Phần I 2
Ngoại thương và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế 2
I-/ Nguồn gốc ra đời và lợi thế cạnh tranh của hoạt động ngoại thương. 2
1-/ Nguồn gốc ra đời của hoạt động ngoại thương. 2
2-/ Lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế 3
Bảng 1: Chi phí sản xuất 4
Bảng 2: Chi phí so sánh 4
II-/ Kinh nghiệm của một số nước trong việc lựa chọn chiến lược ngoại thương 6
1-/ Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô 6
2-/ Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu (chiến lược hướng nội) 10
3-/ Chiến lược hướng ra thị trường quốc tế (chiến lược hướng ngoại) 13
4-/ Chiến lược phát triển tổng hợp-chiến lược hữu hiệu nhất với phát triển kinh tế 16
III-/ Vai trò của ngoại thương với phát triển kinh tế: 18
1-/ Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH: 18
2-/ Nâng cao hiệu quả của nền kinh tế mở qua việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. 20
3-/ Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tế cho các tầng lớp dân cư. 20
Phần II 22
Thực trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam - những thành tựu và hạn chế 22
I-/ Tình hình hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn trước 1986. 22
1-/ Ngoại thương thời kỳ đất nước chia cắt 1955 -1975. 22
2-/ Ngoại thương thời kỳ sau thống nhất 1976 -1985. 23
II-/ Hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay. 26
1-/ Thời kỳ 1986- 1990. 27
2-/ Thời kỳ từ 1991 đến nay. 29
Phần III 34
Lựa chọn chính sách và một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương Việt Nam 34
I-/ Xu thế và định hướng cho hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. 34
1-/ Xu thế phát triển của ngoại thương. 34
2-/ Định hướng của ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. 35
II-/ Lựa chọn chính sách cho hoạt động ngoại thương Việt Nam. 36
1-/ Chính sách thị trường. 36
2-/ Chính sách sản phẩm. 38
3-/ Chính sách thuế xuất nhập khẩu. 40
4-/ Chính sách tỷ giá: 41
III-/ Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương Việt Nam. 42
1-/ Giải pháp cho sản phẩm xuất khẩu. 42
51 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 8721 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam - Những thành tựu và hạn chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thể hiện qua 3 tác động cơ bản sau của ngoại thương:
1-/ Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH:
Những nhân tố cơ bản tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và các quan hệ hợp tác quốc tế về đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính ngoại thương là chủ thể tác động trực tiếp , sâu sắc tới những nhân tố này, từ đó thúc đẩy các nhân tó phát triển không ngừng và kết quả là cơ cấu kinh tế cũng không ngừng được chuyển dịch, tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động, phù hợp và ngày càng hoàn thiện theo hướng CNH, HĐH.
- Sự tác động của ngoại thương đến phát triển lực lượng sản xuất được thể hiện qua việc chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội càng cao, chuyên môn hoá càng sâu sắc, cũng có nghĩa là lực lượng sản xuất càng phát triển.
Ngoại thương với quy luật chi phối là lợi thế cạnh tranh đã đã hướng các hoạt động sản xuất đi vào chuyên sâu trong việc sản xuất ra các hàng hoá, dịch vụ. Các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao nhất sẽ được các nước tập trung sản xuất, với các sản phẩm bất lợi họ sẵn sàng nhập khẩu từ các nước khác và dành việc sản xuất chúng cho những nước có điều kiện thuận lợi hơn. Sự phân công lao động quốc tế từ đâu nảy sinh và không ngừng tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại.
Như đã đề cập, phân công lao động quốc tế là điều kiện tiên quyết để phát triển ngoại thương. Điều này đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất đang diễn ra đồng bộ ở tất cả các quốc gia và hầu hết các lĩnh vực khác nhau của quan hệ kinh tế quốc tế. Thông qua cầu nối thương mại quốc tế, các nước dù ở trình độ phát triển khác nhau đều có thể thực hiện sự hợp tác, phân công lao động quốc tế chặt chẽ theo hướng chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của hoạt động sản xuất kinh doanh về cùng một loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm, nhiều chi tiết sản phẩm khác nhau... từ đó, các ngành, lĩnh vực sản xuất của từng nước không ngừng được cơ cấu lại theo yêu cầu của chuyên môn hoá và dần tiêns tới một cơ cấu ngày càng hiện đại.
- Với vấn đề hợp tác quốc tế về đầu tư và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, ngoại thương cũng có quan hệ chặt chẽ, là yếu tố chi phối quan hệ hợp tác này. Thông thường, bất kỳ một nước nào trước khi quyết định cần hợp tác về đầu tư với ai, trong lĩnh vực kinh doanh nào đều phải căn cứ vào các mục tiêu đặt ra trước đó, trong đó có xuất khẩu và nhập khẩu là một mục tiêu rất quan trọng thường được các bên đối tác đầu tư đặc biệt quan tâm. Quá trình này thường chỉ diễn ra một chiều từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển và đang phát triển. Những ngành và lĩnh vực nào trong nước được đầu tư nước ngoài chú ý sẽ ngày càng phát triển theo hướng HĐH và không ngừng chuyển dịch trong cơ cấu của nền kinh tế.
- Đối với hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ, như đã biết, đó là các kinh doanh chuyên môn hoá và hợp tác hoá ở tầm quốc tế trong lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu khoa học và trao đổi công nghệ. Có nhiều phương thức, con đường khác nhau để thực hiện hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó thông qua ngoại thương với các hoạt động xuất - nhập khẩu là một trong những phương thức, con đường mang lại hiệu quả cao trong việc chuyển giao giữa các nước với nhau về các kết quả, thành tựu phát triển khoa học - công nghệ. Có thể nói sự tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ có tác động trực tiếp và thể hiện rõ nét nhất trong việc cấu trúc lại nền ktcủa một nước theo hướn CNH, HĐH.
2-/ Nâng cao hiệu quả của nền kinh tế mở qua việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Cán cân thanh toán quốc tế là bản quyết toán tổng hợp toàn bộ các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của một nước. Cấu thành cán cân thanh toán quốc tế bao gồm nhiều bộ phận, trong đó cán cân ngoại thương ( hay còn gọi là cán cân mậu dịch hay cán cân hữu hình) là một bộ phận cấu thành quá trình nhất. Trong cán cân ngoại thương thì cán cân thanh toán vãng lai (do cán cân dịch vụ và cán cân chuyển tiền đơn phương hợp thành) lại giữ vị trí quan trọng nhất. Sự dư thừa hay thiếu hụt của nó có tác động trực tiếp đến cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối của một nước, nghĩa là trực tiếp ảnh hưởng đến tỷ giá của các ngoại tệ so với đồng nội tệ của nước đó. Như vậy, phát triển hoạt động ngoại thương góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thông qua đó, nó điều tiết đến tỷ giá, lạm phát và vấn đề ổn định kinh tế vĩ môcủa một đất nước.
Song song với sự phát triển của hoạt động ngoại thương hữu hình, các hoạt động ngoại thương vô hình cũng không ngừng gia tăng, sôi động như: Du lịch quốc tế, GTVT quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế, dịch vụ kiều hối... Các hoạt động nảy không chỉ làm tăng hiệu quả của hoạt động ngoại thương mà nó còn những tác động tích cực thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác phát triển. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, nếu đạt được hiệu quả tốt, đến lượt mình lại tác động tích cực trở lại để ngoại thương tiếp tục phát triển tốt hơn và do đó sẽ tiến tới mục tiêu là tất cả các hoạt động kinh tế đối ngoại đều đạt đưọc hiệu quả ngày cang cao hơn trở thành động lực trực tiếp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
3-/ Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tế cho các tầng lớp dân cư.
Đây là những tác động tích cực tất yếu của ngoại thương đối với phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Rõ ràng, thông qua ngoại thương, các nước không chỉ có lợi về mặt ngoại tệ thu được qua hoạt động xuất nhập khẩu mà quan trọng hơn là phát triển sản xuất trong nước, tạo việc làm cho người lao động. Trong phát triển kinh tế, thất nghiệp bao giờ cũng là một vấn đề bức xúc đối với mỗi quốc gia. Thất nghiệp gia tăng sẽ tạo ra sức ép lớn không chỉ về mặt kinh tế mà cả mặt chính trị, ổn định xã hội. Bài toán thất nghiệp luôn được chính phủ các nước quan tâm tìm lời giải. Qua hoạt động ngoại thương, phần nào đã tháo gỡ được khó khăn này với việc phát triển sản xuất kinh doanh trong nước phục vụ xuất khẩu, phát triển các ngành nghề liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư quốc tế... Từ chỗ việc làm được giải quyết, thu nhập thực tế và mức sống của dân cư được nâng cao, sẽ tạo ra các khối vững chắc cho nền kinh tế phát triển trên cả 2 phương diện, kinh tế và xã hội.
Tóm lại, qua phần I này, chúng ta đã đi sâu tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản cho quá trình hình thành, phát triển ngoại thương, những chiến lược được đúc rút từ kinh nghiệm thực tiễn của các nước và thấy được vai trò của nó đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế. Tiếp sau đây bài viết sẽ đề cập đến thực trạng của hoạt động ngoại thương Việt Nam những năm qua, phân tích tác động của các biện pháp, chính sách cũng như các điều kiện khách quan chi phối đến hoạt động này, từ đó nhìn nhận rõ hơn những mặt được và chưa được của ngoại thương Việt Nam.
Phần II
Thực trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam -
những thành tựu và hạn chế
I-/ Tình hình hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn trước 1986.
Những năm trước thời kỳ đổi mới (tức trước khi có đại hội VI của Đảng 12/1986) trong tư duy kinh tế- chính trị của chúng ta do còn có nhiều nhận thức sai lầm, chưa đúng đắn, bên cạnh đó lại thêm các điều kiện lịch sử, điều kiện khách quan không thuận lợi đã làm cho ngoại thương Việt Nam giai đoạn này bị kìm hãm phát triển, yếu kém, hạn chế nhiều hơn là thành công. Ta có thể khái quát hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn này qua 2 thời kỳ: Thời kỳ 1955 - 1975 (Thời kỳ chia cắt đất nước) và thời kỳ 1976 - 1986 (Sau khi thống nhất).
1-/ Ngoại thương thời kỳ đất nước chia cắt 1955 -1975.
Thời kỳ này, nước ta bị chia cắt làm 2 miền: Miền Bắc đã được thống nhất và tiến lên theo con đường XHCN còn Miền Nam vẫn tạm thời nằm dưới ách thôngs trị của Mỹ nguỵ. Do vậy, tình hình hoạt động ngoại thương thời kỳ này có nhiều khác bbiệt giữa 2 miền.
Với miền Bắc, kinh tế sau chiến tranh bị tàn phá nặng nề nhưng vẫn phải nắm giữ nhiệm vụ quan trọng, là hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Với đòi hỏi của tình hình đất nước, ngoại thương đã được Nhà nước độc quyền nắm giữ. Đến năm 1955, Nhà nước nắm được 77% và đến năm 1975 đã nắm được 95% kim ngạch ngoại thương. Cũng trong thời gian này Đại hội III của đảng diễn ra năm 1960 và đề ra phương hướng phát triển kinh tế, trong đó nhấn mạnh “lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,...” do tình hình và sự chỉ đạo trên của Đảng và Nhà nước đã tác động đến hoạt động ngoại thương miền Bắc giai đoạn này: Về cơ cấu xuất nhập khẩu, do sản xuất thấp kém nên xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên như: Than, Apatít, Crôm, xi măng, thiếc, gỗ, hoa quả, chè,... và nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất (chiếm tới 75% giá trị hàng nhập khẩu) để thực hiện mục tiêu ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ tăng lên rất nhanh, từ 17% trong giai đoạn 1955 - 1960 lên 30% trong giai đoạn 1961 - 1965.
Với miền Nam, do nằm dưới ách thống trị của mỹ nguỵ, nên hoạt động ngoại thương thời kỳ này bị chi phối, phục vụ cho mục đích của chúng. Thương nghiệp của miền Nam là bộ phận trên trục hàng viện trợ của Mỹ. Hàng nhập khẩu chủ yếu là nhờ vào tiền viện trợ của Mỹ và chủ yếu là nhập khẩu của Mỹ với các loại lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cung cấp cho bộ máy đàn áp. Về xuất khẩu, chỉ có gạo và cao su (dưới dạng nguyên liệu) là đáng kể , nhưng cũng ngày càng giảm sút.
Nhìn chung, do điều kiện chiến tranh chi phối, nê hoạt động ngoại thương Việt Nam thời kỳ này còn hết sức nhỏ bé. Mặc dù ngay từ những năm 1960, đã có 44 nước ký kết quan hệ ngoại thương với Việt Nam nhưng, thực tế cả thời gian dài trước năm 1975 các hoạt động thương mại của Việt Nam với thế giới mới chỉ bó hẹp trong các nước khu vực I (Chính phủ nước XHCH). Xuất khẩu sang các nước này thương xuyên chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu từ các nước này cũng thường xuyên chiếm trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu.
2-/ Ngoại thương thời kỳ sau thống nhất 1976 -1985.
Từ những năm 1976, nước Việt Nam được thống nhất đã có thêm nhiều thuận lợi mới để phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương với bên ngoài. Nhưng do còn nhiều hạn chế, thậm chí sai lầm nghiêm trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nê hoạt động ngoại thương thời kỳ này vẫn còn yếu kém, chưa bứt lên được. Nhập siêu vẫn là đặc trưng cơ bản của cán cân ngoại thương suốt cả thời kỳ này.
Bảng 3: Xuất nhập khẩu theo 2 khu vực thời kỳ 1976 -1985
(đơn vị: triệu rúp - USD)
Năm
Khu vực I
Khu vực II
X.khẩu
N.khẩu
CC NT
X.khẩu
N.khẩu
CC NT
1976
132,9
557,5
-414,6
89,8
446,6
-356,8
1977
221,2
505,5
-284,3
101,3
712,9
-611,8
1978
246,7
518,2
-271,5
80,1
785,0
-704,9
1979
235,0
797,8
-562,8
85,5
728,3
-642,8
1980
225,0
455,1
-529,2
112,7
559,1
-446,4
1981
235,0
947,8
-712,2
164,6
434,4
-268,8
1982
337,1
1087,9
-750,8
189,5
384,3
-194,8
1983
381,3
1140,5
-579,2
235,2
386,2
-151,0
1984
407,9
1232,6
-824,7
241,7
512,4
-270,7
1985
425,8
1408,1
-982,3
272,7
449,3
-176,6
Nguồn: Số liệu thống kê 1976 -1985, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1991
Điều đáng kể nhất của ngoại thương Việt Nam thời kỳ này là đã tăng cường quan hệ kinh tế thương mại với các nước thuộc khu vực II (các nước TBCN và các nước đang phát triển) như Nhật Bản, Pháp, CH liên bang Đức, Thuỵ Điển, ấn Độ, Đài Loan.... Nhờ đó, tỷ trọng khu vực II trong tổng số kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên 39,1% năm 1985, trong đó nổi bật lên vai trò của Nhật Bản, đã là một trong 5 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ngoài các nước thuộc khu vực I. Đáng lưu ý, mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực I so với sang khu vực II tiếp tục tăng lên tuyệt đối song do về mặt tăng tương đối thì chênh lệch không đáng kể ( khu vực I tăng 3,2 lần, khu vựcII tăng 3,1 lần).
Nguyên nhân gây ra yếu kém của hoạt động ngoại thương nước ta thời kỳ này bao gồm cả chủ quan lẫn khách quan. Chủ quan là do Việt Nam chưa thoát khỏi cung cách làm ăn theo cơ chế cũ, do những hạn chế, những sai lầm của Chính phủ trong việc hoạch định đương lối và chính sách phát triển kinh tế ... dẫn đến giá cả tăng lên, lạm phát có nguy cơ ngày càng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, Việt Nam còn chịu nhiều bất lợi bởi các yếu tố bên ngoài (nguyên nhân khách quan) tác động, chi phối như: Phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh biên giới phía Tây nam và phía Bắc; Hệ thống XHCN đã và đang bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng kinh tế và chính trị, làm cho việc giúp đỡ của các nước (đặc biệt là Liên Xô) đối với Việt Nam bị hạn chế; thêm vào đó Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cấm vận kinh tế với nước ta, nên nhìn chung kinh tế đối ngoại, trong đó có ngoại thương vẫn chưa thể vươn mạnh lên được.
Sự yếu kém của ngoại thương Việt Nam thời kỳ này thể hiện rõ nhất ở chỗ các sản phẩm xuất khẩu vừa nhỏ bé về số lượng, vừa đơn điệu về cơ cấu chủng loại, chất lượng và bao bì. Chiếm trên 80% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu vẫn là các hàng nông lâm sản, tiểu thủ công, mỹ nghệ và khoáng sản, nghĩa là vẫn chủ yếu là những sản phẩm thô và sơ chế. Các sản phẩm của công nghiệp chế tạo, chế biến còn đơn giản và chiếm tỷ lệ thấp. Qua bảng 3 ta thấy, đặc trưng của thời kỳ 1976 - 1985 là nhập siêu, làm cho cán cân ngoại thương thâm hụt nghiêm trọng. Năm 1976, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 1226,8 triệu rúp - USD, thì thâm hụt cán cân ngoại thương lên đến 771,4 Triệu rúp - USD, tỷ lệ thâm hụt so với toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu là 62,88%; Năm 1985 kim ngạch xuất nhập khẩu 2555,9 triệu rúp - USD, thâm hụt cán cân ngoại thương là 1158, 9 triệu rúp - USD và tỷ lệ thâm hụt trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 45,34%.
Trong quan hệ xuất - nhập khẩu với 2 khu vực, khu vực I vẫn vhiếm tỷ trọng lớn trong thời kỳ này, tuy nhiên với khu vực II, tuy tỷ trọng còn thấp nhưng phản ánh những tín hiệu tốt hơn cho quan hệ ngoại thương Việt Nam. Với khu vực I, kim ngạch xuất nhập khẩu có gia tăng đều qua các năm nhưng theo chiều hướng xấu, đó là sự gia tăng tuyệt đối của kim ngạch nhập khẩu hơn rất nhiều so với kim ngạch xuất khẩu, còn với khu vực II kim ngạch xuất nhập khẩu cũng gia tăng nhưng phản ánh ở mức tăng lên của kim ngạch xuất khẩu, còng kim ngạch nhập khẩu tương đối ổn định qua các năm; Vì vậy, thâm hụt cán cân ngoại thương của khu vực này ngày càng giảm, từ chỗ thâm hụt 356,8 triệu rúp - USD năm 1976 xuống còn 176,6 triệu rúp - USD năm 1985.
Tóm chung lại ta thấy, ngoại thương Việt Nam giai đoạn trước 1986 còn rất nhỏ bé, hạn chế... Mặc dù rằng, những hạn chế này phần nào có cả những nguyên nhân khách quan gây ra, nhưng phần không nhỏ là bởi do đương lối, chính sách của Chính phủ Việt Nam còn nhiều vướng mắc, sai trái. Điều này lý giải tại sao sau 10 năm kể từ khi thống nhất đất nước (1976), mặc dù các điều kiện trong nước cũng như quốc tế đã có nhiều thuận lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế đối ngoại đặc biệt là ngoaị thương, nhưng hoạt động ngoại thương của nước ta vẫn còn lần chần, chưa có bước tiến nào đáng kể. Cho đến 1985 năm mà Việt Nam đạt được kim ngạch xuất khẩu cao nhất so với các năm trước đó nhưng cũng chỉ đến con số xấp xỉ 700 triệu rúp - USD. Nếu so với các nước khác, giá trị kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người của Việt Nam năm này là khoảng 12 rúp - USD, thuộc vào loại thấp nhất thế giới.
II-/ Hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay.
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra và nó được coi là mốc son đánh dấu những đổi mới trong đường lối, chính sách kinh tế, cũng như ngoại thương Việt Nam. Qua ĐH, chúng ta đã đánh giá, nhìn nhận ra những hạn chế của cơ chế cũ, thấy được tính bất hợp lý của nó so với việc phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hiện tại cũng như tương lai, và tiến tới kiên quyết chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá tập trung sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đặc biệt là đã thực hiện mở cửa rộng rãi nền kinh tế. Với nhận thức đó, kinh tế đối ngoại đã được coi là mũi nhọn của sự đổi mới. Lần đầu tiên các thuật ngữ “mở cửa nền kinh tế”, “đa dạng hoá kinh tế đối ngoại”, “ đa phương hoá thị trường”... không còn xa lạ, nó đã được đề cập đến trong các chủ chương, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Quan niệm cứng nhắc về “độc quyền ngoại thương” từng bước được xem xét lại. Đáng lưu ý, ngoại thương đặc biệt là các hoạt động sản xuất - kinh doanh, xuất khẩu đã được đề cao, coi đó là một trong 3 chương trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam (lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dung, sản xuất hàng xuất khẩu). Bên cạnh đó, tình hình khu vực và thế giới lại đang có những chuyển biến thuận lợi đối với cơ chế mở của ta, đó là sự bùng nổ của xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hóa, đối đầu quân sự đã được thay bằng hợp tác kinh tế, cách mạng khoa học kyc thuật diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh vực. Với những thuận tiện trên, kinh tế đối ngoại, trong đó có ngoại thương, đã có được động lực, thời cơ để phát huy sức mạnh của mình, làm cho hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn này chuyển biến, bước đi quan trọng , góp phần không nhỏ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Ta có thể đi xem xưt tình hình hoạt động ngoại thương qua từng thời kỳ cụ thể .
1-/ Thời kỳ 1986- 1990.
Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tháng 12/1987 và có hiệu lực từ tháng 1/1988 là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng thực sự sang chính sách mở cửa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nghị định 64/HĐBT ngày 16/6/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về chế độ tổ chức , quản lý kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu là cơ sở của chính sách thương mại thời kỳ này, về cơ bản đã thể hiện được bước ngoặt quan trọng đầu tiên của sự lơi lỏng cơ chế quản lý ngoại thương theo tinh thần đã nói trên đây. Ngoài ra, các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Du lịch, kiều hối, dịch vụ tàu biển, hàng không... đều được Chính phủ Việt Nam coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Điều này đã tác động tích cực tới hoạt động ngoại thương, thể hiện:
Bảng 4: Động thái chu chuyển của kim ngạch ngoại thương Việt Nam 1986 - 1990.
Năm
KNXNK
Triệu R-USD
KNXK (chia ra)
KNNK (chia ra)
Triệu
R-USD
Trong đó : triệu USD
Triệu
R-USD
Trong đó : triệu USD
1986
2944,2
789,1
350,1
2155,1
509,1
1987
3309,3
854,2
363,2
2455,1
523,7
1988
3759,1
1038,4
447,7
2756,7
804,3
1989
4511,8
1946,0
1138,2
2565,8
879,4
1990
5156,4
2404,0
1352,2
2752,4
1372,5
Nguồn: Số liệu 1986 - 1990. Niên giám thống kê 1994, Nxb Thống kê, Hà nội, 1995.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu dã có sự gia tăng đáng kể, từ 2944,2 triệu R-USD năm 1986, đến năm 1990 con số này là 5156,4 Triệu R-USD, tốc đọ tăng cả thời kỳ 1986 -1990 là 75,14%, trung bình đạt 18,78%/năm. Đây là tốc đọ tăng bình quân cao nhất tính cho đến thời điểm này. Mặt khác, đáng lưu ý là có sự chuyển biến tích cực trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu vẫn giữ ở mức tương đối ổn định. Điều này phản ánh những tác động tích cực từ chính sách của Chính phủ đối với hoạt động xuất khẩu, Đến năm 1986, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt 789,1 triệu R-USD thì đến năm 1990 đã len tới 2404 triệu R-USD, tốc đọ tăng cả thời kỳ 1986 - 1990 là 2,05 lần, trung bình hàng năm tăng 51,16% riêng năm 1989 so với năm 1988 tăng 75,3% (gần bằng mức tăng của cả 15 năm từ 1960 đến 1975). Năm 1990, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt xấp xỉ 2,5 tỷ R-USD.
Chính vì sự tăng đột biến của kim ngạch xuất khẩu và sự ổn định của kim ngạch nhập khẩu nên khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng được được rút ngắn lại, từ tỷ lệ 1/7 giai đoạn 1960 - 1975 xuống 1/2,7 năm 1986 và đến năm 1990 chỉ còn chênh lệch với tỷ lệ không đáng kể 1/1,14 (kim ngạch xuất khẩu 2404 triệu R-USD; kim ngạch nhập khẩu 2752,5 triệu R-USD).
Trong những năm này, ngoài việc tiếp tục duy trì quan hệ thương mại với các nước khu vực I, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thuộc khu vực II ngày càng được mở rộng. Xuất khẩu sang khu vực này trong 5 năm (1986-1990) đã đạt 3,5 tỷ USD gấp 3,1 lần so với 5 năm trước đó 1981-1985. Số lượng nhập khẩu tương ứng với khoảng thời gian trên cũng diễn biến theo xu hướng ngày càng tăng: Giai đoạn 1986 -1990 là 3,8 tỷ USD gấp 1,6 lần so cới 2,1 tỷ USD của giai đoạn 1981-1985 (xem bảng 5). Trong đó, riêng 2 năm 1989-1990 thể hiện sự đột phá trong quan hệ thương mại với các nước khu vực II này.
Bảng 5: Xuất nhập khẩu theo khu vực II thời kỳ 1981 - 1990
Năm
Xuất khẩu
(triệu USD)
Nhập khẩu
(triệu USD )
Cán cân
ngoại thương
1981 -1985
1104,7
2166,6
-1061,9
1986 -1990
3506,4
3087,0
-300,6
1989 - 1990
2308,3
2081,7
+2266,6
Nguồn: Số liêu thống kê 1981 - 1990, Nxb Thống kê, HN, 1991
Tuy nhiên, trong thời kỳ này, khi công cuộc đổi mới nền kinh tế đã gặt hái được một số thành công bước đầu thì Việt Nam lại phải đương đaàu với những khoa khăn, thử thách mới:
- Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu trong những năm này đã làm cho Việt Nam không những mất hẳn chỗ dựa về nguồn viện trợ vốn, nguồn cung cấp các vật tư chiến lược,... mà còn gây ra những hẫng hụt do việc đột ngột bị mất đi một thị trường lớn tiêu thụ nhiều loại hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Chỉ riêng việc chấm dứt viện trợ của Liên Xô là hàng năm Việt Nam mất đi gần 1 tỷ USD. Ngoài ra, thị trường Liên Xô tan rã đã gây ra đảo lộn lớn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam (xuất khẩu sang Liên Xô với các mật hàng truèn thống chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta hàng năm)
Việc cho phép “bung ra” một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong điều kiện Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm quản lý, đã tạo kẽ cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, và nhiều tệ nạn khác phát sinh.
- Hàng loạt các cơ sở kinh tế làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ sau khi xoá bỏ bao cấp đã không còn chỗ dựa, đổ vỡ hàng loạt, từ đó nảy sinh những khó khăn phức tạp, đó là hàng vạn người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp, dời sống gặp rất nhiều bấp bênh.
- Bên cạnh đó, các thế lực thù địch với nước ta đã lợi dụng tình hình, không ngừng công kích, chống phá công cuộc đổi mới của đất nước
2-/ Thời kỳ từ 1991 đến nay.
Tình hình trên đây đòi hỏi đường lối phát triển kinh tế cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa, sao cho phù hợp với xu thế thời đại, nhưng lại không đi chệch các định hướng XHCN ở Việt Nam. Kế thừa và phát huy các quan điểm đổi mới của đại hội VI, Đại hội VII tháng 6/1991 của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, trong đó, với tư tưởng chỉ đạo “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và “mở cửa hoạt động kinh tế đối ngoại đối với tất cả các nước ở tất cả các khu vực trên thế giới”. Chính phủ Việt Nam không ngừng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách kinh tế đối ngoại theo hướng “ đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại”. Trong lĩnh vực ngoại thương, để tiến “tới tự do hoá thương mại” , nhiều văn bản, chế độ, chính sách mới nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đã được Chính phủ ban hành. Nghị định 114/HĐBT ngày 7/4/1992 của hội đồng bộ trưởng về quản lí Nhà nước đối với hoạt động xuất - nhập khẩu là một dẫn chững điển hình, đánh dấu bước chuyển từ mô hình Nhà nước độc quyền ngoại thương sang tự do hoá thương mại. Cho đến năm 1994, trước những chuyển biến kinh tế xuất khẩu trong nước và quốc tế, Chính phủ ban hành nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu nhằm bổ sung, sửa đổi những khiếm khuyết của nghị định 114/HĐBT trước đó. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có những văn bản, quy định hướng dẫn cụ thể như quy định số 296/TMDL/XNK ngày 9/4/1992 của Bộ Thương mại và Du lịch về cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu,... nhằm nâng cao hơn tính sát thực đối với hoạt động ngoại thương.
Nhờ kiên trì sự nghiệp đổi mới theo nhiều giải pháp tích cực khác nhau, Chính phủ đã lái con thuyền kinh tế Việt Nam vượt qua được cơn sóng gió và đi dần vào thế ổn định, đặc biệt là thúc đẩy hoạt động ngoại thương đạt được những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế nói chung của đất nước.
Bảng 6: Động thái chu chuyển của kim ngạch ngoại thương Việt Nam 1991-1995
Năm
KNXNK
Triệu R-USD
KNXK (chia ra)
KNNK (chia ra)
Triệu
R-USD
Trong đó : triệu USD
Triệu
R-USD
Trong đó : triệu USD
1991
4425,2
2087,1
2009,8
2338,1
2049,0
1992
5121,4
2580,7
2552,4
2540,7
2540,3
1993
6909,2
2985,2
2952,0
3924,0
3924,0
1994
8600,0
3600,0
3571,0
5000,0
5000,0
1995
12.800,0
5300,0
5300,0
7500,0
7500,0
Nguồn: - Số liệu 1991- 1994. Niên giám thống kê 1994, NXB Thống kê, HN, 1995
- Số liệu 1995: Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá IX, 3/1996.
Qua bảng 6 ta thấy, nhìn chung kế hoạch 5 năm đã được Quốc hội đề ra là 12 - 15 USD, bình quân hàng n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0102.doc