Thực trạng huy động vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua

 

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 2

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG 2

1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài 2

2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 2

2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh 2

2.2. Doanh nghiệp liên doanh 3

2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 3

3. Những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI 4

II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ (CỦA NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ) 6

1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI 6

1.1. Là nguồn hỗ trợ cho phát triển 6

1.2. Chuyển giao công nghệ 7

1.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 8

1.4. Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế 9

1.5. Một số tác động khác 9

2. Những ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài 10

2.1. Chuyển giao công nghệ 10

2.2. Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư 12

2.3. Chi phí cho thu hểt FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp 12

2.4. Những mặt trái khác 13

PHẦN 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 15

I. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI 15

1. Một số dự án và số vốn đầu tư 15

2. Về cơ cấu vốn đầu tư 17

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI 20

1. Những thành tựu, nguyên nhân 20

2. Những hạn chế, nguyên nhân 23

3. Những vướng mắc, trở ngại 26

3.1. Sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI của các nước của các khu vực 26

3.2. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém 26

3.3. Môi trường hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập 28

PHẦN 3: NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN FDI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2003 - 2005 30

I. PHƯƠNG HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2003 - 2005 30

II. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2003 - 2005 31

1. Cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam 31

2. Ổn định kinh tế vĩ mô 34

3. Phát triển nguồn nhân lực để nâng cao khả năng tiếp nhận vốn đầu tư 35

KẾT LUẬN 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO 38

 

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1759 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng huy động vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty xuyên quóc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nươc ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tuu trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái của người khác. Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chòng phát triển công nghệ nội đại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia. 2.3. Chi phí cho thu hểt FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp Một là: Chi phí của việc thu hút FDI Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường. Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn. Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn yếu, hoặc các chính sách của nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà đầu tư có thể lợi dụng được. Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốclá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng vv... 2.4. Những mặt trái khác Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt. Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende ở Chile bị giật dây lật đổ năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công ty xuyên quốc gia ITT(công ty viễn thông và điện tín quóc tế) và chính phủ Mỹ cam thiệp công việc nội bộ của Chile. Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng,giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây ra mất ổn định về chính trị. Hoặc FDI cũng có thẻ gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những người dân bản xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có thể phản bội Tổ Quốc. Các tệ nãnã hội cũng có thể tăng cường với FDI như mại dâm, nghiện hút.... Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có những chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. PHẦN 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Hiện nay, xu hướng toàn cầu khu vực nền kinh tế đang diễn ra trên khắp thế giới.Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung đó. Ngày nay có nhiều công ty, tổ chức quốc tế vào Việt Nam và nguồn vốn này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam.Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI. 1. Một số dự án và số vốn đầu tư Trong hơn 10 năm qua từ năm 1989 đến năm 2003 đã có 3660 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDT) đựợc cấp giấy phép đăng ký đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 44 tỷ USD trong đó có hơn 3000 dự án còn hiệu lực .Với tổng số vốn đăng ký trên 47 tỷ USD số vốn thục hiện .Đến nay đạt gần 30 tỷ USD bằng 44,5% số vốn đăng ký, trong đó số vốn nước ngoài là 18 tỷ USD theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, quá trình thu hút vốn và số dự án FDI qua các giai đoạn 1989-2003 đuợc thể hiện qua sơ đồ sau: Biểu 1: Tổng số vốn đầu tư và số dự án FDI vào Việt Nam qua các năm 1989-2003 Năm Số dự án Tổng vốn đầu tư (Triệu USD) Tổng số thực hiện (Triệu USD) 1989 70 539 130 1990 111 596 220 1991 155 1388 221 1992 193 2271 398 1993 272 2987 1106 1994 362 4071 1952 1995 404 6616 2652 1996 501 9212 2371 1997 479 5548 3250 1998 260 4827 1900 1999 280 2000 1500 2000 2500 36000 18000 2001 2600 36000 20000 2002 2720 41000 25000 2003 3000 47000 30000 Nguồn: Thông tin tài chính số 1/1/2002 kinh tế dự báo số 10+11/2002 và số 3/2003. Qua số liệu ta dễ dàng thấy tổng số dư án cũng như tổng số vốn FDT trong giai đoạn 1989-1996 tăng lên với tốc độ nhanh . Năm 1989 số lượng vốn thu hút mới chỉ đạt 539 triệu USD nhưng năm 1995 đã tăng lên 6616 triệu USD và năm 1996 đạt 9212 triệu USD . Mức tăng bình quân năm trong giai đoan này là 50% quy mô trung từ 3,5 triệu USD năm 1988 -1990 . Lên 7,5 triệu USD năm 1991, 7,6 triệu USD năm 1992... và 23,7 triệu USD năm 1996 . Điều đó cho thấy thời kỳ này việc thu hút FĐI vào rất hiệu quả. Một phần là do Việt Nam là thị trường mới hấp dẫn các nhà đầu tư, phần quan trọng khác là những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài của Nhà nước. Các khoản đầu tư này đã góp phần đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong ta và dịch chuyển cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm. Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm. Năm 1990 là 43 triệu USD, năm 1991 là 149 triệu USD , năm 1992 là 206 triệu USD, năm 1993 là 447 triệu USD, năm 1994 là 451 triệu USD, năm 1995 là 1397 triệu USD, năm 1996 là 1841 triệu USD. Mức tăng trong giai đoạn này là 30%. Tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thhu đạt 60% năm 1997 và bằng 44 % năm 1996. Còn trong giai đoạn 1996-2000 so với 5 năm trước thì tổng vốn mới đạt 20,73 tỷ USD, tăng 27,5 %. Tổng vốn còn hiệu lực đạt 18,03 tỷ USD, tăng 7,5 5. Vốn thực hiện đạt 21,87 Tỷ USD với tốc độ tăng bình quân 17%, xuất khẩu đạt 10,6 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân 15,4% mỗi năm, gấp 8,62 lần so với 5 năm trước. Nhập khẩu đạt 15,33 tỷ USD, gấp 6,4 lần so với 5 năm trước, tốc độ tăng bình quân là 11% một năm. Trong giai đọan này, hình thu hút vốn FDI đã cho thấy có phần giảm hơn so với giai đoạn trước (1996-1998). Đó là do ảnh hưởng của cuộc khhủnh hoảng tài chính khu vực, do cạnh tranh thu hút của Việt Nam. Nhưng từ năm 2000, đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi, đặc biệt trong hai tháng đầu năm 2001 đã có 35 dự án đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn đầu tư 71,3 triệu USD, tăng 16,7 t về số dự án và 16,1% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Như vậy cho thấy dấu hiệu của ta đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. 2. Về cơ cấu vốn đầu tư Đây là một vấn đề rất có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam. 2.1. Cơ cấu ngành nghề Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng mục tiêu đặt ra ban đầu đó là: Tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án và vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với 15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án vào 2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư trung bình một dự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với ngành khác. Trong đó nhỏ nhất là ngành thủy sản, chỉ khoảng 3 triệu USD mỗi dự án. Ngành công nghiệp và xây dựng có quy mô trung bình là 12 triệu USD một dự án. Trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các ngành du lịch, dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất với hơn 25 triệu USD mỗi dự án. Tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng, cho thuê căn hộ. 2.2. Cơ cấu lãnh thổ Về cơ cấu lãnh thổ, cho thấy vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ưu thế vượt trội hơn về cơ sở hạ tầng, thuận lợi về giao thông đường thủy, bộ, hàng không, và sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo sức hấp dẫn FDI mạnh nhất: Chiếm 57% về số dự án (1378 dự án), chiếm 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực vốn đầu tư nước ngoài ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong cả nước, cố xu hướng tăng từ 48,5% (năm 1996) lên 66,6% năm 1999, đặc biệt là giá trị xuất khẩu đạt 84%. Thành phố Hồ Chí Minh vẫn đứng đầu vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa- Vũng Tàu. Vùng kinh tế trọng điểm phía bắc (gần Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên) là vùng thu hút FDI thứ hai, với 439 dự án (chiếm 25t vốn đăng ký), 10,9 tỷ USD (chiếm 30%) và vốn thực hiện là 3,8 tỷ USD (chiếm 25%), tỷ lệ giải ngân đạt 45%. Tuy nhiên từ năm 1996, đóng góp của khu vực FDI vào vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài ở cả nước có xu hướng giảm, cả về tỷ trọng (từ 38% xuống còn 18%) và giá trị (từ 1,1 tỷ USD xuống còn 814,7 triệu USD). Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ( gần Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi) đứng thứ 3 về thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng so với hai vùng trên thì lại quá thấp, chiếm 3% về số dự án (72 dự án) và 5,5% về vốn đăng ký (1,978 tỷ USD). Nếu không tính đén dự án lọc dầu Dung Quất (1,3 tỷ USD ) thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn ít hơn nhiều so với vùng đồng bằng sông Cửu Long (113 dự án, với 1 tỷ USD vốn đăng ký). Miền núi, trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên là 2 trong số 6 vùng kinh tế có sức thu hút FDI kém nhất. Lý do chủ yếu là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, thiếu nguồn nhân lực, có trình độ và khả năng đầu tư sinh lời thấp, hoàn vốn chậm... nên các nhà đầu tư nước ngoài còn đắn đo, e ngại và trong khi chính sách khuyến khích của Nhà nước cũng chưa thực sự hấp dẫn. Qua số liệu trên cho thấy, cơ cấu FDI theo vùng lãnh thổ không những không thực hiện được mục tiêu của Việt Nam là làm xích lại gần nhau hơn về trình độ, cũng như tốc độ phát triển giữa các vùng mà tráI lạI còn làm dãn xa hơn. Do đó, trong những n tới nhà nước cần phảI đIều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư cho vùng lãnh thổ, từng bước phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế. Các đối tác đầu tư. Tính đến thời điểm hiện nay, đã có trên 80 công ty và tập đoàn thuộc 65 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam. Với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tập đoàn và các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực lớn về tài chính, công nghệ như Sony, Honda, Sanyo của Nhật Bản; Deawo, Goldstar, Samsung của Hàn Quốc; Motorota, Ford của Mỹ; Chingpon, Veodan của Đài Loan... Bên cạnh có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam. Điều này là thực sự cần thiết vì các doanh nghiệp này thường rất năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trường, hoạt động rất hiệu quả. Từ đó sẽ là vệ tinh cho các tập đoàn và công ty lớn. Chỉ tính riêng năm 2002, (từ ngày 01/01/2002) đầu tư vào Việt Nam theo chủ đầu tư là: Số TT Nước Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Vốn pháp định (triệu USD) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 Tổng số Đài Loan British Virgin Island Nhật Ôxtrâylia Hàn Quốc Pháp Mỹ Sing ga po Trung Quốc Hà Lan Bermuda Thái Lan Anh Bỉ Malaysia Canada Hồng Kông Irăc Bahamas Đức Liên bang Nga Thụy Sĩ Thụy ĐIển Đan mạch 76 11 15 2 22 5 6 9 10 2 1 3 2 1 7 2 6 1 1 2 1 1 1 1 188 145819 86590 55215 53500 46417 26292 19270 13455 10782 10450 10000 6600 5160 4995 3615 2900 2374 2200 1000 700 509 150 147 100 50733 69507 35988 27834 28600 36516 2543 13535 8663 8322 3152 15000 5550 2050 2520 2063 1620 1024 2200 500 380 0 50 147 100 257846 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư II. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Những thành tựu, nguyên nhân Để đánh giá những thành tựu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh các chỉ tiêu quan trọng là số vốn đăng ký của các dự án, cấp mới và tăng vốn, còn có các chỉ tiêu khác cũng không kém phần quan trọng. Đó là số vốn thực hiện và kết quả về các mặt khác của những dự án đã đi vào hoạt động như: doanh thu, xuất khẩu và nhập khẩu, nộp ngân sách, thu hút lao động... . Một là: Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, khắc phục tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đặc đIểm của nền kinh tế nước ta vào thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với rất nhiều những nhược đIểm của nó, trong đó tỷ lệ vốn đầu tư và tiết kiệm rất thấp, thậm chí còn âm. từ sau đổi mới thì tỷ lệ này tăng lên đáng kể, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu vốn đầu tư. Hơn nũa, chúng ta còn phải trả quá nhiều nợ nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức khá cao. Vì vậy FDI trở thành một nguồn vốn cần thiết cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà. Trong suốt thời kỳ 5 năm 1991-1995, tỷ trong đầu tư nước ngoài chiếm 22% và đóng góp khoảng 30% tổng số vốn đầu tư trong nước. Còn tính riêng 5 năm 1996-2000 so với 5 năm trước thì tổng số vốn đầu tư mới đạt khoảng 20,73% tỷ USD, tăng 27,5% tổng số vốn thực hiện đạt hơn 3260 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 44 tỷ USD. Đây là một con số đáng kể. Nguồn vốn FDI chủ yếu là ngoại tệ mạnh và máy móc thiết bị tương đối hiện đại nên đã đóng góp cơ sở vật chất mới, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng thêm năng lực sản xuất mới của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là khu vực công nghiệp. Hai là:Thông qua việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật, FDI đã góp phàn làm tăng năng suất lao động, khả năng sản xuất, kinh nghiệm quản lý ở một số ngành. Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất phát đIểm thấp về mặt công nghệ. Do đó chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Mặt khác, trình độ công nghệ thấp còn dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài, việc đổi mới nước ta đã thực hiện với quy mô và tốc độ cao hơn nhiều so với trước đó. Nước ta đã tiếp nhận được một số công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế như: thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, hóa chất, sản xuất công nghiệp, xây dựng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế, sản xuất lắp ghép ôtô, công nghệ điện tử, xe máy, sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng có chất lượng... Cụ thể trong các ngành dầu khí, nhiều thiết bị và công nghệ tiên tiến của các hãng nổi tiếng trên thế giới như Mobile của Mỹ, BHP Rertolium, CKA của úc và các công ty khác của Hà Lan, ý, Pháp, Anh, Nga, ấn độ đã được đưa vào Việt Nam để thực hiện thăm dò và khai thác dầu khí cũng như xây dựng các nhà máy lọc dầu. Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, các thiết bị hiện đại của công ty OCTVT đã được đưa vào nước ta để lắp đặt đài thông tin viễn thông đầu tiên. Phần lớn thiết bị đưa vào nước ta ìuy thuộc lọai trung bình trên thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn những thiết bị mà ta đang có. Như vậy, thông qua chuyển giao công nghệ FDI đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó mà nâng cao kim ngạch xuất khẩu, cải thiện môi trường lao động, đồng thời kích thích các doanh nghiệp trong nước và cả ở nước ngoài. Ba là: đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam ta và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, tăng thu ngân sách. Đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế nước ta. Hai khu vực này có tốc độ ta nhanh hơn khu vực nông nghiệp (năm 1997, công nghiệp tăng 13,2%, dịch vụ tăng 8,6%, nông nghiệp tăng 4,5%) thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Trong cơ cấu vùng lãnh thổ, đầu tư nước ngoài góp phần hình thành khu kinh tế trọng điểm của 3 miền Bắc-Trung-Nam, mỗi vùng là một khu vực kinh tế ta nhanh, có tác dụng đầu tư đối với kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, FDI đã góp phần chủ yếu đầy nhanh quá trình hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm, ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế. Khu vực FDI tạo ra trên 12% GDP, hơn 34% giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp, gần 7% nguồn thu ngân sách của cả nước, tăng thu thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào ngân sách. Bốn là: Bước đầu tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề khó khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến tháng 4 năm 2003 sử dụng 35 vạn lao động trực tiếp và hơn 10 vạn người phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời thu hút hơn 4000 cán bộ Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều cán bộ đã phát huy năng lực, vươn lên đảm nhiệm các công việc quan trọng, có uy tín đối với đối tác nước ngoài. Sự đóng góp này tuy nhỏ bé, song lại đáng quý trong điều kiện thiếu nhiều việc làm ở nước ta. Trên đây là những lợi ích ban đầu mà chúng ta thu được thông qua việc thu hút FDI. Tuy còn rất khiêm tốn nhưng nó cũng đã góp một phần quan trọng vào sụ nghiệp đổi mới của nước ta. Nhận thức được vị trí ngày càng to lớn của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Đảng và nhà nước ta đã đề ra chủ trương thu hút và sử dụng vốn bên ngoài. Để thực hiện chủ trương đó, nhà nước Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. từ tháng 12 năm 1987 đến nay đã bổ sung 3 lần nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi ban hành luật một số các văn pháp quy khác để cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành luật. Chính phủ Việt Nam đã cố gắng hết sức nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi như: ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựnh và cải tạo cơ sở hạ tầng, duy trì ta kinh tế cao... Đây là nhân tố chủ quan để đạt được những thành tựu trên mà khu vực có vốn đầu tư đã đóng góp. Mặt khác, nước ta có nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi dào, có vị trí thuận lợi cho việc buôn bán với các nước trong khu vực và trê thế giới mà nhất là quan hệ Việt-Mỹ hiện nay. Mỹ và Việt Nam đã ký hiệp định Thương mại song phương là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới dòng máu chuyển các nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam, là triển vọng lớn của việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong những n tới. Những nhân tố khách quan hữa hẹn sẽ mang lại cho các nhà đầu tư lợi nhuận cao của năm tới là nhân tố quyết định những thành công của FDI trong những năm qua. 2. Những hạn chế, nguyên nhân Bất kỳ một tấm huân trương nào cũng có mặt trái của nó, FDI của nước ta cũng có những vấn đề đáng phải suy nghĩ: Một là: Cơ cấu đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chưa hợp lý. Hơn 10 năm qua, các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mới chỉ tập trung vào một số địa bàn và những ngành có khả năng thu hút vốn nhanh, ít rủi ro và có cơ sở hạ tầng khá. Trong số hơn 2200 dự án đầu tư, có đến 58% tập trung vào vùng Đông Nam bộ (thành phố Hồ Chí Minh là nhiều nhất) với 52,5% tổng số vốn đầu tư và 54% tổng số vốn pháp định. Kể đến là đồng bằng Sông Hồng (chủ yếu là Hà Nội và Hải Phòng) với 23,6t tổng số dự án, 31,7t số vốn đầu tư và 30t vốn pháp định. Trong khi đó, 6 vùng còn lại, tuy còn nhiều tiềm năng nhưng lại rất ít dự án với số vốn 50 tiệu USD. tây Bắc có 7 dự án với 41 triệu USD, Đồng bằng Sông Cửu Long 128 dự án với số vốn 763,2 triệu USD ... Trên trường địa bàn, đầu tư trực tiếp nước ngoài lại tập trung vào một số nghành có khả năng sinh lợi nhanh. Hơn 10 năm qua đã có 189 dự ánnđầu tư vào khách sạn, nhà hàng với tổng số vốn gần 4 tỷ USD. 1077 dự án công nghiệp với tổng số vốn 11,5tỷ đồng, chủ yếu là công nghiệp lắp ráp, dệt da, bưu điện, ngân hàng, du lịch. Số dự án vào vùng sâUSD vùng xa, vùng nghèo và các vùng sảnn xuất nông lâm nghiệp lại quá ít. Ngành nông nghiệp chỉ có 233 dự án số vốn 165 triệu USD chiếm 10% số dự án và 3,8% số vốn đầu tư 3,9% vốn pháp định. Ngành thủy sản lại ít 83 dự án và 331 triệu USD vốn đầu tư. Hai là: Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều, một số dự án đã đi vào hoạt động 3-4 năm nhưng vẫn bị thua lỗ. Ví dụ hóa chất lỗ 32 triệu USD bằng 29% vốn đầu tư, sản xuất bànn ghế, gường tủ lỗ 4 triệu USD bằng 15,4% vốn đầu tư.. Nguyên nhân thua lỗ có nhiều có yếu tố đang cảnh báo là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định quá lớn do định giá máy móc thiết bị nước ngoài đựơc nhập vào để liên doanh so với giá thực tế. Mặt khác, có không ít các nhà đầu tư đã lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư và sơ hở trong chính sách và kiểm soát để buôn lậu, trốn thuế gây thiệt hại không nhỏ cho nnước tăng trưởng . Như vụ buôn lậu 1,2 triệu gói “CarewnA” của công ty trách nhiệm hữu hạn hàng hải Lizena như vụ nhà máy thuốc lá Lataba và nhà máy thuốc lá Khánh Hòa hợp tác sản xuất Marboro giả để xuất khẩu sang Hà Lan. Ba là: Đầu tư nước ngoà đã và đang tạo ra sự cạnh tranh găy gắt với các doanh nghiệp nội địa về lao động, kỹ thuật, về thị trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh mặt tích cực của cạnh tranh đó, cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước. Rõ nhất là sản xuất bia, bột giặt, dệt, da, lắp ráp điện tử, chế biến nông sản. Ví dụ công nghiệp điện tử liên doanh với nước ngoài tăng 35% lập tức khu vực trong nước giảm 5%. Tương tự cũng vậy với vải tăng 37,55% và tăng 1,3% thực phẩm, đồ uống 19,5% và 11,5%, bột giặt tăng 114,6% và tăng 5,7%.... Hơn thế nữa, các nhà đầu tư gây nhiều thiệt thòi cho người lao động. Mục đích của nhà đầu tư là nhằm thu được lợi nhuận càng cao càng tốt. Vì vậy họ luôn tìm cách khai thác lợi thế tương đối của nước chủ nhà. Một lợi thế lớn nhất của Việt Nam là gía lao động rẻ. Vì vậy nhà đầu tư gây nhiều thiệt thòi cho người lao động. ở một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài các nhà đầu tư đã tăng cường độ lao động, cắt xén điều kiện lao động thậm chí xúc phạm nhân phẩm của người lao động, mua chuộc hoặc phản ứng với các cán bộ công đoàn. Vì vậy đã có nhiều cuộc tranh chấp về lao động xảy ra ở các xí nghiệp này (14 xí nghiệp trong hơn 700 xí nghiệp đang hoạt động) Bốn là: Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất tuy có nhiều ưu điểm, nhưng sự phát triển trong hơn 10 năm qua. Mô hình này ở Việt Nam cũng xuất hiện những yếu tố hạn chế. Trước hết là xu hướng phát triển tràn lan không theo quy hoạch, chạy theo số lượng mà chưa tính đến yếu tố hiệu quả. Đến năm 1998, cả nước có 54 khu công nghiệp, khu chế xuất với tổng diện tích đất 9000 ha nhưng mới lấp đầy 23% diện tích, 77% còn lại vẫn còn chờ các chủ đầu tư. Cả nước có 17 khu công nghiệp chưa được thực hiện được dự án nào, nước ta còn nghèo nhưng Nhà nước đã dành hẳn hàng 100 triệu USD để xây dựng kết cấu hạ tầng của các khu công nghiệp để mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhưng diện tích cho thuê lại quá ít so với dự kiến và quy hoạch. Năm là: Vấn đề lớn nhất mà FDI gây ra trong những năm đó nữa là không ít những công nghệ và thiết bị lạc hậu đã bị thải đến 20%. Một cuộc khảo sát của nghành công nghiệp nhẹ ở 42 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 1993 cho biết 76% số máy mới nhập thuộc thế hệ những năm 1950- 1960 , 70% số máy nhập hết khấu hao, 50% là đò cũ tân trang lại. Riêng việc định giá cao hơn giá thực tế từ 15%- 20% của các ngành công nghiệp do nước ngoài đưa vào dưới hình thức liên doanh đã gây thiệt hại cho ta khoảng 50 triệu USD (Báo nhân dân ngày 6/10/1993). Điều tra của Liên Đoàn lao động Việt Nam công bố năm 1995 cho biết. Hệ thống CO2 ở liên doanh bia BGI do phát chế tạo năm 1979, đã lắp ở Camo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBDTU1052.doc
Tài liệu liên quan