh nghiệp nhà nước nhưng tổng kết lại ta chỉ tiến hành được 220 doanh nghiệp ( khoảng 49% kế hoạch). Tương tự, chỉ tiêu đặt ra năm 2000 là 337 doanh nghiệp nhưng ta chỉ hoàn thành được xấp xỉ 50% tức là 171 doanh nghiệp (có số liệu cho là 221 doanh nghiệp). Phương thức chung được sử dụng trong giai đoạn 1992-2000 là chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước theo loại hình cổ phầnhoá. Đến 2001-2002 các loại hình bán khoán và giẩi thể bắt đầu được đưa vào sử dụng. Cụ thể, trong 228 doanh nghiệp được đưa vào cổ phần hoá năm 2001 thì có 200 doanh nghiệp theo loại hình cổ phần hoá, 17 doanh nghiệp theo loại hình bán, 41 doanh nghiệp theo loại hình khoán, còn 30 doanh nghiệp là giải thể. Đến năm 2002, ta cổ phần hoá 139 doanh nghiệp trong đó 116 doanh nghiệp theo loại hình cổ phần hoá, 5 doanh nghiệp theo loại hình bán, 13 doanh nghiệp theo loại hình khoán còn lại 5 doanh nghiệp theo hình thức giải thể. Nếu tính theo quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu nhànước theo cơ quan chủ quản thì năm 2001 có 25 doanh nghiệp thuộc các bộ chủ quản ( bằng 8,3% tổng số doanh nghiệp chuyển đổi ), 255 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố quản lý (bằng 88,2%) và 8 doanh nghiệp thuộc các tổng công ty quản lý ( 3,5%). Đến tháng 9/2002 số doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi sở hữu thuộc các bộ chủ quản là 30 trong tổng số 139 doanh nghiệp (xấp xỉ 21,5%), 96 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố (xấp xỉ 69%) và 13 thuộc các tổng công ty ( xấp xỉ 9,5%).
Tính hết ngày 31/05/2001,trong số các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá, số doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng chiếm 35%, từ 1-5 tỷ đồng chiếm 38,5%, từ 5-10 tỷ đồng chiếm 20,4% và trên 10 tỷ chiếm 6,1%. Hiện tại, nhà nước có cổ phần ở 367 doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chiếm 59,2%. Số công ty cổ phần nhà nước nắm trên 50% vốn điều lệ là 49 đơn vị (chiếm 8% ) trong đó số phần trăm cổ phần nhà nước nắm giữ cao nhất là 80% và thấp nhất là 4,9%. Về cơ cấu ngành nghề của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá có 57% thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông...38% thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, 5% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản.
Về thị trường chứng khoán, sự ra đời của thị trường chứng khoán là một điều tất yếu, góp phần tạo ra một thị trường vận hành một cách đồng bộ, với sự hoạt động của thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường vốn. Thị trường chứng khoán giúp các công ty cổ phần nói riêng và doanh nghiệp nói chung điều tiết được việc phát hành cổ phiếu hay chứng khoán phù hợp với thị trường. Mặt khác, nó thúc đẩy công ty cổ phần làm ằn có hiệu quả kinh tế hơn, đoàng hoàng hơn. Bởi lẽ, với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác là những nhà quản lý các công ty cổ phần phải tính toán, làm ăn đoàng hoàng và hiệu quả kinh tế. Dân chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty kinh doanh đoàng hoàng và thành đạt.
Xây dựng thị trường chứng khoán trên cơ sở các doanh nghiệp mà nhà nước cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên đây mới chỉ là giải pháp mang tính đột phá nhằm góp phần thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán. Ơ nước ta, sau hơn mấy năm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với một số lượng lớn các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Với những thành công bước đầu đó, ngày 20/07/2002, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động, chính thức đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2001, ta có 5 loại cổ phiếu đi vào hoạt động ( REE, SAM, HAP, TMS, LAF )của 5 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phát triển tốt được chính thức niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung. Đến nay, đã có gần 20 loại cổ phiếu đang hoạt động trên thị trường. Sắp tới hứa hẹn có thêm nhiều doanh nghiệp nữa cũng tham gia vào hoạt động trong thị trường.
Tổng kết lại thì đến tháng 9/2002, cả nước ta đã có khoảng 990 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, trong đó 167 doanh nghiệp thuộc bộ ngành, 751 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố, 72 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90-91. Tuy nhiên so với chỉ tiêu đặt ra chỉ tiêu này chỉ chiếm 48% (trong chỉ tiêu 2000 doanh nghiệp được cổ phàn hoá). Số các doanh nghiệp nhà nước từ 12 300 doanh nghiệp (1991) đến nay còn khoảng 5200 doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp GDP tăng từ 36,5% đến 42%, đóng góp 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, 40% tổng thu ngân sách nhà nước. Nhà nước rút được gần 1500 tỷ đồng để đầu tư vào những nơi cần thiết, huy động được 2500 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội tham gia đầu tư vào các công ty cổ phần nhà nước, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hoá và phát huy vai trò chỉ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, theo điều tra của công ty tư vấn đầu tư và kinh doanh Hà Mịnh thuộc phòng Thương Mại và công nghiệp Việt Nam thực hiện với sự giúp đỡ và hợp tác của Ngân hàng Thế giới, Viện quản lý kinh tế TW và ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp thuộc văn phòng cổ phần thì sau khi cổ phần thì sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp đã đạt được các chỉ tiêu sau:
- Về tài chính: Hơn 90% doanh nghiệp khẳng định tình hình tài chính tốt hơn so với trước, 78% các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có doanh thu tăng so với trước đây, 83%số doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có vốn kinh doanh so với trước, 91% số doanh nghiệp có lãi .
- Về vấn đề lao động và động lực lao động: Hơn 80% doanh nghiệp sau cổ phần hoá có chuyển biến rõ rệt về thu nhập cho người lao động và cán bộ quản lý. Về sự quan tâm của quản lý và lao động về lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh cũng chuyển biến rõ rệt, động lực làm việc tăng. Nếu xét theo tỷ suất doanh thu trên tổng số lao đọng của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá ta thấy: Có đến 75% số các doanh nghiệp có năng suất lao động tăng. Với các doanh nghiệp có năng suất lao động giảm ta thấy có nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng doanh thu nhỏ hơn so với tốc độ tăng lao động do doanh nghiệp mở rộng quy mô. Mức sinh lời của lao động (được tính trên cơ sở so sánh lợi nhuận với tổng số lao động) cũng tăng với số doanh nghiệp loại này chiếm khoảng 70%. Số lượng lao động của các doanh nghiệp hầu hết đều có sự biến động theo xu hướng tăng (78% số doanh nghiệp) và đều cùng đi với việc sử dụng có hiệu quả. Mức độ giải quyết công ăn việc làm cho số lao động cũ cũng được các doanh nghiệp giải quyết tối đa. Kết quả tính toán chung cho thấy có tới 60% số lao động ở các doanh nghiệp hiện nay là số lao động cũ từ các doanh nghiệp hiện nay là số lao động cũ từ các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá chuyển sang.
-Về vấn đề công nghệ, sản phẩm và thị trường: Khoảng 70% doanh nghiệp sau cổ phần hoá có sự nâng lên về trình độ kỹ thuật, trang thiết bị và công nghệ. Hầu hết doanh nghiệp đều có nỗ lực mở rộng thị truờng tiêu thụ, cải tiến kỹ thuật vận dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tất cả các số liệu trên là những tín hiệu rất đáng khích lệ chứng tỏ tính đúng đắn trong đường lối của Đảng và nhà nước và tính tất yếu của cổ phần hoá trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích kể trên quá trình cổ phần hoá vẫn còn chứa đựng một số những tồn tại bất cập đó là:
- Về tốc độ cổ phần hoá: Kể từ thời điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đầu tiên ( 7/1993) tiến độ cổ phần hoá hầu như không năm nào đạt được kế hoạch. Trong 6 năm(1992-1997) tiến trình cổ phần hoá gần như dậm chân tại chỗ: Năm 1993 cổ phần hoá được 2 doanh nghiệp, năm 1994 - 1 doanh nghiệp, năm 1995 - 2 doanh nghiệp, năm 1996 - 5 doanh nghiệp, năm 1997 - 5 doanh nghiệp. Năm 1998 ta cổ phần hoá được 100 doanh nghiệp đạt 40%, 1999 cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp đạt 62,5% kế hoạch. Năm 2000 ta cổ phần hoá được 140 doanh nghiệp đạt 41,5% kế hoạch. Như vậy, có thể thấy rằng tiến trình cổ phần hoá của ta diễn ra quá chậm. Nhiều bộ, ngành, cấp, tổng công ty, địa phương chưa có chủ trương tiến hành cổ phần hoá hoặc có nhưng triển khai chậm. Tính đến cuối năm 2000 mới có 51 tỉnh và 14 bộ, tổng công ty, chính phủ trình bày kế hoạch cổ phần hoá và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đến năm 2000. Một số ngành đưa ra kế hoạch cổ phần hoá mang tính chất đối kháng, hình thức, thực chất muốn giữ toàn bộ số doanh nghiệp đang quản lý ở hình thức nhà nước sở hữu 100% vốn. ở một số doanh nghiệp còn tình trạng trốn tránh cổ phần hoá do đối tượng quản lý không muốn cổ phần do sợ mất chức quyền, do những người lao động sợ bị thất nghiệp sau khi cổ phần hoá. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do chính sách của Đảng và nhà nước không được phổ biến sâu rộng và chưa rõ ràng cụ thể đối với từng đối tượng, chưa có các thông tư chỉ thị hướng dẫn cụ thể. Đây là một tồn tậi cần sớm giải quyết.
- Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp đạt kết quả chưa cao. Số doanh nghiêp không có cổ đông ngoài tham gia còn nhiều, tính đến hết năm 1999có 169/370 doanh nghiệp. Số các doanh nghiệp có cổ đông ngoài tham gia thì lại có tỷ lệ góp vốn thấp (84/370 doạnh nghiệp có tỷ lệ vốn góp của cổ đông ngoài từ 1- 20% ). Số doanh nghiệp cổ phần hoá có bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài ít và tỷ lệ góp vốn thấp ( ví dụ như công ty Container phía nam 10%, Công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương 10%, công ty cổ phần thiết bị thương mại 30%). Theo kết quả báo cáo thì tính đến ngày 15/08/2000, 460 doanh nghiệp được cổ phần hoá mới thu được 1900 tỷ đồng từ dân chúng (Bao gồm công nhân viên chức của doanh nghiệp và người ngoài doanh nghiệp). Nguyên nhân là do chưa áp dụng mạnh hình thức giữ nguyên giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để huy động thêm vốn (Tính đến hết 2001 có 51/505 doanh nghiệp cổ phần hoá áp dụng hình thức này).
- Có hiện tượng gian lận trong định giá giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá thấp hơn giá trị thực chất làm thất thoát tài sản nhà nước. Nguyên nhân là do chưa thống nhất trong phuơng pháp định giá tài sản doanh nghiệp giữa nhà nước và doanh nghiệp. Phương pháp định giá hiện nay được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp “ giá trị tài sản ròng” (tức giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu bằng giá trị thị trường của tài sản trừ đi giá trị của công nợ ) và phương pháp “ định giá theo khả năng sinh lời của tài sản” ( tức dựa trên các dòng tiền dự tính xuất hiện trong tươnglai do tài sản mang lại). Phương pháp hiện nay cho phép loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá những tài sản thuộc đối tượng thanh lý không cần dùng, các khoản công nợ khó đòi. Đối với doanh nghiệp có lợi thế doanh nghiệp thì chỉ tính 30% giá trị lợi thế để đề phòng các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Nhưng nó cũng có những bất cập đólà do chỉ có duy nhất một phương pháp tính giá trị nên nếu như có sai sót gì thì cũng không thể có phuơng pháp khác kiểm chứng. Quan niệm cấu thành giá trị doanh nghiệp cũng không hợp lý, các giá trị doanh nghiệp bằng tổng gía trị tài sản hữu hình, vô hình và lợi thế doanh nghiệp, như vậy thì lợi thế doanh nghiệp nằm ngoài giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp. Phương pháp định giá doanhnghiệp chủ yếu chỉ căn cứ vào sổ sách kế toán chứ không căn cứ vào giá thị trường. Tính lợi thế doanh nghiệp dựa trên cơ sở so sánh lợi nhuận nội bộ ngành, đã bỏ ra lợi thế kinh doanh giữa ngành này với ngành khác, tuy điều này là phù hợp với tình hình thực tiễn về thông tin kinh tế ở Việt Nam. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc “giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổphần hoá mà người mua và bán cổ phần đều có thể chấp nhận được”. Tuy nhiên trên thực tế hoàn toàn không có thoả thuận gì giữa người mua và bán cổ phần, và việc định giá doanh nghiệp vẫn mang tính chất chủ quan do có nhiều yếu tố tác động.
- Thị trường chứng khoán tuy đã đi vào hoạt động nhưng vẫn chưa ổn định và chưa khẳng định được sự cần thiết của mình. Hoạt động của thị trường vẫn chưa được phổ cập, dẫn tới sự hiểubiết về thị trường vẫn còn khá mờ mịt đối với nhiều đối tượng ...
Trên đây là một số vấn đề đã và đang tồn tại trong quá trình cổ phần hoá đòi hỏi cần sớm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng từ đó có thể đưa ra các giải pháp hợp lý.
2. Một số nhân tố ảnh hưởng.
Tác động đến quá trình cổ phần hoá có rất nhiều nhân tố tác động bao gồm cả những nhân tố chủ quan cũng như những nhân tố khách quan, những nhân tố thuận lợi cũng như những nhân tố khó khăn. Trước tiên, xin được trình bày những nhân tố góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá của chúng ta đi đến đuợc những bước đáng khích lệ như ngày hôm nay.
2.1. Các nhân tố thuận lợi.
- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý của ta đã được xác lập về cơ bản, đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện “ thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
- Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề cổ phần hoá mà cụ thể thực hiện ban đầu là áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước. Từ đó đưa ra những chính sách khuyến khích nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá đồng thời theo sát chỉ đạo nhằm thực hiện cổ phần hoá một cách toàn diện, hiệu quả.
- Tình hình kinh tế tài chính của ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả trên thị trường... Cùng với việc hình thành thị trường chứng khoán ngày 20/07/2002, luật đầu tư nước ngoài ra đời và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của nước ngoài bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành cổ phần hoá.
- Chúng ta đã có những kinh nghiệm và bài học quý báu rút ra từ thực tiễn cổ phần hoá ở các nước phát triển trên thế giới.
2.2. Những nhân tố khó khăn.
- Tư tưởng, quan điểm về cổ phần hoá vẫn chưa được quán triệt một cách triệt để và toàn diện trong các cấp, bộ ngành, địa phương và đối với người lao dộng. Công tác tuyên truyền giáo dục từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước từ TW đến địa phương về cổ phần hoá vẫn chưa được đẩy mạnh. Nhiều cấp ngành chưa quán triệt đầy đủ nghị quyết của Đảng về công tác cổ phần hoá, chưa nhận thức được mục đích, ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá, chưa thực sự quan tâm đến cổ phần hoá, do đó trong chỉ đạo và tổ chức triển khai còn mang tính chất đối phó, do dự, chần chừ, thiếu kiên quyết trông chờ vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, chưa gắn trách nhiệm của lãnh đạo các địa phương, các tổng công ty với việc triển khai và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của chính phủ. Một số cơ quan quản lý lo bị mất quyền quản lý đối với các doanh nghiệp trực thuộc, các tổng công ty lo ngại khi cổ phần hoá sẽ giảm quy mô, vốn tài sản, doanh thu, và tiêu chí xếp hạng, người lao động lo sợ việc làm không ổn định, mất việc làm, mất sự bảo hộ của nhà nước. Ngoài ra , trong quan niệm của nhiều người ở các cơ quan quản lý lại xem doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá là thành phần kinh tế ngoài nhà nước nên việc giải quyết các yêu cầu kinh doanhkhông bình đẳng như với các doanh nghiệp nhà nước khác như: trong vấn đề vay vốn ngân hàng, xin cấp đất... Chính thực tế này đã làm nhiều doanh nghiệp nản lòng mặc dù trong chủ trương chính sách chung không hề có sự phân biệt này. Điều này là do các cán bộ quản lý chưa nắm rõ chính sách, chủ trương để giúp đỡ các doanh nghiệp. Những chính sách về quyền lợi đối với các giám đốc công ty, các nhà quản lý doanh nghiệp cũng chưa có hoặc là chưa cụ thể, điều này làm cản trở rất nhiều tiến trình cổ phần hoá của ta.
- Sự chỉ đạo của các cấp như chính phủ, bộ, ngành, tỉnh, thành phố, tổng công ty 90-91 còn thiếu kíên quyết và chưa sâu sát, kịp thời, còn nặng về kêu gọi, động viên chung chung, chưa đi sâu vào khảo sát, nắm bắt tình hình, chưa xây dựng chương trình, đề án có căn cứ và khả thi cho từng doanh nghiệp, cụ thể với lộ trình tiến độ, bước đi, chưa kiểm tra đánh giá và có biện pháp kịp thời tháo goã những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Nhất là công tác tổng kết thực tiễn, đúc kết, nhân rộng mẫu hình tiên tiến về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở các ngành, địa phương chưa được sự chỉ đạo tích cực, chưa có sức thuyết phục rộng rãi. Một số nơivẫn chưa hình thành ban cổ phần hoá hoặc nếu có cũng chỉ là đối phó. Vẫn chưa có chính sách, biện pháp xử lý đối với những nơi làm sai, làm chậm hoặc không thực hiện cổ phần hoá. Sự phân quyền, hướng dẫn và phối hợp giữa trung ương và địa phương chưa thông suốt, sự chồng chéo, bỏ trống vẫn là điều đáng bàn. Việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá chưa được triển khai đồng bộ với các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước khác vì thế chưa thật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0939.doc