LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG
I/ Vai trò - nội dung của công tác bán hàng
1. Khái niệm bán hàng
2. Vai trò, vị trí của công tác bán hàng
3. Nội dung bán hàng đối với một doanh nghiệp thương mại
II/ Nguyên tắc và phương thức bán hàng đối với một doanh nghiệp thương mại
1. Doanh nghiệp tự chủ trong mọi hoạt động kinh doanh
2. Các kênh tiêu thụ và phân phối hàng hoá vào các kênh
3. Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động bán hàng của doanh nghiệp
III/ Nghệ thuật bán hàng
1. Nghiên cứu tâm lý khách hàng
2. Yêu cầu đối với người bán hàng
3. Sử dụng các kỹ thuật yểm trợ Marketing
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY DỆT LEN MÙA ĐÔNG
I/ Quá trình hình thành Công ty dệt len mùa đông - chức năng và nhiệm vụ.
1. Quá trình thành lập
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
II/ Cơ cấu tổ chức quản lý
A. Các phòng ban chức năng
1. Phòng Hành chính
2. Phòng Kế hoạch
3. Phòng Tài vụ
4. Phòng kinh doanh
5. Phòng Tổ chức lao động, tiền lương
6. Phòng Kỹ thuật
7. Phòng KCS:
8. Phòng Bảo vệ
9. Phòng Y tế
B. Đặc điểm về tổ chức sản xuất
III. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty.
1. Đặc điểm sản xuất và tiêu thụ
2. Hoạt động bán hàng - tiêu thụ hàng hoá ở công ty dệt len mùa đông
3. Nhận xét về công tác sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm ở công ty dệt len mùa đông.
IV/ Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động bán hàng
1. Phương hướng và kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 98
2. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động bán hàng tại công ty dệt len mùa đông
KẾT LUẬN:
46 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng hoạt động của công ty dệt len mùa đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mua hàng. Để chiêu khách doanh nghiệp có thể dựa trên các quan hệ giao tiếp để chinh phục khách hàng thông qua các nhân viên chào hàng. Nhân viên chào hàng phải là người am hiểu về hàng hoá và thị trường biết lắng tai nghe ý kiến của khách hàng để giải quyết và thuyết phục họ, phải nắm được những điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm và so sánh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Chiêu khách cần thông qua các quà tặng, quà biếu khách hàng để tỏ lòng tôn trọng và mến mộ khách hàng, tổ chức các hội thảo, hội nghị khách hàng, ngoài ra doanh nghiệp có thể tổ chức các hình thức kỹ thuật xúc tiến bán hàng như bán có thưởng, giảm giá, cho thử sản phẩm, quà biếu kỹ thuật các trò chơi...
g. Phân tích kết quả bán hàng:
Sau một chu trình kinh doanh bước tiếp theo là phải phân tích đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận, chi phí, nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân của tất cả các hiện tượng biểu hiện trong quá trình kinh doanh của mình, tìm ra những điểm mạnh để tiếp tục phát huy đồng thời hạn chế và khắc phục điểm yếu trong hoạt động bán hàng ở đơn vị mình. Thông thường các yếu tố như giá cả hàng hoá dịch vụ rất dễ bị cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải phát huy được hết những lợi thế trong kinh doanh và uy tín của sản phẩm, của doanh nghiệp trên thương trường mới có thể tăng lợi nhuận, đưa doanh nghiệp phát triển một cách lành mạnh vững chắc
Tóm lại: Bán hàng là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện nghiên cứu kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện nghiên cứu và gắn với nhu cầu thị trường. Tổ chức tiếp nhận bảo quản và phân phối hàng hoá đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng với chi phí kinh doanh nhỏ nhất tăng doanh số bán và tăng lợi nhuận.
II/ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG THỨC BÁN HÀNG ĐỐI VỚI MỘT DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1. Doanh nghiệp tự chủ trong mọi hoạt động kinh doanh
Trong cơ chế thị trường hiện nay Nhà nước giao quyền tự chủ trong kinh doanh cho các đơn vị, các đơn vị phải tự hạch toán kinh tế, tự chủ trong moi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thm phải tự tổ chức mọi hoạt động của mình, từ việc tạo nguồn, nghiên cứu thị trường, tổ chức hoạt động bán hàng. Vì thế công tác bán hàng được coi trọng là cơ sở, tiền đề cho sản xuất và được thực hiện theo nguyên tắc sau:
- Doanh nghiệp tự lo liệu tổ chức hoạt động, bán hàng nhận thức và được thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng về các mặt hàng mà doanh nghiệp kinh doanh.
- Chế độ một giám đốc và giám đốc phụ trách chịu trách nhiệm bảo toàn vốn kinh doanh.
- Tự hạch toán kinh doanh, sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước doanh nghiệp được phép hưởng một phần lợi nhuận theo qui định. Với quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của mình nhiệm vụ chung nhất của các doanh nghiệp là tích cực chủ động sáng tạo, đảm bảo việc thu mua hàng khai thác mọi tiềm năng vật tư hàng hoá của nền kinh tế nhằm thoả mãn tới mức cao nhất các nhu cầu trên toàn xã hội. Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ, đảm bảo nguyên vẹn số lượng và chất lượng vật tư hàng hoá chống mất mát hao hụt, tổ chức bán hàng kịp thời, thường xuyên với chi phí thấp nhất. Cụ thể là phải đáp ứng tốt nhất của khách hàng về các loại vật tư hàng hoá dịch vụ. Để thực hiện công việc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm được nhu cầu của khách hàng để tổ chức thu mua hợp lý. Tổ chức khai thác các nguồn vật tư hàng hoá phục vụ cho quá trình tái sản xuất. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp thường đánh giá trên hai giác độ.
- Đáp ứng đầy đủ đồng bộ và kịp thời cho mọi nhu cầu của nền kinh tế quốc dân.
- Kết quả đạt được của hoạt động bán hàng.
Chính vì vậy mà hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp có các nhiệm vụ:
- Thoả mãn đến mức độ tối đa mọi nhu cầu về hàng hoá của thị trường đó thu lợi nhuận.
- Phải bán được hàng, giữ được uy tín với khách hàng và gửi được khách hàng.
- Hoạt động bán hàng phải tuân thủ theo các chế độ, chính sách quản lý của Nhà nước, tuân thủ pháp luật.
Dựa trên cơ sở các nhiệm vụ đề ra công tác bán hàng phải đạt được những yêu cầu sau:
- Hoạt động bán hàng phải phục vụ sản xuất làm mục đích, không chạy theo lợi ích cục bộ, không mua bán vật tư lòng vòng để kiếm lời.
- Hoạt động bán hàng phải tích cực, chủ động khai thác, mở rộng thị trường, biến nhu cầu ở dạng khả năng thành nhu cầu có thể thực hiện được. Chủ động nắm bắt nhu cầu sản xuất.
- Hoạt động bán hàng phải theo kế hoạch, tỉ mỉ, rõ ràng có sự phân cấp cụ thể thông qua đó thường xuyên theo dõi, chỉ đạo kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện công tác bán hàng.
- Tính liên tục: Quá trình bán hàng đối với doanh nghiệp là một hệ thống nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ những nhu cầu trên thị trường. Vì vậy công tác bán hàng phải được tổ chức hợp lý đưa nhanh hàng hoá đến nơi tiêu dùng, không để xảy ra ngắt quãng gây ra khan hiếm giả tạo hay đẩy khách hàng đến với đối thủ cạnh tranh.
2. Các kênh tiêu thụ và phân phối hàng hoá vào các kênh:
Bán hàng là khâu quan trọng nhất trong quá trình kinh doanh muốn bán được nhanh, chiếm lĩnh được thị trường có liên quan đến nhiều yếu tố như tính thích dụng của sản phẩm, chất lượng giá cả, phương thức mua bán... Vì vậy hoàn thiện các phương thức bán hàng cũng góp phần đáng kể vào hiệu quả thu được từ khâu bán hàng. Tuỳ vào từng mặt hàng và qui mô hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp áp dụng các phương thức bán hàng khác nhau. Nên doanh nghiệp phải biết lựa chọn phương thức bán hàng nào cho hợp lý, hợp tác và có hiệu quả cao nhất. Việc xác lập các kênh tiêu thụ căn cứ vào các yếu tố sau:
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
- Tính chất lý hoá của hàng hoá
- Vị trí của hàng hoá trong thị trường.
- Phạm vi hoạt động của nhà kinh doanh.
Hàng hoá sản xuất ra đưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng có thể qua nhiều con đường khác nhau, và được phân chia thành các loại kênh theo sơ đồ sau:
Người sản xuất
Người bán buôn Người bán buôn
4
3
2
1
Người bán lẻ Người bán buôn
Người bán lẻ Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Qua sơ đồ ta thấy có 4 loại kênh được chia theo các cấp độ khác nhau.
Kênh 1: Là kênh phân phối trực tiếp từ người sản xuất đến tận tay người tiêu dùng trong các trường hợp sau:
+ Đối với hàng hoá có tính thương phẩm đặt biệt.
+ Hàng hoá có đặc tính kỹ thuật cao, vật tư hàng hoá chuyên dùng.
+ Đối với những doanh nghiệp qui mô nhỏ.
+ Trường hợp những người sản xuất muốn nắm toàn bộ quyền kiểm soát và điều khiển kênh. Ưu điểm của kênh này là: Tốc độ hàng hoá lưu chuyển nhanh, đảm bảo sự giao tiếp chặt chẽ giữa người sản xuất (nhập khẩu) với người tiêu dùng tăng cường trách nhiệm của người sản xuất và đảm bảo tính chủ động của người sản xuất trong kênh bán hàng.
Mặt khác người sản xuất thu được lợi nhuận cao vì không phải chia sẻ lợi nhuận cho các khâu trung gian và giảm được chi phí lưu thông.
Nhược điểm: hạn chế tính chuyên môn hoá, tổ chức và quản lý hoạt động bán hàng phức tạp, phân tán nhân lực, thu hồi vốn chậm.
Kênh 2: ở kênh này chỉ có 1 trung gian. Đặc trưng của kênh này là vì có trung gian bán lẻ nên tạo điều kiện chuyên môn hoá cho sản xuất, tốc độ thu hồi vốn nhanh làm tăng vòng quay của vốn, phát huy được thế mạnh của người bán lẻ trong việc tiếp xúc với người tiêu dùng.
Tuy nhiên kênh này cũng có những hạn chế: khả năng kiểm soát kênh của nhà sản xuất bị giảm. Trong nhiều trường hợp nếu nhà bán lẻ kinh doanh nhiều loại hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau thì việc người sản xuất muốn đặt yêu cầu riêng đối với người bán lẻ sẽ gặp khó khăn. Người bán lẻ đồng thời phải kiêm chức năng thương nghiệp bán buôn sẽ dẫn đến tình trạng phân bổ dự trữ trong kênh mất cân đối, hợp lý. Vì vậy loại kênh này thường được sử dụng trong các trường hợp sau:
+ Nhà sản xuất không đủ khả năng tổ chức toàn bộ khâu tiêu thụ.
+ Khi nhà sản xuất lợi dụng những khả năng sẵn có của người bán lẻ.
Kênh 3: Đây là kênh dài đầy đủ, là loại kênh phổ biến nhất trong phân phối hàng hoá. Đặc trưng của kênh này là khả năng chuyên môn hoá của nhà sản xuất cao, phát huy được sức mạnh của nhà bán buôn và bán lẻ.
Ưu điểm của kênh này là do có quan hệ mua bán theo từng khâu nên tổ chức kênh tương đối chặt chẽ, vòng quay của vốn nhanh, người sản xuất và người trung gian do có chuyên môn hoá cao nên có điều kiện nâng cao năng suất, khả năng phát triển và thỏa mãn nhu cầu thị trường lớn, vai trò điều chỉnh luồng hàng của trung gian bán buôn lớn. Tuy nhiên vì là kênh phân phối dài, có nhiều trung gian nên khả năng rủi ro lớn, việc điều hành quản lý kênh sẽ khó khăn nếu các nhà kinh doanh không đủ trình độ và kinh nghiệm. Thời gian lưu thông hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, chi phí lưu thông lớn.
Kênh 4: Cũng là loại kênh dài, khả năng chuyên môn hoá cao, có nhiều đặc điểm giống kênh 3 song có nhiều đặc thù khác kênh 3. Kênh này thường được dùng đối với một số mặt hàng mới nhưng có khó khăn về thông tin, quảng cáo, những nhu cầu mới, hoặc sử dụng trong trường hợp các nhà kinh doanh thiếu kinh nghiệm, các mặt hàng mà giá cả thường biến động nhiều.
Kênh này cũng có những ưu, nhược điểm giống kênh 3. Song ở đây có vai trò của người môi giới. Các nhà kinh doanh sử dụng môi giới ở các trường hợp cần thiết và coi môi giới như những nhà kinh doanh và chia lợi nhuận hợp lý cho họ khi họ tham gia vào kênh.
Tóm lại, qua việc nghiên cứu các phần tử trung gian và các kênh phân phối ta thấy mỗi loại kênh có những ưu nhược điểm khác nhau, ưu điểm của kênh này lại là nhược điểm của kênh kia (kênh trực tiếp và kênh gián tiếp). Kênh càng dài thì việc phân phối hàng hoá càng hợp lý, thuận tiện hơn cho khách hàng. Tuy nhiên chi phí lại cũng tăng lên theo do phải thông qua nhiều khâu trung gian nên nhiều khi không phản ánh đúng nhu cầu thực tế của người tiêu dùng. Khoảng cách giữa sản xuất và tiêu dùng xa hơn. Vì vậy việc xác định đúng đắn kênh bán hàng sao cho phù hợp với mặt hàng, ngành hàng và khả năng cua doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc thành bại của khâu bán hàng. Cũng như toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mỗi công ty cần xây dựng một số phương án tiếp cận thị trường khác với việc bán trực tiếp, những con đường đi đến thị trường này là những kênh có 1,2,3 hay nhiều cấp trung gian. Việc hình thành kênh đòi hỏi phải nghiên cứu những phương án cơ cấu cơ bản của kênh về loại hình và số người trung gian. Việc quản lý kênh đòi hỏi phải lưa chọn và đôn đốc những người trung gian. Cần định kỳ đánh giá hoạt động từng thành viên của kênh. So sánh các chỉ tiêu tiêu thụ. Tìm những giải pháp tối ưu để tiếp tục hoàn thiện kênh.
3. Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động bán hàng của doanh nghiệp.
Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường mọi hoạt động đều chịu mọi tác động của nhiều nhân tố khác nhau, không chỉ có những nhân tố nội tại chủ quan mà còn bị chi phối rất nhiều bởi các nhân tố khách quan khác. Một doanh nghiệp không đủ sức kiểm soát và điều tiết nó mà phải tuân theo nó. Doanh nghiệp phải tìm hiểu và thích nghi, điều chỉnh các hoạt động của mình sao cho phù hợp với thị trường thì mới có thể hoạt động được.
Đối với một doanh nghiệp thương mại hoạt động trong khâu lưu thông của hàng hoá, công tác bán hàng không chỉ là đơn thuần việc bán hàng đi thu tiền về mà doanh nghiệp phải làm sao duy trì được doanh số bán ra và không ngừng nâng cao nó, tức là nâng cao uy tín của doanh nghiệp mình, song thị trường luôn có những biến động làm cho hoạt động bán cũng biến động theo. Những tác động khách quan cơ bản có thể chia các loại sau:
- Yếu tố kinh tế - xã hội: Mức thu nhập và đời sống của dân cư có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi tiêu dùng của dân cư, đời sống càng cao nhu cầu tiêu dùng càng lớn và càng kéo theo hoạt động bán hàng càng được phát triển.
- Yếu tố chính trị xã hội: Là yếu tố có tác động tầm vĩ mô lên thị trường, ví dụ các chính sách của Nhà nước về hạn chế hay khuyến khích xuất nhập khẩu, chính sách điều tiết giá đối với các mặt hàng thiết yếu... tác động lên quan hệ cung cầu, giá cả trên thị trường, mức độ cạnh tranh.
- Yếu tố văn hoá: Trình độ văn hoá, phong tục tập quán của dân cư cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bán hàng của doanh nghiệp.
Trong quá trình bán hàng, mọi biến động về lượng hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp đều phải được xem xét và nghiên cứu một cách cụ thể, một mặt tiếp tục phát huy những ưu thế của doanh nghiệp, mặt khác phải kịp thời thích ứng với những yếu tố khách quan bên ngoài. Nếu lượng hàng tiêu thụ bỗng nhiên giảm đi, sản phẩm hàng hoá mất uy tín thì có thể có sự phân bổ lại cơ cấu nhu cầu tiêu dùng hoặc do cạnh tranh trên thị trường. Nhận thức được rõ ràng chính xác được vấn đề giúp nhà quản lý đưa ra được các quyết định phù hợp với tình hình.
III/ NGHỆ THUẬT BÁN HÀNG:
1. Nghiên cứu tâm lý khách hàng:
Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng với vai trò là trung tâm trở thành đối tượng được các nhà kinh doanh coi trọng hàng đầu, vì thế phương châm của bán hàng là "khách hàng là thượng đế" hay "khách hàng luôn luôn đúng"... Hành vi của khách hàng là cơ sở hướng dẫn cho các hoạt động nghiệp vụ bán hàng. Cũng chính vì vậy hoạt động bán hàng được coi là hoạt động mang tính nghệ thuật tác động đến tâm lý người mua, nhằm đạt được mục tiêu là bán được nhiều hàng nhất.
Quá trình mua bán bao giờ cũng diễn ra trong mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân cụ thể: Người bán - Người mua. Người mua là những cá thể rất ngẫu nhiên, nhưng là những con người cụ thể, mỗi người có những đặc tính riêng, quan niệm riêng, động cơ mua hàng rất khác nhau.
Người bán hàng qua giao dịch trực tiếp với người mua, trước tiên quan sát đánh giá và lắng nghe khách hàng, qua đó tìm hiểu được nội tâm của khách hàng, đi sâu vào thế giới chủ quan của người mua hàng để từ đó có những tác động tâm lý phù hợp và đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất. Thông thường các khách hàng có xu hướng chia thành từng nhóm có các nhu cầu gần giống nhau, đặc tính tâm lý gần giống nhau. Việc nghiên cứu tâm lý của từng nhóm khách hàng qua đó đưa ra những biện pháp bán hàng, nhằm tác động vào tâm lý mỗi nhóm một cách phù hợp. Sử dụng các biện pháp hỗ trợ để thực hiện tốt công tác bán hàng.
2. Yêu cầu đối với người bán hàng:
Trong quá trình giao dịch với người mua hàng, người bán hàng chính là người đại diện cho doanh nghiệp. Hơn nữa trên thị trường có rất nhiều người bán hàng và vô số các loại hàng hoá khác nhau. Khách hàng sẽ quyết định lựa chọn người bán hàng nào, khách hàng không chỉ quan tâm ở hàng hoá, bao bì, dịch vụ mà còn quan sát nhanh người bán hàng về hình thức, cử chỉ, lời nói và thái độ đối với khách hàng. Nghề bán hàng là nghề còn được gọi là "làm dâu trăm họ" phải tiếp xúc, giao dịch với rất nhiều người khác nhau. Việc làm hài lòng mọi khách hàng là việc vô cùng khó khăn. Các yếu tố hình thức, cử chỉ, lời nói, thái độ tác động lên tâm lý khách hàng tạo mối thiện cảm và tin tưởng của khách đối với người bán hàng thông qua đó đến cả với khách hàng.
Yêu cầu người bán hàng phải có trình độ nhất định.
- Trình độ nghề nghiệp của người bán hàng thể hiện người bán hàng có thể trả lời chính xác những thông tin cần thiết về hàng hoá của mình, phải am hiểu về đặc điểm, công dụng của hàng hoá nhất là những loại hàng hoá có đặc tính kỹ thuật cao. Khách hàng có thể đặt ra rất nhiều những câu hỏi khác nhau và nhiệm vụ của người bán hàng là phải trả lời thoả đáng các câu hỏi đó. Không những thế người bán hàng nếu có thể cần phải đáp ứng tốt hơn những gì mà khách hàng yêu cầu, ví dụ có thể nói cho họ biết cách giữ gìn, bảo quản sản phẩm tốt nhất, cách sử dụng tốt nhất...
Người bán hàng phải có kiến thức nhất định về quản lý kinh tế. Yêu cầu đối với người bán hàng là:
+ Kiến thức chính trị tư tưởng
+ Kiến thức kinh tế
+ Kiến thức pháp lý
+ Kiến thức tâm lý
+ Kiến thức kỹ thuật công nghệ
+ Kiến thức về hàng hoá và cách sử dụng
+ Khả năng tư duy
+ Khả năng dẫn chuyển
+ Khả năng thuyết phục
+ Khả năng gây ấn tượng
+ Khả năng quan sát
+ Khả năng tập trung tư tưởng.
+ Khả năng trình bày.
Tất cả các yêu cầu trên là cần thiết quan trọng. Kiến thức chuyên môn giúp ích trước hết cho người bán hàng tạo điều kiện cho người bán hàng hoạt động một cách tự tin, chính xác, tránh được các tình uống lúng túng khó xử. Đối với người mua hàng giúp họ tiết kiệm thời gian tìm hiểu hàng hoá.
Để thực hiện công việc và tránh những thiếu sót trong bán hàng, người bán hàng phải luôn luôn tự đặt cho mình những câu hỏi về hàng hoá và tìm cách trả lời chẳng hạn như những câu hỏi sau:
- Mặt hàng mình đang bán có ưu nhược điểm gì?
- Những yếu tố chính nào khách hàng thường quan tâm.
- Để người tiêu dùng sử dụng tốt món hàng cần những tiêu đề và điều kiện gì.
- Những nhân tố nào làm tăng thiếu sót và hạn chế của hàng hoá, cách khắc phục.
- Mặt hàng mình bán có thể thay thế một phần hay hoàn toàn mặt hàng khác. Ngược lại, có những mặt hàng nào thay thế hoàn toàn mặt hàng mình bán.
- Khách hàng quan tâm nhiều nhất tới đặc điểm nào của hàng hoá, ít quan tâm hoặc không quan tâm tới đặc điểm nào.
- Hàng bán được trong thời gian nào và điều kiện như thế nào.
- Mỗi khách hàng mua khối lượng là bao nhiêu, mặt hàng được mua cùng mặt hàng của ta.
- Những yếu tố nào làm ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá. Làm thế nào để khách hàng hiểu được điều đó.
- Bao bì hàng hoá gây ấn tượng ra sao.
- Có thể dùng phương tiện và khả năng nào để trình bày cho khách hàng thấy rõ được ưu điểm của hàng hoá.
- Có thể đóng góp gì để cho mặt hàng tốt hơn, được khách hàng yêu thích hơn. Ở các doanh nghiệp, công tác bán hàng chủ yếu thuộc phạm vi trách nhiệm của phòng kinh doanh hoặc tiêu thụ. Các cán bộ ở đây phải thực hiện từ khâu nghiên cứu thị trường đến tổ chức bán hàng. Vì vậy cán bộ ở phòng này đặc biệt là người bán hàng phải là người có trình độ nhận thức xã hội cao. Người bán hàng phải nắm đuợc nhu cầu và biết cách giao dịch với khách hàng.
3. Sử dụng các kỹ thuật yểm trợ Marketing:
Kỹ thuật yểm trợ Marketing nhằm giúp đỡ các nhà kinh doanh tạo ra và phát triển nhận thức, sự hiểu biết và lòng ham muốn của khách hàng. Kỹ thuật yểm trợ này bao gồm quảng cáo, xúc tiến bán, nội dung cụ thể bao gồm từ quảng cáo đến chiêu hàng, chiêu khách, hội chợ. Việc sử dụng các kỹ thuật xúc tiến phải kết hợp với quảng cáo sẽ tạo ra được hiệu quả tốt - Kỹ thuật yểm trợ giúp các nhà kinh doanh kích thích tiêu thụ tổng khối lượng bán hàng. Đặc biệt cần đẩy mạnh công tác xúc tiến bán hàng trong trường hợp sau:
- Các sản phẩm cùng loại nó có sự giống nhau về chất lượng, tính năng và giá cả. Người bán phải làm cho khách hàng chú ý đến sản phẩm của mình.
- Khối lượng bán phụ thuộc vào mức độ quen thuộc của khách hàng và sự ưa thích của nhãn hiệu. Trong các trường hợp này người bán hàng phải làm cho khách hàng chú ý tới sản phẩm của mình càng nhiều càng tốt và dẫn đến lôi kéo họ về phía mình, ngăn cách họ với những người bán hàng cùng loại khác.
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY DỆT LEN MÙA ĐÔNG
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÔNG TY DỆT LEN MÙA ĐÔNG - CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO.
1. Quá trình thành lập:
Tiền thân của Công ty dệt len mùa đông là một công ty hợp doanh của một nhà tư sản hiến cho Nhà nước. Đến năm 1970 được đổi thành nhà máy dệt len mùa đông và đến ngày 8/4/1993 lại được đổi tên thành Công ty dệt len mùa đông, trực thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội.
Hơn 30 năm qua (1961-1997), Công ty dệt len mùa đông đã trưởng thành và lớn mạnh không ngừng, luôn hoàn thành các nhiệm vụ của Nhà nước giao cho, cùng với các nhà máy dệt khác Công ty đã góp phần tạo thêm sản phẩm cho đất nước, đưa ngành công nghiệp của nước ta tiến thêm một bước.
Bước sang nền kinh tế thị trường do nhận thấy được các mặt yếu kém nên ban lãnh đạo Công ty đã kịp thời đổi mới. Công ty đã mở rộng thêm mặt bằng sản xuất, trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại, cải tiến điều kiện làm việc cho người lao động và tìm thêm được nhiều khách hàng mới, mở rộng thị trường tiêu thụ cho Công ty. Với những cố gắng đó Công ty đã đứng vững trong nền kinh tế thị trường và từng bước khẳng định mình.
Sản phẩm của Công ty đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Về sản phẩm nội địa của Công ty được bán rộng khắp toàn miền Bắc và rất có uy tín về chất lượng. Còn về sản phẩm xuất khẩu công ty ngày càng ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu với số lượng lớn và nhiều chủng loại. Các bạn hàng nước ngoài thường xuyên như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông...
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
Công ty dệt len mùa đông là một doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước giao vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và giao các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Hoạt động sản xuất của công ty là sản xuất ra sợi len Aerylie và dệt áo len cho mọi lứa tuổi, để phục vụ cho nhân dân ở toàn miền Bắc và làm hàng xuất khẩu xuất ra nước ngoài thông qua các hợp đồng gia công xuất khẩu.
Như mọi doanh nghiệp hạch toán kinh doanh khác Công ty phải tự hạch toán kinh doanh đảm bảo kinh doanh có lãi, bảo toàn vốn, thực hiện tốt các chỉ tiêu trên giao và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ:
A. Các phòng ban chức năng:
Đứng đầu công ty là Ban Giám đốc lãnh đạo trực tiếp đến từng phân xưởng. Giúp việc giám đốc có các phòng chức năng.
Ban giám đốc gồm có 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
+ Giám đốc Công ty là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ bộ máy quảnlý.
+ Hai phó giám đốc Công ty có trách nhiệm giúp việc cho giám đốc chỉ đạo các bộ phận được giám đốc uỷ quyền.
Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng:
+ Chấp hành và kiểm tra việc chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch các chế độ chính sách của Nhà nước, các nội qui của Công ty và các chỉ thị mệnh lệnh của Ban giám đốc.
+ Phục vụ đắc lực cho công việc sản xuất kinh doanh của Công ty.
+ Đề xuất với Ban giám đốc những chủ trương biện pháp, giải quyết những khó khăn gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh và tăng cường các công tác quản lý công ty.
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý và sản xuất (sơ đồ 1)
1. Phòng Hành chính: Đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất trong văn phòng công ty quản lý cơ sở vật chất nhà xưởng và sửa chữa nhỏ nhà xưởng, làm các công việc về hành chính như tiếp khách, văn thư, đánh máy, phục vụ.
2. Phòng Kế hoạch: là phòng nghiệp vụ thực hiện chức năng kế hoạch hoá các hoạt động kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của giám đốc tham mưu giúp giám đốc xác định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch và phương án có nhiệm vụ căn cứ vào kế hoạch cơ bản về các chỉ tiêu đề ra.
- Phòng Kế hoạch có nhiệm vụ căn cứ vào kế hoạch cơ bản về các chỉ tiêu kế hoạch được giao lập kế hoạch tháng, quý, năm trình giám đốc. Căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch đã được phê duyệt thay mặt giám đốc điều hành việc thực hiện kế hoạch đảm bảo về mặt thời và hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
- Định kỳ tháng, quý, năm báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch khi cần thiết, lập sửa đổi bổ xung kế hoạch kịp thời trình với giám đốc phê duyệt để thực hiện.
- Ký và theo dõi đôn đốc thực hiện, thanh toán các hợp đồng nội địa và các hợp đồng xuất khẩu.
- Có kế hoạch sản xuất kinh doanh thật cụ thể, duy trì điều hành có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi phụ trách, hỗ trợ mạnh cho sản xuất kinh doanh của Công ty.
3. Phòng Tài vụ: Là phòng chuyên môn nghiệp vụ, có chức năng quản lý tài sản, quản lý sản xuất kinh doanh bằng tiền, quản lý công tác thu chi tổng hợp và hệ thống hoá các số liệu hạch toán.
- Tham mưu giúp Giám đốc thực hiện các nghiệp vụ kế toán tài chính, giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đúng nguyên tắc, đúng chế độ quản lý kinh tế tài chính do Nhà nước qui định. Phát hiện ngăn ngừa các biểu hiện hoạt động vi phạm các chế độ chính sách quản lý tài chính của Nhà nước.
- Phòng Tài vụ có nhiệm vụ lập kế hoạch tài chính hàng năm, hàng quý, tổ chức thực hiện điều chỉnh kịp thời đáp ứng yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện đúng các biểu mẫu về kế toán - thống kê tài chính do Nhà nước qui định. Hệ thống sổ sách số liệu báo cáo phải đầy đủ chính xác rõ ràng. Hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành, phí lưu thông và các khoản thanh toán ngân sách theo đúng chế độ của Nhà nước.
- Theo dõi và nắm các nguồn vốn, đề xuất các biện pháp phát huy và tăng cường vòng quay của vốn nhằm đạt hiệu quả cao. Nắm vững giá trị các loại tài sản, theo dõi và tính khấu hao các tài sản cố định.
- Kiểm tra và kiểm soát các chứng từ thanh toán với khách hàng. Thanh toán kịp thời đúng chế độ các khoản chi tiêu, theo dõi và thu hồi công nợ không để khách hàng chiếm dụng vốn.
- Thông qua hệ thống sổ sách kế toán, kiểm tra hoá đơn, chứng từ xuất nhập và thanh toán, nắm chắc số lượng hàng hoá vật tư biến động và tồn kho. Định kỳ đối chiếu hàng hoá trên sổ sách chứng từ với tồn kho thực tế, phát hiện những bất hợp lý trong kinh doanh, những tổn thất mất mát không hợp lý giám đốc đề ra những biện pháp xử lý thích hợp
4. Phòng kinh doanh
- Làm công tác thủ tục phục vụ xuất nhập khẩu trực tiếp, gián tiếp nhập khẩu , thuê tàu vận chuyển.
- Giúp giám đốc trong lĩnh vực lập kế hoạch vật tư , nguyên liệu phụ liệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0316.doc