Thực trạng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam và định hướng điều hành lãi suất tín dụng thời gian tới

 Lời mở đầu 3

Chương I : Lý luận chung về lãi suất tín dụng. 4

I. Khái niệm về lãi suất tín dụng: 4 Khái niệm lãi suất

 II. Những vấn đề cơ bản về lãi suất tín dụng: 4

 1. Nguyên tắc xác định lãi suất. 4

 2. Các loại lãi suất tín dụng. 4

 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng. 5

 4. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 5

 5. Ngân hàng trung ương và việc điều hành lãi suất. 6

Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam và

 định hướng điều hành lãi suất tín dụng thời gian tới.

 I. Điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam - ưu nhược điểm và

 tác dụng đối với phát triển kinh tế xã hội. 8

1. Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989. 8

2. Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993. 9

3. Giai đoạn từ ngày 01/ 10/ 1993 đến ngày 01/ 01/ 1996. 9

4. Giai đoạn từ sau ngày 01/ 01/ 1996 đến nay. 10

 II. Một số ý kiến về hệ thống lãi suất tín dụng và định hướng

 điều hành lãi suất tín dụng trong thời gian tới. 16

 1. Một số ý kiến về hệ thống lãi suất tín dụng và giải pháp xử lý

 những bất hợp lý về lãi suất . 16

 2. Định hướng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam thời gian tới. 1

Kết luận. 21

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam và định hướng điều hành lãi suất tín dụng thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính xác, do đó khi lấy lạm phát làm cơ sở quy định mức lãi suất đã làm cho mức lãi suất thực tế dao động mạnh, sự ổn định kinh tế vĩ mô không duy trì được trong thời gian dài. Nửa cuối năm 1990 và đầu năm 1992 lạm phát lại quay trở lại. Trước tình hình đó, tháng 6/ 1992,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có sự điều chỉnh lãi suất theo hướng lãi suất dương và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng: + Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương tức là lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát và lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích của người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. + Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự. Nhờ kiềm chế được lạm phát, giảm được giá đôla, vàng, từ tháng 6 / 1992 Ngân hàng đã giảm dần lãi suất tiết kiệm và từ tháng 8 / 1992 thực hiện lãi suất dương. Tuy vậy trong giai đoạn này còn một số tồn tại: + Đối với từng ngành kinh tế ( công - nông - thương nghiệp ) có mức lãi suất riêng. + Đối với các thành phần kinh tế ( quốc doanh và ngoài quốc doanh ) có phân biệt lãi suất. Chính vì vậy chưa khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh một cách bình đẳng. 3.Giai đoạn từ 01 - 01 - 1993 đến 01 - 01 - 1996: Ngân hàng Nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần cho vay vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. a. Lãi suất trần: Lãi suất trần cho vay doanh nghiệp Nhà nước là 1,8%/ tháng , cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. b. Lãi suất thoả thuận: Trường hợp các ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. Trên thực tế khoảng 30 - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận và phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/ tháng. Với mức lạm phát năm 1993 là 5,2%, lãi suất thực của ta trở nên quá cao ( lãi suất thực tiền gửi tiết kiệm là 11,6%/ năm, lãi suất thực cho vay theo lãi suất trần là 20%/ năm ) lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ta cao gấp 1,1 lần của Hàn Quốc, 3,7 lần của Mỹ, lãi suất cho vay cao gấp 1,5 lần của Đức và 4,2 lần của Mỹ. Vào cuối năm 1995, mức lãi suất trần của Việt Nam là 2,1%/ tháng ( 25,2%/ năm ) sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát 12,7% còn 12,5%/ năm trong khi lợi nhuận bình quân của toàn bộ nền kinh tế chưa vượt mức 6,5%/ năm cho nên nhiều ngân hàng thương mại trở nên thừa vốn, dù nền kinh tế còn rất thiếu vốn nhưng lãi suất cho vay quá cao, vượt quá khả năng thanh toán so với lợi nhuận. Một số ngân hàng thương mại chủ động hạ lãi suất cho vay, chuyển sang đầu tư bất động sản hoặc tài trợ cho thương mại bán hàng trả góp thậm chí đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng với lãi suất thấp để ” *tiêu thụ” vốn dưới giá mua vào nhưng an toàn. Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư đã chuyển vốn sang nhập hàng trả chậm lấy tiền Việt Nam , gửi tiết kiệm lấy lãi cao, ngày càng có xu hướng khuyến khích nhập khẩu, kìm hãm xuất khẩu, doanh số tín dụng ngân hàng đã một phần nhường chỗ cho doanh số tín dụng thương mại trong khi Luật Thương phiếu và Hối phiếu của Việt Nam chưa có, làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thu hẹp. Với cơ chế lãi suất thoả thuận có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất tương ứng đi đôi với một biên độ dao động nhất định. Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa sàn tiền gửi và trần cho vay rất lớn từ 0,7% - 1,0%/ tháng làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX tháng 8/ 1995 cùng với Nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng đã yêu cầu các ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất cho vay huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng, đây là căn cứ để ra đời cơ chế lãi suất trần và mức khống chế từ 01/ 01/ 1996. 4. Giai đoạn từ sau 01 - 01 - 1996 đến nay: 4.1. Cơ chế quản lý lãi suất tín dụng thông qua mức khống chế 0,35%: Theo quyết định số 381/ QĐ - NH1 ngày 28/ 12/ 1995 từ 01/ 01/ 1996 Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35% thay cho việc điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó Về lãi suất trần : do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau nên Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau: + Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: là mức lãi suất thấp nhất, áp dụng cho khu vực thành thị. + Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn: cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một ít do thời hạn dài dễ gặp rủi ro. + Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung - dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. + Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao. Về mức khống chế 0,35%/ tháng đối với chênh lệch bình quân giữa vốn cho vay(đầu ra ) và huy động vốn ( đầu vào ) ở mỗi ngân hàng. Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phương diện giá cả của nó đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi suất trần cho vay còn đường biên còn lại thì không đựợc cố định mà được thay thế bằng mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/ tháng. Tuy vậy kiểm chứng trên thực tế qua hơn một năm thực hiện, việc khống chế trực tiếp đối với ngân hàng thương mại đã bộc lộ nhiều tồn tại, vướng mắc và hạn chế về hiệu lực thi hành. Thứ nhất: Theo tài liệu về tình hình chênh lệch lãi suất năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 cho thấy phần lớn ngân hàng thương mại có mức chênh lệch thực tế bình quân đạt dưới 0,35%/ tháng là do :chất lượng tín dụng chưa cao, nợ khó đòi phát sinh làm giảm doanh thu, vốn huy động tăng mạnh, nhưng tín dụng tăng trưởng chậm do tỷ lệ nhu cầu vay vốn của tổ chức kinh tế và cá nhân không đủ điều kiện cần thiết cao, ngân hàng thương mại bị ứ đọng vốn tạm thời chi phí tăng mà doanh thu giảm, tiền gửi kỳ hạn 3 tháng chiếm tỷ trọng lớn đã làm tăng số lãi phải trả, dư nợ cho vay tăng khá nhưng lãi suất cho vay giảm, nhiều ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu bằng ngoại tệ với mức chênh lệch lãi suất thấp ( 2% - 2,5%/ năm ) chiếm khoảng 30% tổng dư nợ cho vay. Như vậy nội dung kinh tế của chỉ tiêu chênh lệch lãi suất chỉ phản ánh thu nhập thực tế của ngân hàng thương mại, không phản ánh tình hình chi phí và việc khống chế chi phí theo mức chênh lệch lãi suất 0,35%/ tháng. Thứ hai: Để chấp hành đúng mức khống chế 0,35% các ngân hàng phải căn cứ vào cơ cấu nguồn vốn tại thời điểm quyết định cho vay để xác định lãi suất huy động bình quân từ đó mới có thể xác định lãi suất cho vay, việc đó hết sức phức tạp và không bao giờ đạt được sự chính xác, vì nguồn vốn ngân hàng không ngừng biến đổi hàng ngày, hàng giờ, cho dù ở thời điểm ngân hàng quyết định lãi suất cho vay quy định mức chênh lệch Ê 0,35% thì kết quả cũng chỉ mang tính thời điểm, vì sau đó do sự biến đổi cơ cấu của nguồn vốn, mức chênh lệch này sẽ thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng tìn dụng. Thứ ba: Việc quản lý và điều hành chênh lệch lãi suất trực tiếp đối với từng ngân hàng thương mại là không thể làm được. Vì: + Đặc điểm và điều kiện kinh doanh của các loại hình ngân hàng thương mại khác nhau,chênh lệch lãi suất của các ngân hàng thương mại là khác nhau nên quy định một mức chênh lệch chung là không hợp lý. + Cả nước hiện có hơn 9000 ngân hàng thương mại và gần 1000 Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng trung ương làm sao có thể kiểm tra việc chấp hành theo quy định kỳ tháng,quý đồi với từng đơn vị ? Vả lại nếu kiểm tra hết thì sẽ tốn kém, mà không kiểm tra thì hiệu lực thi hành rất hạn chế. + Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có tính kỳ hạn, việc huy động vốn và cho vay việc thu - chi lãi sẽ xảy ra tình trạng ” thu dồn” hoặc ” chi dồn” trong một thời gian ngắn. Chế độ tài chính hiện hành chưa quy định cụ thể về việc trích trước, phân bổ đều đặn và đầy đủ các khoản thu - chi trong năm theo thông lệ quốc tế. Các ngân hàng sẽ có quý lỗ, quý lãi, nên có năm chênh lệch lãi suất nhỏ hơn 0,35%, có năm lớn hơn 0,35% không phụ thuộc hoàn toàn vào nỗ lực chủ quan của mỗi ngân hàng, vì vậy việc khống chế và xử lý chênh lệch là việc làm khó khăn. Thứ tư: Việc khống chế chênh lệch lãi suất 0,35% có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường tiền tệ và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại , biểu hiện là: + Khi lãi suất huy động bình quân bị khống chế cứng nhắc làm giảm sự cạnh tranh trên thị trường tiền tệ, không khuyến khích ngân hàng thương mại đưa ra sản phẩm mới. + Chênh lệch lãi suất = ( Lãi suất cho vay thực tế bình quân - Lãi suất huy động thực tế bình quân ) bị khống chế tối đa là 0,35%, nghĩa là các ngân hàng có chênh lệch lãi suất càng thấp càng tốt sẽ không khuyến khích các ngân hàng cạnh tranh bằng uy tín và hiệu quả kinh doanh mà thay vào đó là nâng cao lãi suất huy động vốn. + Không khuyến khích ngân hàng thương mại tập trung huy động vốn đầu tư mở rộng cho vay trung - dài hạn mà chỉ tập trung cho vay ngắn hạn để tránh rủi ro. Ngân hàng thương mại sẽ giảm thu lãi, tăng chi lãi huy động vốn vào những tháng cuối năm để nhằm khống chế chênh lệch lãi suất dưới 0,35% làm kết quả kinh doanh của ngân hàng không được phản ánh chính xác, luân chuyển vốn tín dụng bị ách tắc. Do vậy hạn chế tính năng động trong hoạt động tín dụng, gây nên tình trạng khó khăn cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Như vậy việc khống chế lãi suất huy động bình quân và cho vay bình quân trong một mức chênh lệch cố định thì vai trò - công dụng về mặt quản lý tài chính rất hạn chế, hiệu lực thi hành không cao, kết quả không đạt như mong muốn, trái lại nó gây tiêu cực đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại . 4.2. Cơ chế điều hành lãi suất trần và không quy định mức chênh lệch lãi suất tín dụng: Tại kỳ họp thứ 2, tháng 12 - 1997 ,Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch lãi suất 0,35%/ tháng đồng thời thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay ở thành thị và nông thôn, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần lãi suất xuống còn 3 trần lãi suất : + Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/ tháng. + Trần lãi suất cho vay trung - dài hạn 1,25%/tháng. + Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1,5%/ tháng. Việc điều hành theo cơ chế lãi suất trần có nhiều ưu điểm như: + Trong phạm vi trần các tổ chức tín dụng được tự do ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh, tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh từng bước tự do hoá lãi suất . + Tạo mặt bằng chung về lãi suất chung trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận vượt quá xa mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định. + Có trần lãi suất sẽ bảo vệ lợi ích người vay tiền. + Đảm bảo vai trò quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu mới hình thành của thị trường tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên đây là cách quản lý ”cứng” trong giai đoạn thị trường chưa phát huy hết mặt tích cực, nhạy cảm của nó, lợi dụng mức khống chế ”cứng” này nhiều tổ chức tín dụng cho vay ngay theo mức lãi suất tối đa, đụng trần để đạt lợi nhuận cao. Trần lãi suất kém linh hoạt, khó điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu về vốn và điều kiện khó khăn hay lợi nhuận của từng vùng. Trong giai đoạn khủng hoảng và sau giai đoạn khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh nhiều lần mức lãi suất. Cụ thể là: Theo quyết định số 30/ QĐ - NHNN ngày 17/ 01/ 1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cho vay nội tệ là 1,2%/ tháng ( ngắn hạn ) và 1,25%/ tháng ( trung và dài hạn). Đặc biệt trong 11 tháng năm 1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( NHNNVN ) đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất, trong đó có 4 lần hạ trần lãi suất. Ngày 29/ 01/ 1999, Thống đốc NHNNVN có chỉ thị số 01/ CT - NHNN1 quy định từ ngày 01/ 02/ 1999 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị là 1,1%/ tháng ( ngắn hạn ) và hạ còn 1,15%/ tháng ( trung và dài hạn ). Mức lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/ tháng. Để kích cầu thêm một bước và tái lập sự bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, ngày 29/ 05/ 1999 Thống đốc NHNNVN ban hành quyết định số 189/ 1999/ QĐ - NHNN 1 về việc điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho vay cả ở thành thị, nông thôn đều áp dụng mức lãi suất thống nhất 1,15%/ tháng. Tiếp đến, ngày 30/ 07/ 1999, Thống đốc NHNNVN đã ban hành quyết định số 266/ 1999/ QĐ - NHNN 1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15%/ tháng xuống 1,05%/ tháng. Riêng các Hợp tác xã tín dụng và Quỹ tín dụng nhân dân giữ nguyên trần lãi suất cho vay là 1,5%/ tháng. Ngày 01/ 09/ 1999, Thống đốc NHNNVN ra chỉ thị số 05/1999/CT-NHNN1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam xuống mức 0,95%/ tháng ở khu vực thành thị Đồng thời ra Quyết định số 307/1999/QĐ-NHNN1 quy định lãi suất tái cấp vốn là 0,7%/tháng. Tại nhiều ngân hàng thương mại nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh tiền gửi vẫn không ngừng tăng lên nhưng cho vay không hết. Các ngân hàng thương mại quốc doanh phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào trái phiếu Kho bạc Nhà nước thời hạn 1 năm và công trái xây dựng Tổ quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Trước tình hình đó, các ngân hàng thương mại đồng thời hạ lãi suất để chống lỗ với mức độ khác nhau. Đến đầu tháng 10 năm 1999, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn 0,3%/ tháng so với lãi suất 0,5%/tháng đầu năm 1999, tính ra giảm 40%, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0,5%/tháng so với 0,75%/ tháng vào đầu năm 1999 đã giảm 34%. Ngày 22/ 10/ 1999, Thống đốc NHNNVN ra quyết định số 383/1999/QĐ-NHNN1 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam ở khu vực thành thị là 0,85%/ tháng, khu vực nông thôn là 1%/ tháng. Đồng thời ra quyết định số 382/1999/QĐ-NHNN1 điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0,5%/ tháng có hiệu lực từ ngày 01/11/1999 . Trên cơ sở các mức lãi suất đó các tổ chức tín dụng cũng quyết định điều chỉnh giảm các mức tiền gửi và huy động vốn của mình. Kể từ ngày 25/ 10/ 1999 mức lãi suất tiền gửi của hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam trong toàn quốc điều chỉnh giảm : Không kỳ hạn còn 0,15%/ tháng, kỳ hạn 3 tháng còn 0,3%/ tháng , kỳ hạn 6 tháng là 0,4%/ tháng và kỳ hạn 12 tháng là 0,5%/ tháng. a. Cơ sở điều chỉnh: Việc điều chỉnh lãi suất nhiều lần như vậy không hẳn do ý định chủ quan của Ngân hàng Nhà nước, nó xuất phát từ cơ sở sau: + Năm 1998 tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng lên 9,2% làm lãi suất huy động thực giảm còn 2,2%/ năm vẫn cao gấp 2 lần so với thế giới. Trái lại trong 6 tháng đầu năm 1999 lãi suất huy động doanh nghiệp vẫn giữ nguyên ở mức 0,8%/ tháng lãi suất thực trở lại mức 0,5%/ tháng hay 6%/ năm cao gấp 5 lần so với thế giới. Lãi suất huy động cao làm lãi suất cho vay cũng tăng cao, mà lãi suất tăng cao gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế, làm đầu tư trì trệ cho nên phải hạ lãi suất . - Hơn nữa lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức thấp, 7 tháng gần đây liên tục thiểu phát ở mức: -0,7% ; -0,6% ; -0,4% ; -0,3% và -0,4%. Giảm phát làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại và sức mua của thị trường giảm sút. Các ngành sản xuất vật đang gặp khó khăn về thị trường và vốn để đổi mới kỹ thuật, công nghệ. Vấn đề mất cân đối giữa hàng và tiền thực chất là mất cân đối giữa khối lượng hàng hoá trên thị trường và khả năng thanh toán của nền kinh tế là rất trầm trọng. Vốn trong các ngân hàng thì ứ đọng mà nông dân và các doanh nghiệp lại thiếu vốn cho đầu tư sản xuất, kinh doanh. Do vậy một biện pháp cần thiết để ”kích cầu” là hạ lãi suất . - Tỷ giá hối đoái ổn định từ nhiều tháng nay ( từ tháng 10/ 1998 ) và kể cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tháng 2/ 1999 cũng không gây biến động về tỷ giá. - Tình hình cung - cầu về vốn tín dụng: tốc độ tăng số dư tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng nhanh hơn tiền gửi bằng ngoại tệ, đến giữa tháng 5/ 1999 tốc độ tăng tiền gửi là 9,3% trong khi tốc độ tăng dư nợ cho vay chỉ là 5,2% so với đầu năm 1999. - Tình hình thực hiện lãi suất cho vay và huy động vốn bằng đồng nội tệ của các tổ chức tín dụng: nhìn chung do tình hình vốn ứ đọng nên các tổ chức tín dụng cũng đã giảm lãi suất cho và tiền gửi đảm bảo cân đối về cung - cầu vốn tín dụng. Vào thời điểm tháng 5/ 1999: + Lãi suất cho vay: phổ biến ở mức 1,1%/ tháng ( ngắn hạn ) và 1,15%/ tháng ( trung - dài hạn) ở thành thị ; ở nông thôn cho vay sát trần 1,2% và 1,25%/ tháng nhưng một số tổ chức tín dụng chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh thực hiện giảm 10 - 15% so với lãi suất trên để đẩy mạnh cho vay. Cá biệt có tổ chức tín dụng còn cho vay 0,9%/ tháng, cho vay xuất khẩu: 0,8%/ tháng. + Lãi suất tiền gửi: mặt bằng lãi suất tiền gửi hạ xuống đáng kể từ 0,1 - 0,2%/ tháng so với năm 1998 và quý I/ 1999 nhằm cân đối cung - cầu về vốn. Tiền gửi không kỳ hạn phổ biến ở mức 0,3 - 0,5%/ tháng, kỳ hạn 6 tháng: 0,75 - 0,8%/ tháng, kỳ hạn 12 tháng: 0,9 - 1%/ tháng. Dưới đây là biểu một số lãi suất chính do Ngân hàng Nhà nước quy định trong thời gian gần đây: Đơn vị tính :% Thời điểm Lãi suất 1/ 7/1997 21/1/1998 1/2/1999 1/6/1999 1/8/1999 4/9/1999 25/10/1999 Ngắn hạn 1,0 1,2 1,1 1,15, 1,05 0,95 0,85 Trung - dài hạn 1,1 1,25 1,15 1,15 1,05 0,95 0,85 Khu vực nông thôn 1,2 1,25 1,25 1,15 1,05 1,05 1,0 Quỹ tín dụng nhân dân 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 Lãi suất tái cấp vốn 1,1 1,1 1,0 0,85 0,85 0,7 0,5 b. Mục đích điều chỉnh lãi suất : + Đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất với tình hình lạm phát. + Giảm bớt khó khăn cho người vay, góp phần kích thích nền kinh tế phát triển, đảm bảo cân đối cung - cầu về vốn tín dụng, đẩy mạnh cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, tạo khuôn khổ đủ rộng để tổ chức tín dụng thuộc các loại hình khác nhau, năng lực tài chính khác nhau, độ rủi ro khác nhau định ra mức lãi suất huy động cho vay và hợp lý. + Giảm bớt các trần lãi suất chuẩn bị điều kiện tiến tới áp dụng cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định. c. Tác động của điều chỉnh lãi suất tín dụng thời gian vừa qua: Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước đã thiết kế một mặt bằng lãi suất áp dụng chung cho cả vay ngắn hạn, trung - dài hạn, tạo sự bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên dư nợ của khu vực nông thôn không lớn trong đó các khoản cho vay chính sách, cho vay theo các chương trình của Chính phủ chiếm phần không nhỏ nên mặc dù có tạo điều kiện giamr chi phí và tăng đầu tư đối với khu vực nông thôn song tác dụng kích thích khu vực nông thôn của việc điều chỉnh lãi suất tới sự bình đẳng như vậy cũng chưa mạnh mẽ. Thêm vào đó, chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn này vẫn còn cao dẫn đến từ lần điều chỉnh lãi suất thứ tư trong năm trở đi, lãi suất trần, áp dụng đối với khu vực nông thôn trở lại cao hơn so với mức lãi suất trần cho vay ở thành thị. Về việc thống nhất trần lãi suất đối với các khoản vay có thời hạn khác nhau trong giai đoạn hiện nay có thể nhận định là nhằm khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư trung - dài hạn, khuyến khích đầu tư theo chiều sâu, đẩy mạnh phát triển sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Do mức độ rủi ro thường tăng theo thời hạn của khoản vay nên đây chưa phải là quyết định hợp lý. Nếu như trước kia chúng ta đã từng không phân biệt lãi suất cho vay các thời hạn khác nhau rồi đến quy định lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn đã được nhìn nhận là không hợp lý và được sửa đổi bằng việc nâng lãi suất cho vay trung - dài hạn lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn thì việc thống nhất trần lãi suất như hiện nay phải chăng là một bước thụt lùi ? Có lẽ đây chỉ là một giải pháp tình thế để đẩy mạnh ” đầu ra” của tín dụng mà thôi, chắc chắn trong tương lai chúng ta sẽ phải trở lại nguyên tắc đúng đắn là ”Lãi suất tín dụng ngắn hạn < Lãi suất tín dụng dài hạn ”. Thứ hai : Việc điều chỉnh lãi suất tín dụng đã gây nên một số ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng : + Biên độ giảm trần lãi suất giữa các lần điều chỉnh quá lớn (0,1%/ tháng; 1,2%/ năm ), khoảng cách giữa hai lần hạ trần lãi suất qua gần nhau liên tiếp đã gây ra các ảnh hưởng sau : + Hoạt động của ngân hàng thương mại chưa kịp ổn định qua việc hạ trần lãi suất lần này đã phải đối phó với việc hạ trần lãi suất lần sau. Các ngân hàng e dè trong huy động vốn nhất là vốn dài hạn vì sợ lãi suất tiếp tục hạ làm ngân hàng lỗ nhiều hơn. + Các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn do địa bàn hoạt khó khăn, cho vay món nhỏ, chi phí lớn, nguồn vốn hạn hẹp hơn các tổ chức tín dụng khác. Từ đó buộc các tổ chức tín dụng này giảm chi phí, tiết kiệm và nâng cao chất lượng phục vụ nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp. + Khách hàng nảy sinh tâm lý chần chừ trong vay tiền ngân hàng, họ chờ một mức lãi suất thấp hơn nữa. + Lãi suất tái cấp vốn giảm khuyến khích các ngân hàng thương mại vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Thứ ba: Hiệu quả của hạ lãi suất với việc ” kích cầu ” nền kinh tế : Kích cầu là một giải pháp kích thích khuyến khích tiêu dùng và mục tiêu cuối cùng là tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xã hội để thúc đẩy sản xuất phát triển . Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu về vốn rất cao của doanh nghiệp và nông dân với sự dư thừa của nguồn vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bằng việc hạ lãi suất cho vay Nhà nước muốn khai thông tín dụng từ đó kích thích tiêu dùng ( bao gồm tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt, đời sống ). Hạ lãi suất có liên quan đến bố trí lại cơ cấu đầu tư, chi tiêu Ngân sách và là một trong hàng loạt các ”kích cầu ” mà Nhà nước đã áp dụng như : giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, giảm thuế luân chuyển, bỏ thuế sát sinh, giảm một số thuế suất khác, tăng ưu đãi tín dụng, điều chỉnh phụ cấp lương, bảo hiểm xã hội, tài trợ mạnh hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Nhưng có lẽ hạ lãi suất chưa có hiệu quả mạnh mẽ lắm đến việc kích thích nền kinh tế phát triển. Có thể đề cập đến một số nguyên nhân: + Lãi suất giảm nhưng do giảm phát nên ở các công ty, doanh nghiệp hàng hoá tồn kho nhiều. tín dụng đang bí đầu ra, doanh nghiệp cạnh tranh kém, sản xuất trì trệ ( riêng 17 Tổng công ty 90 - 91 đã ứ đọng 6000 tỷ đồng ). Trong điều kiện làm ăn thua lỗ, các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không dám vay vốn, bản thân ngân hàng thương mại cũng không dám bỏ vốn ra để đầu tư vì vậy chỉ trông chờ hạ lãi suất cũng không mở rộng được tín dụng. + Lãi suất cho vay ở nông thôn vẫn cao hơn lãi suất thị trường mà nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của nông thôn rất cấp bách chỉ riêng việc kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn, phát triển kinh tế trang trại ... đã đặt ra yêu cầu rất lớn về vốn vay. + Lãi suất tiền gửi mặc dù giảm nhưng nguồn vốn huy động vào ngân hàng vẫn tăng cao vì ở thành phố người có tiền cũng không mua sắm gì nhiều mà đầu tư buôn bán thì khó tìm ra lợi nhuận cao nên tốt nhất là gửi ngân hàng kiếm lãi. Cung tín dụng tăng trong khi đầu ra không có do vậy đã hạ lãi suất mà hiệu quả vẫn không đạt như mong muốn. + Lãi suất tín dụng đã hạ thấp nhưng ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu khách hàng hội tụ những điều kiện cần thiết, đảm bảo hoàn trả có lãi đúng thời hạn vay. Trên thực tế mặc dù hạ lãi suất cho vay, nới lỏng các điều kiện vay vốn nhưng do không đủ điều kiện để vay nên có thể cần nhưng khách hàng vẫn không vay được vốn. Ngân hàng cho vay tuỳ tiện sẽ tạo ra càng nhiều sự tiềm ẩn về nợ quá hạn gia tăng, khả năng không trả nợ được càng lớn. Như vậy hạ lãi suất chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ để gia tăng tín dụng. Muốn tín dụng thực sự tăng trưởng thì phải tăng sức bật của nền kinh tế, tăng khả năng hấp thụ vốn cũng như độ an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam . Một yếu tố không thể thiếu đó là cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ và cởi mở hơn. Hạ lãi suất có ý nghĩa rất lớn đối với chủ trương phát huy nội lực, kích thích phát triển sản xuất và đầu tư, sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực và thế giới, góp phần đưa tín dụng của nước ta tiến tới mức lãi suất của thế giới. Vậy nên mặc dù chưa đạt được những gì như mong đợi từ việc hạ lãi suất nhưng khách quan mà nói thì hạ lãi suất là một chủ trương đúng đắn. I

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0787.doc
Tài liệu liên quan