Thực trạng đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn

Chương I: Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 1

I. Lý luận chung 1

1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển 1

1.1. Khái niệm 1

1.2. Đặc điểm 1

2. Đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 2

2.1. Khái niệm về CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 2

2.2. Nội dung của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 4

2.3. Hiệu quả của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 8

II. Tính tất yếu khách quan của đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 9

1. Đặc điểm phát triển của nông nghiệp, nông thôn Việt nam 9

1.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế nông nghiệp, nông thôn 9

1.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 11

2. Vai trò của đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 12

2.1. Vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn 12

2.2. Vai trò của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 14

3. Đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu cấp bách 14

Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. 18

I. Đánh giá quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 18

1. Những thành tựu đã đạt được 18

1.1. Đẩy mạnh thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. 18

1.2. Đi đôi với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đem lại cho nông thôn Việt Nam nhiều khời sắc mới. 20

2. Những khó khăn và thách thức 21

II. Thực trạng quá trình đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 23

1. Những thành công đã đạt được 23

2. Những tồn tại cần khắc phục 27

3. Bài học kinh nghiệm của một số nước về vấn đề đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 29

Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cho sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 32

I. Nhóm giải pháp về huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 32

II. Nhóm giải pháp nhằm sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. 35

1. Tăng cường hiệu quả sử dụng và quản lý nguồn vốn đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. 35

2. Phương hướng đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 37

 

doc39 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển. Đó là con đường tất yếu mà mọi quốc gia không thể bỏ qua để đạt được thành quả phát triển về kinh tế xã hội và thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Do xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp với hơn 80% dân số và 76,9% lực lượng lao động sống và làm việc ở nông thôn, Việt nam coi CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề đầu tiên và là trọng tâm. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước. Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở Inđônêxia và Thái Lan trong khủng hoảng về kinh tế năm 1997-1998 cho thấy, nếu nông nghiệp và nông thôn không được ưu tiên phát triển thì nền kinh tế xã hội sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc. Nếu tách rời nông nghiệp và nông thôn ra khỏi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước thì hậu quả để lại sẽ là một nền nông nghiệp lạc hậu, những vùng nông thôn nghèo nàn, môi sinh bị tàn phá, phân hoá giàu nghèo rõ nét và những bất cập về các tệ nạn xã hội. Đối với nước ta, CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn còn có ý nghĩa quan trọng để tăng tích luỹ vốn cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội và những áp lực làm chậm quá trình phát triển của đất nước. Với ý nghĩa đó, đầu tư phát triển sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn giữ một vai trò hết sức quan trọng và trở thành một yêu cầu cấp bách. 3. Đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu cấp bách Hội nghị 6 (lần 1) Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã khẳng định: “Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nhất là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn”. CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Một là, nước ta hiện nay có khoảng 76,9 triệu người, trong đó hơn 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70% lực lượng lao động xã hội làm nông nghiệp. Tốc độ tăng dân số ở nông thôn vẫn cao (khoảng 1,4 triệu người/năm). Ruộng đất bình quân của cả nước là 800m2/người (riêng ở miền Bắc chỉ còn 500m2 /người) và có xu hướng giảm xuống do quá trình đô thị hoá, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng. Trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp, kỹ thuật thủ công là chủ yếu... Mặc dù nông dân đã thâm canh, tăng vụ, quay vòng đất nhanh, kinh doanh tổng hợp, nhưng việc làm, thu nhập, đời sống của nông dân vẫn còn nhiều khó khăn. Vì thế sức mua thị trường nông thôn bị hạn chế (75% số dân nông thôn đang thu nhập dưới mức bình quân chung của xã hội, thu nhập của người dân nông thôn năm 1994 chỉ bằng 63% của người dân thành thị, năm 1995 giảm xuống còn 55% và năm 1996 là 54%) Hai là, nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ vốn cho CNH: nông nghiệp tạo ra gần 30% GDP và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phát triển. Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế-xã hội có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, liên quan đến việc giải quyết những vấn đề cơ bản của đời sống đại đa số dân cư. Nó giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, tăng sức mua trên thị trường nông thôn, tăng tỷ trọng GDP và tăng đóng góp vào ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, nông nghiệp và nông thôn phải trở thành đối tượng trọng yếu của CNH-HĐH. Cơ cấu GDP của nền KTQD giai đoạn 1995-2000 Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Nông-lâm-ngư nghiệp 27,2 27,8 25,7 26,0 25,4 24,1 CN & XD 28,8 29,7 32,1 32,7 34,5 36,9 Dịch vụ 44,0 42,5 42,2 41,3 40,1 39,0 Ba là, kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang ở tình trạng yếu kém, chậm phát triển: năng suất lao động thấp (1 lao động nông nghiệp nước ta nuôi được 2 người, trong khi đó ở Mỹ là 80 người, ở Hà Lan là 60 người, ở Anh là 55 người, ở Nhật là 20 người...); hệ thống kết cấu hạ tầng chậm phát triển; trình độ khoa học-công nghệ yếu kém làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp thấp, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá sản xuất từ nông thôn trên thị trường kém; cơ cấu kinh tế còn nặng thuần nông; đời sống nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp (vẫn còn khoảng 1300 xã đặc biệt khó khăn, 90% dân nghèo là ở nông thôn). Bốn là, thực tiễn cho thấy có không ít nước đi lên CNH-HĐH bằng xuất khẩu nông sản như Australia, Argentina, Canada... Một số nước khác thì phát triển nông nghiệp là biện pháp chủ yếu để hình thành thị trường trong nước. Cũng có nước lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp nông thôn làm biện pháp cơ bản giải quyết phần tất yếu của đời sống kinh tế trong thời kỳ đầu CNH. Nước ta hiện nay nông sản đang chiếm hơn 45% giá trị hàng xuất khẩu, thông qua thương mại quốc tế để lấy ngoại tệ nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho tái sản xuất mở rộng trong nước. Năm là, đối với một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nông nghiệp lạc hậu thì vấn đề mấu chốt là phát triển nền nông nghiệp hàng hoá để cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sáu là, nông nghiệp, nôngthôn là thị trường rộng lớn của CNH-HĐH. Thị trường này ở nước ta năm 2000 là 65 triệu nhưng sức mua hiện nay còn thấp, tiềm năng có thể khai thác là rất lớn. Vì vậy, CNH-HĐH nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải dựa vào thị trường trong nước, trước hết là thị trường nông nghiệp, nông thôn. Bảy là, nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực quan trọng để thực hiện CNH-HĐH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ cũng là quá trình chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ theo xu hướng lao động công nghiệp, dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối còn lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối và tương đối. Những căn cứ trên khẳng định vấn đề đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu, then chốt và có ý nghĩa chiến lược. CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phải bảo đảm những yêu cầu cơ bản: theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát triển lực lượng sản xuất với củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới đặt trong chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế nói chung, bảo đảm lợi ích toàn diện của đất nước cả về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái; đặt trong xu thế chung là quốc tế hoá và khu vực hoá nền kinh tế, nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước; kết hợp hài hoà kinh nghiệm truyền thống với công nghệ, kỹ thuất hiện đại, tiên tiến theo những bước đi phù hợp. Mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là tạo dựng nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển, tăng trưởng bền vững với nhịp độ cao trên cơ sở công nghệ kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, xây dựng nông thôn mới... CNH-HĐH sẽ tạo tiền đề vật chất-kỹ thuật và kinh tế-xã hội để cải biến nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế có cơ cấu ngày càng hợp lý trên cơ sở lao động sử dụng máy móc và kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến. CNH-HĐH tạo cơ sở nền tảng về mọi mặt cho việc xác lập, củng cố, hòan thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa và tăng cường hệ thống chính tri, an ninh quốc phòng của đất nước. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. I. Đánh giá quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 1. Những thành tựu đã đạt được 1.1. Đẩy mạnh thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. - Sản xuất nông nghiệp đã phát triển toàn diện, liên tục tăng trưởng cao (đạt tốc độ bình quân 4,3%/ năm). Năm 1997 so với năm 1987 sản lượng lương thực tăng 1,8 lần, bình quân mỗi năm tăng từ 1-1,2 triệu tấn, sản lượng cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3,5 lần, chè tăng 1,8 lần. Năm 1998 mặc dù bị hạn hán, lũ lụt nặng nề ở nhiều nơi, sản lượng lương thực vẫn đạt 32,8 triệu tấn, tăng 1,2 triệu tấn so với năm 1997. Trong nông nghiệp đã có sự biến đổi cơ cấu theo hướng phá thế độc canh trong trồng cây lương thực trước đây, phát triển nông nghiệp toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp và cây ăn quả. Giá trị sản xuất nông nghiệp (Theo giá so sánh năm 1994) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 1990 61817,5 49604,0 10283,2 1930,3 1995 82307,1 66183,4 13629,2 2494,5 1996 86489,3 69620,2 14347,2 2521,9 1997 92530,2 74492,5 15465,4 2572,3 1998 96102,7 77298,2 16204,2 2600,3 1999 102932,9 82945,6 17337,0 2650,3 Nguồn: Việt Nam qua những con số Cơ giới hoá một số khâu sản xuất được phát triển, trong đó khâu làm đất tăng từ 22% năm 1986 lên 34,1% năm 1996 và 38% năm 1998 (đồng bằng sông Cửu Long đạt 60-80%). Các loại máy móc nông nghiệp được nông dân đầu tư mua sắm nhiều. Cả nước có khoảng 600.000 máy bơm nước, 160.000 máy nghiền thức ăn gia súc, 108.000 máy xay xát, 100.000 máy tuốt lúa có động cơ; tàu thuyền đánh cá gắn động cơ có khoảng trên 70.000 chiếc với tổng công suất trên 1,2 triệu cv, tàu thuyền vận tải cơ giới có 98.330 chiếc. Trong 3 năm 1997-1999 cả nước đã tăng thêm 1000 tàu đánh cá có công suất trên 90 cv, đưa tổng só tàu đánh bắt cá xa bờ lên 5.000 chiếc. - Công nghệ tự động hoá đã được ứng dụng trong các dây truyền chế biến nông sản như đánh bóng, phân loại gạo, cà phê, chế biến đường, bánh kẹo, ươm tơ, chế biến thức ăn gia súc... Mức độ tự động hoá trong nông nghiệp, nông thôn chiếm 0,3%, riêng khâu chế biến nông sản đạt khoảng 5%. - Công nghệ sinh học trong hơn 10 năm gần đây đã tạo ra nhiều giống lúa, ngô, rau, đậu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ sinh học được áp dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản, công nghệ chế biến, công nghệ sản xuất phân vi sinh, sản xuất nấm, cải tạo giống theo hướng tạo ra nhiều giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt. - Thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã thúc đẩy hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh như lúa, cao su, chè, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, lạc, mía, bông, dâu tằm, rau quả, lợn, bò, tôm, cá... - Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản đã có bước tăng trưởng đáng kể. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản liên tục tăng, tốc độ tăng bình quân hàng năm 312-14% và là ngành chiếm tỷ lệ khá lớn trong nông nghiệp 30-32%. So với năm 1990, chế biến đường tăng 3,4 lần, cà phê 4 lần, cao su mủ khô 3,2 lần, xay xát gạo 1,9 lần, điều nhân gấp 80 lần. Giá trị sản lượng công nghiệp chế biến so với giá trị tổng sản lượng nông nghiệp ngày càng tăng, từ 33,8% năm 1990 lên 42% năm 1995 và khoảng 46% hiện nay. Một số cơ sở chế biến đã tiếp cận công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại ngang với trình độ khu vực và thế giới như xay xát gạo, tơ tằm, mía đường, bánh kẹo, nước hoa quả cô đặc, chế biến gỗ, chế biến thuỷ sản... - Cơ sở hạ tầng kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, nhất là về thủy lợi. Tới nay đã có 84% diện tích gieo trồng lúa cả năm được tưới. Hiện nay cả nước có 8.265 công trình thuỷ lợi các loại, trong đó có 754 hồ chứa nước loại vừa và lớn (chưa kể hàng chục nghìn hồ, đập nhỏ), có 1.017 đập dâng,4.712 cống tưới, tiêu nước loại vừa và lớn, gần 2.000 trạm bơm điện các loại. Tổng giá trị hiện tại vào khoảng 60.000 tỷ đồng...Chương trình ngọt hoá ở đồng bằng sông Cửu Long, chương trình thủy lợi hoá ở miền Trung và Tây Nguyên đã tạo điều kiện quan trọng để khai hoang, tăng vụ, mở rộng diện tích gieo trồng lúa (thêm 1,2 triệu ha), cây công nghiệp và một số loại cây trồng khác. 1.2. Đi đôi với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đem lại cho nông thôn Việt Nam nhiều khời sắc mới. - Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp vàdu lịch (chiếm khoảng 30% GDP nông thôn), cây công nghiệp, rau quả (khoảng 18%); xuất khẩu nông, lâm sản tăng gần 20%/ năm, năm 1998 đạt 2,9 tỷ USD, chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; đã có một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, điều... - Có sự thay đổi trong cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng thích ứng với cơ chế kinh tế mới và những điều kiện kinh tế cụ thể. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn tăng lên một cách nhanh chóng trong khi các hợp tác xã và kinh tế nhà nước giảm đi rõ rệt. Về ngành nghề, những sản phẩm và bộ phận có sự phát triển nhanh là các ngành sản xuất phục vụ trực tiếp đời sống tại chỗ, khai thác nguồn lực tại chỗ hoặc có quan hệ liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có thị trường tương đối ổn định như chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng thông thường, chế biến gỗ và lâm sản, dệt may. Một số ngành sản xuất quan trọng gắn với các hoạt động chế biến, vận chuyển, phơi sấy, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp đã hình thành. ở những vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, quy mô lớn như lúa, gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, thủy sản ở các vùng ven biển...đã và đang hình thành một số trung tâm công nghiệp chế biến nông thủy sản với quy mô vừa và nhỏ, được trang bị máy móc thiết bị tương đốihiện đại, đủ sức thoả mãn các nhu cầu sơ chế, tinh chế sản phẩm phục vụ xuất khẩu được xay xát và đánh bóng tại các cơ sở sản xuất công nghiệp tư nhân công suất 2.000-3.000 tấn/ngày. Sự hình thành cụm công nghiệp nông thôn ở một số vùng đã góp phần phân công lại lao động và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn. Đến nay, 70% thu nhập của nông dân là từ các ngành nghề phi nông nghiệp. - Cơ sở hạ tầng nôngthôn được cải thiện. Hệ thống đường giao thông nông thôn phát triển nhanh chóng. Từ năm 1991-1997 đã xây dựng mới 26.599 km đường, 28.313 cầu các loại. Hiện nay có 22/61 tỉnh có 100% đường ô tô tới trung tâm xã. Hệ thống điện lưới quốc gia ngày càng lan toả vào các vùng nông thôn. Tổng công ty điện lực Việt nam từ năm1995 đến năm 1999 đã đầu tư1.546.802 tỷ đồng cho phát triển mạng lưới điện nông thôn, miền núi và hải đảo, đã xây dựng 16.976 km đường dây trung thế, 9.536 trạm biến áp có tổng dung lượng 718.858 KVA, 6.979 km đường dây hạ thế, cung cấp 249.178 công tơ cấp điện cho 1.540.000 hộ. Đến cuối năm 1999, điện lưới quốc gia đã đến được tất cả các tỉnh, 95,7% số huyện, 77,2% số xã và 68,1% số hộ trong cả nước. Hệ thống chợ được hình thành ở các tụ điểm kinh tế nông thôn đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế hàng hoá pháttriển. - Đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt, ước tínhthu nhập bình quân đầu người tăng lên khoảng 1,5 lần; điều kiện ăn, ở , đi lại, học tập và chữa bệnh được cải thiện. Cả nước có khoảng 1,5 triệu hộ nông dân đạt tiêu chuẩn hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi va trên 11 vạn hộ phát triển kinh tế trang trại. 2. Những khó khăn và thách thức Tuy đạt được một số kết quả và tiến bộ bước đầu nhưng nhìn nhận một cách nghiêm túc thì có thể nói CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta cho đến nay còn quá chậm chạp, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Điều đó thể hiện trên các mặt: Thứ nhất, mức độ tác động của công nghiệp và khoa học-kỹ thuật vào nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn chưa mạnh và không đều. Trình độ cơ giới hoá nông nghiệp, điện khí hoá nông thôn còn ở mức thấp và có khoảng cách xa so với các nước trong khu vực. Đến năm 1998, tỷ lệ cơ giới hoá các khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp còn thấp (làm đất 30%, ra hạt 40%). Đến nay cả nước mới có khoảng 25% diện tích gieo trồng được làm bằng máy. Trình độ điện khí hoá, hoá học hoá còn thấp, nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp về cơ bản vẫn là thủ công, lạc hậu, sử dụng sức người và súc vật là chính, máy móc còn ít và không đều, vùng sâu, vùng xa, miền núi còn rất thiếu. Trình độ điện khí hoá nông thôn tuy có khá hơn trước nhưng vẫn còn 30% số xã và 40% số hộ nông dân chưa có điện. 53,75% số hộ nông thôn có điện dùng với giá điện cao hơn ở thành thị từ 30 đến 50%. Thứ hai, kinh tế nông thôn vẫn mang nặng tính chất thuần nông. Đến năm 1994, 80% số hộ nông thôn vẫn làm nông thôn thuần tuý, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng còn trên 90% số hộ và 80% số lao động chỉ biết trồng trọt và chăn nuôi. Các tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ này còn cao hơn: Lai Châu 97%, Lao Cai 93,5%, Cao Bằng 94,5%, Hà Giang 92,3%... Từ 1994 đến 1998 các tỷ lệ trên không những không giảm mà còn tăng so với năm 1994 và tính chất thuần nông vẫn còn phổ biến. Trong nông nghiệp ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo (78%), ngành chăn nuôi mới chỉ chiếm trên 20%, ngành nghề công nghiệp chế biến và dịch vụ chuyển biến chậm chạp. Thứ ba, sản xuất phân tán, manh mún, trình độ công nghệ trong nhiều lĩnh vực nông, lâm nghiệp lạc hậu: công nghiệp chế biến kiám phát triển, khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá thấp, tiêu thụ sản phẩm là mối lo thường xuyên của đại bộ phận nông dân. Theo kết quả điều tra gần nhất, nông thôn nước ta có khoảng 12 triệu hộ hiện đang canh tác trên gần 75 triệu thửa đất nhỏ phân tán. Công nghiệp mới chỉ chế biến được khoảng 60% sản lượng chè, 40% sản lượng mía, 1% sản lượng thịt các loại... Thứ tư, cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, chậm đổi mới, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô lớn. Thuỷ lợi được đầu tư lớn nhưng hiệu suất sử dụng thấp (khoảng 60% năng lực thiết kế). Tỷ lệ diện tích cây hằng năm được tưới tiêu bằng công trình thuỷ lợi còn thấp, nhất là ở duyên hải miền Trung, trung du miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ va Tây Nguyên. Hệ thống đê điều không được tu bổ kịp thời, mức độ bảo đảm an toàn thấp. Điều kiện giao thông rất chậm phát triển, vẫn còn khoảng 60 xã (7%) chưa có đường ô tô tới khu trung tâm, 50% đường cấp xã, 30% đường cấp huyện ô tô không đi lại được vào mùa mưa lũ... Thứ năm, công nghiệp nông thôn và dịch vụ phi nông nghiệp tuy có khởi sắc ở một số vùng và địa phương, ngành nghề nông thôn được khôi phục và mở rộng nhưng còn mang nặng tính tự phát, thiếu quy hoạch và định hướng, vùng nào phát triển ngành nghề gì, quy mô và thị trường, giá cả ra sao vẫn còn là ẩn số. Sự phát triển của công nghiệp nông thôn nước ta đến nay vẫn thiếu ngành mũi nhọn, vùng trọng điểm, các mặt hàng chiến lược có tính ổn định, lâu dài. Mặt khác, chất lượng và giá cả sản phẩm hàng hoá nông nghiệp còn thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới trong điều kiện kinh tế mở. Một số ngành tiểu thủ công nghiệp vừa được khôi phục đã không đủ sức tồn tại lâu dài như cơ khí nông nghiệp, hàng mây tre đan, thủ công mỹ nghệ. Các mặt hàng và sản phẩm mới của công nghiệp nông thôn chỉ dừng lại ở trên địa bàn nông thôn trong phạm vi hẹp, thị trường và giá cả hàng hoá không ổn định. Thứ sáu, quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện trì trệ. Tuy đã có gần 50% trong số khoảng 10.000 HTX nông nghiệp đã tiến hành chuyển đổi theo luật HTX và Điều lệ mẫu HTX nông nghiệp nhưng nhiều HTX hoặc là chuyển đổi hình thức, hoặc là có “chuyển” nhưng chưa “đổi”, hoạt động kém hiệu quả, chưa tương xứng với các nguồn lực vốn có về đất đai, lao động, vốn và công nghệ được đầu tư. Thứ bảy, CNH nông thôn chưa làm tròn chức năng thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, chưa tạo ra thế và lực mới để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo yêu cầu CNH-HĐH. Thực tế cho thấy cho đến nay lao động nông nghiệp cả nước vẫn có xu hướng tăng dần về số tuyệt đối: năm 1999 là 25,25 triệu người, tăng 1,18 triệu (4,9%) so với năm 1996. Tình trạng lao động dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập của nông thôn thấp và tăng chậm: với 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, gần 29 triệu lao động, mỗi năm tăng thêm khoảng 1 triệu lao động, bình quân 0,27 ha/1lao động, lao động nông thôn mới chỉ sử dụng 73% quỹ thời gian trong khi vẫn còn khoảng 10 triệu ha đất hoang hoá và gần 1,4 triệu ha mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản nhưng chưa được khai thác, sử dụng. Dựa trên những đánh giá trên về kết quả đã đạt được của quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn trong những năm vừa qua cũng như những khó khăn, thách thức cần vượt qua chúng ta có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Dưới đây là một số kết quả tổng hợp đã được thống kê trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây. II. Thực trạng quá trình đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 1. Những thành công đã đạt được Trong những năm qua đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn luôn giành được sự chú ý ngày càng cao của Nhà nước. Nếu năm 1996 đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn chiếm 10% tổng đầu tư từ ngân sách, thì năm 1997 là 11,3% và năm 1998 là 15,3%. Ngoài ra, Nhà nước còn đầu tư qua hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngân hàng Người nghèo và các chính sách hỗ trợ tài chính khác. Năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phất triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nôn gdân vay khoảng 22.000 tỷ đồng dêt phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Thuỷ lợi là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư nhiều nhất. Năm 1998, đầu tư cho thuỷ lợi hơn 1.900 tỷ đồng, chiếm hơn 60% ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn... Vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số (tỷ VND) 68.047 79.367 96.870 97.336 103.771 Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (tỷ VND) 5.209 5.723 7.084 7.629 7.773 So với tổng số(%) 7,7 7,2 7,3 7,8 7,5 Nguồn: Tổng cục Thống kê (không kể đầu tư cho thuỷ lợi) Vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết để CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn: xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ như đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức và tay nghề cho lực lượng lao động...Vì vậy trong công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn chúng ta cần phát huy triệt để mọi nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài, phát huy nội lực là chính đồng thời tận dụng có hiệu quả sự trợ giúp từ bên ngoài. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý sau: Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước trong nông-lâm-ngư nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng 1990 1995 1996 1999 Tổng số 409,2 2758,2 3044,0 4661,8 1. Nông nghiệp 409,2 2216,6 2384,4 4090,9 Trồng trọt 92,2 228,5 429,3 1399,4 Khai hoang xây dựng kinh tế mới 29,5 82,7 80,7 83,5 Nông trường quốc doanh 55,6 131,0 205,1 1069,1 Cao su 20,8 7,9 11,8 47,2 Chè 0,9 4,1 3,5 19,5 Cà phê 2,6 14,3 17,9 45,5 Trạm, trại phục vụ trồng trọt 7,3 14,8 143,6 246,8 Chăn nuôi 16,9 50,5 213,4 42,4 Trạm, đội máy kéo _ _ 3,9 _ Thuỷ lợi 299,8 1937,5 1737,7 2649,1 Trong đó: Thuỷ nông 244,4 _ _ _ 2. Lâm nghiệp _ 433,7 498,0 370,9 3. Thuỷ sản _ 107,9 161,6 200,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong điều kiện nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn chế, phải tập trung cho các công trình trọng điểm nhưng Nhà nước vẫn tăng cường đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Năm 1997, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp là 1.843 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước là 1.200 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 643 tỷ đồng. Nguồn vốn này dành chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi, điện và cung cấp nước sạch nông thôn. Đầu tư cho thuỷ lợi so với tổng vốn đầu tư từ NSNN 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số (tỷ VND) 16.500 17.400 19.500 27.900 28.700 Thuỷ lợi (tỷ VND) 1.708 2.573 2.800 4.000 3.800 Tỷ trọng (%) 10,35 14,78 14,40 14,40 13,24 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cùng với nguồn vốn của Nhà nước là nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và của hơn 10 triệu hộ nông dân đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Ước tính mức vốn đầu tư bình quân 1 hộ/1năm là 1 triệu đồng thì mỗi năm nguồn vốn này lên tới 10.000 tỷ đồng, nhiều gấp 3 lần nguồn vốn ngân sách. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ tích luỹ trên GDP của khu vực nông thôn nước ta ngày càng tăng: năm 1990 là 5,2%, năm 1995 là 10,6%. Tốc độ trang bị, đầu tư máy móc của hộ nông dân tăng lên nhanh chóng. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 10 năm (1985-1995) số lượng máy kéo nhỏ đã tăng lên gấp 3 lần, máy kéo lớn tăng 1,4 lần, động cơ điện tăng 1,6 lần, động cơ xăng chạy diezen tăng 1,4 lần, máy phát điện tăng 125 lần, máy bơm nước tăng 2,8 lần, máy tuốt lúa tăng 3,2 lần...Vốn đầu tư của dân không chỉ tăng lên về số lượng mà đã chuyển dần theo cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào các vùng chuyên canh, sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo ở ĐBSCL, ĐBSH, cà phê ở Tây Nguyên, cao su, điều ở Đông Nam Bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển...Nguồn vốn của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã và đang góp phần quan trọng thúc đẩy quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung. Phương thức đầu tư chủ yếu là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây con, ứng trước vốn cho nông dân mua vật tư, phân bón để bảo đảm sản xuất nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm, xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho nông thôn, nhất là vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Trong lĩnh vực phát triển nông thôn các doanh nghiệp cũng đã đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0179.doc
Tài liệu liên quan