Với những chức năng chủ yếu trên, tổ chức BHXH Việt Nam được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức thu bảo hiểm xã hội thông qua việc cấp phát sổ BHXH cho từng người lao động, quản lý bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH nhằm thực hiện chi trả lương hưu, các trợ cấp BHXH cho người lao động tham gia đóng BHXH trước mắt và lâu dài, tham gia quản lý nhà nước về sự nghiệp BHXH. Hoạt động BHXH vừa có thu vừa có chi với số lượng đối tượng quản lý trên 6triệu người, trong tương lai sẽ tăng lên hàng chục triệu lao động. Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động BHXH, nhưng bên cạnh đó BHXH Việt Nam còn phải hoạt động “Kinh doanh” bảo tồn vốn có hiệu quả.
56 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 880 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gày 23/11/1998 của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia hướng dẫn mở tài khoản và hạch toán kế toán tiền gửi vốn bổ sung XDCB của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
-Quyết toán vốn đầu tư XDCB của Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thực hiện đối với từng dự án, không thực hiện quyết toán vốn đầu tư XDCB theo năm kế hoạch như đối với các dự án đầu tư XDCB của các doanh nghiệp khác.
-Bảo hiểm xã hội Việt Nam là chủ quản đầu tư, có trách nhiệm quản lý về quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam và trụ sở làm việc của BHXH các tỉnh, BHXH các huyện trên cơ sở kế hoạch phân bổ các dự án đầu tư XDCB trong năm của Bộ kế hoạch đầu tư giành cho BHXH Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý một số nội dung: quy mô đầu tư của từng trụ sở BHXH tỉnh, BHXH huyện; quy trình, quy phạm đầu tư, chất lượng, hiệu quả đầu tư và tiến độ đầu tư; quản lý tổng mức đầu tư, tổng dự toán và phê duyệt quyết toán đầu tư. Ban quản lý dự án các tỉnh trực tiếp quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của BHXH các tỉnh và trụ sợ làm việc các huyện trên địa bàn tỉnh.
-Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu đầu tư của BHXH các tỉnh và nguồn vốn đầu tư được cân đối; Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư cho từng địa phương về số lượng công trình được đầu tư trong năm, tiến độ đầu tư và nguồn vốn được cân đối. Thực hiện thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán; hồ sơ mời thầu và kế hoạch đấu thầu; kết quả đấu thầu và quyết toán công trình hoàn thành do các Ban quản lý dự án trình phê duyệt.
Công tác giải ngân cấp vốn thực hiện thông qua hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển, được cụ thể bằng văn bản số 112/QHTĐT-KT ngày 23/11/1998 của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia hướng dẫn mở tài khoản và hạch toán kế toán tiền gửi vốn bổ sung XDCB của Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
Tại Quỹ Trung ương: Mở tài khoản tiền gửi cho BHXH Việt Nam để:
+Tiếp nhận nguồn vốn bổ sung XDCB của quỹ BHXH Việt Nam chuyển sang.
+Chuyển vốn cho các Chi nhánh Quỹ HTĐTQG trên cơ sở đề nghị của BHXH Việt Nam để các Cục, Chi Cục ĐTPT cấp phát cho các Ban quản lý dự án BHXH có đủ điều kiện thanh toán trên địa bàn.
+Khi tiếp nhận vốn của BHXH Việt nam, căn cứ vào giấy báo Có của ngân hàng phục vụ (nơi quỹ HTĐTQG TW mở tài khoản) về số vốn do BHXH Việt Nam chuyển sang ghi tăng nguồn tiền gửi của đơn vị, đồng thời lập giấy báo Có để gửi BHXH Việt Nam.
+Khi có nhu cầu chuyển tiền cho Ban quản lý dự án, BHXH Việt nam lập Uỷ nhiệm chi gửi đến Quỹ HTĐTQG yêu cầu chuyển tiền cho Ban quản lý dự án. Căn cứ Uỷ nhiệm chi do BHXH Việt namlập, Quỹ Trung ương làm thủ tục chuyển tiền qua ngân hàng và lập giấy báo Nợ gửi BHXH Việt Nam
Tại Chi nhánh Quỹ: mở tài khoản tiền gửi cho Ban quản lý dự án để:
+Tiếp nhận nguồn do Quỹ HTĐTQG Trung ưong chuyển xuống theo đề nghị của BHXH Việt nam
+Chuyển tiền cho Cục, Chi Cục ĐTPT thanh toán cho đối tượng được hưởng theo đề nghị của Ban Quản lý dự án.
+Sau khi làm thủ tục cho đơn vị mở tài khoản tiền gửi và thông báo số hiệu tài khoản này cho đơn vị BHXH, kế toán Chi nhánh Quỹ HTĐTQG tỉnh, thành phố mở sổ kế toán nguồn vốn và sử dụng vốn BHXH.
+Khi chi nhánh Quỹ HTĐTQG nhận được giấy báo Có của ngân hàng nơi Chi nhánh Quỹ mở tài khoản về số tiền Quỹ Trung ương chuyển về cho Ban quản lý dự án, chi nhánh Quỹ HTĐTQG lập giấy báo Có gửi Ban quản lý dự án.
+Khi nhận được Uỷ nhiệm chi do Ban quản lý dự án chuyển tới, kế toán Quỹ kiểm tra và làm thủ tục chuyển tiền theo đề nghị của Ban quản lý dự án và báo Nợ cho Ban quản lý dự án.
Văn bản số 839 HTPT/TDTW ngày 05/07/2000 của Quỹ Hỗ trợ phát triển hướng dẫn cấp phát, thanh quyết toán vốn đầu tư bổ sung của BHXH Việt nam cũng quy định rõ:
-Khi nhận đựoc thông báo kế hoạch đầu tư XDCB năm của BHXH Việt Nam gửi Ban quản lý dự án đồng gửi Chi nhánh Quỹ, Chi nhánh Quỹ khẩn trương liên hệ với chủ đầu tư đề nghị cung cấp các tài liệu ban đầu của dự án. Sau khi nhận đủ các tài liệu trên, Chi nhánh Quỹ kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tài liệu, hướng dẫn Chủ đàu tư mở tài khoản tiền gửi và tài khoản vốn cấp phát tại chi nhánh Quỹ theo đúng quy định.
-Khi chủ đầu tư đề nghị Chi nhánh Quỹ cấp phát vốn đầu tư để tạm ứng hoặc thanh toán cho các đơn vị tham gia thự hiện dự án, thanh toán các khoản chi phí chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, về nguyên tắc, chi nhánh Quỹ được vận dụng các quy định tại thông tư số 135/1999/TT-BTC ngày 19/11/1999 của Bộ tài chính hướng dẫn việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tuy nhiên, sau khi Chi nhánh Quỹ nhận đủ hồ sơ thanh toán (hoặc tạm ứng) hợp lệ do chủ đầu tư gửi đến, trong vòng 7 ngày làm việc, Chi nhánh Quỹ thực hiện kiểm tra hồ sơ và thanh toán (hoặc tạm ứng) cho chủ đầu tư và các nhà thầu theo đúng chế độ hiện hành
+Số vốn cấp phát thanh toán cho từng dự án phải phù hợp với thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán được duyệt và trong phạm vi số vốn thực nhận từ BHXH Việt Nam
+Đối với các hạng mục có tạm ứng, Chi nhánh quỹ không tiến hành thu hồi vốn đã tạm ứng như quy định của cấp phát vốn thuộc NSNN. Khi chấp nhận thanh toán, Chi nhánh Quỹ chỉ thanh toán số vốn còn lại sau khi trừ đi số vốn đã tạm ứng cho chủ đàu tư hoặc cho các đơn vị nhận thầu.
+Hàng quý vào ngày 05 tháng đầu tiên của quý sau, Chi nhánh Quỹ tổng hợp và gửi quỹ HTPT báo cáo theo mẫu quy định gồm các văn bản:
Giá trị khối lượng hoàn thành được nghiệm thu.
Giá trị khối lượng hoàn thành đã được thanh toán
Giá trị khối lượng hoàn thành chưa được thanh toán (lý do)
Luỹ kế số vốn đã thực nhận, đã cấp phát thanh toán cho dự án, số vốn còn lại, các vướng mắc, tồn tại phát sinhđể Quỹ HTPT phối hợp với BHXH Việt nam giải quyết. Trường hợp xảy ra các khó khăn đột xuất có thể ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án, Chi nhánh Quỹ cần chủ động phối hợp với chủ đầu tư báo cáo kịp thời cho Quỹ HTPT và BHXH Việt Nam.
-Khi dự án hoàn thành, Chi nhánh Quỹ tổ chức đối chiếu số liệu với chủ đầu tư, xác nhận số vốn đã cấp phát thanh toán, nhận xét tình hình quản lý sử dụng vốn đầu tư, tình hình thực hiện dự án gửi BHXH Việt Nam (đồng gửi Quỹ HTPT) để phục vụ kịp thời cho công tác quyết toán vốn đầu tư của BHXH các cấp.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng đó, bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng gập một số thuận lợi cũng như một số khó khăn trong việc tổ chức thực hiện vốn đầu tư XDCB. Cụ thể:
Những thuận lợi: Bộ tài chính cấp phát vốn đầu tư XDCB cho BHXH Việt Nam thông qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển đã giúp BHXH Việt Nam rút ngắn được rất nhiều thời gian cũng như các thủ tục hành chính trong việc tiếp nhận vốn từ đó có cơ sở đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng. Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với từng dự án mà không phải quyết toán theo năm kế hoạch, đây là thuận lợi rất lớn để BHXH Việt Nam chủ động trong việc tổ chức thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với nhiều dự án cùng triển khai một lúc.
Những khó khăn:
-Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý vốn đầu tư XDCB thông qua giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư cho từng địa phương về số lượng công trình được đầu tư trong năm, tiến độ đầu tư và nguồn vốn được cân đối. Như vậy việc phân bổ nguồn vốn đầu tư XDCB sẽ không đều do không có điều kiện và thời gian khảo sát.
- Việc xác định tổng dự toán công trình và dự toán xây lắp hạng mục công trình của các dự án đầu tư gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến công tác giải ngân cấp vốn gặp nhiều khó khăn do thiếu nhiều tài liệu cần thiết như: Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt, hồ sơ thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, khối lượng công tác xây lắp tính theo thiết kế phù hợp với danh mục của đơn giá xây dựng cơ bản, danh mục và số lượng các thiết bị công nghệ, các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất làm việc, sinh hoạt cần phải lắp đặt, không cần lắp đặt theo yêu cầu sản xuất của công trình xây dựng.
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên do:
-Cơ chế hiện hành chưa có quy định rõ ràng trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi tiến hành lập tổng dự toán công trình và dự toán xây lắp hạng mục công trình.
-Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm về sự phối kết hợp giữa Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ tài chính trong hoạt động quản lý đầu tư xây dựng nói chung và quản lý hoạt động đàu tư XDCB của BHXH nói riêng. Điều này dẫn đến sự phối hợp thiếu sự liên tục, nhịp nhàng trong hoạt động quản lý đầu tư xây dựng giữa các Bộ
Từ những thuận lợi trong việc tổ chức thực hiện vốn đầu tư XDCB cho nên trong giai đoạn 1996-2001 Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong XDCB. Do có sự phối hợp giữa BHXH Việt Nam và Quỹ Hỗ trợ phát triển, việc giải ngân cấp phát vốn đwcj thực hiện nhânh chóng cho nên thời gian bình quân để hoàn thành một dự án được rút ngắn đáng kể (từ khi khởi công đến lúc hoàn thành là: 2năm). Công trình xây dựng trụ sở BHXH Việt Nam tại 291 Đội Cấn – Hà Nội
-Công trình này được khởi công xây dựng: 18/10/1998
-Công trình đã được hoàn thành đưa vào sử dụng: 22/12/2000
-Phê duyệt quyết toán theo Quyết định số 2804 (20/12/2000) của BHXH Việt Nam
Tổng vốn đầu tư đã được phê duyệt quyết toán: 8.200triệu đồng, trong đó:
+Vốn xây lắp: 6.200triệu đồng
+Vốn thiết bị: 1.300triệu đồng
+Vốn KTCB khác: 700triệu đồng
Tình hình tổ chức thực hiện vốn đầu tư XDCB của Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong giai đoạn từ 1996 đén 2001.
Biểu số 4 : Cơ cấu vốn đầu tư XDCB được quyết toán của BHXH Việt Nam (giai đoạn 1996-2001)
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Cơ cấu vốn
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1996-2001
1
Vốn xây lắp
5.832
11.664
16.524
22.032
20.736
29.212
106.000
2
Vốn thiết bị
324
648
1.944
2.592
2.592
2.300
10.400
3
Vốn KTCB khác
324
648
972
1.296
2.592
7.368
13.200
4
Tổng vốn đầu tư
6.480
12.960
19.440
25.920
25.920
38.880
129.600
Nguồn: Phòng đầu tư XDCB- Ban tài chính - BHXH Việt Nam
Khi xem xét trong phạm vi tổng vốn đầu tư XDCB của BHXH Việt Nam, cơ cấu vốn đầu tư trong thời gian qua tuy có biến đổi song chưa theo chiều hướng tích cực theo mục tiêu: tất cả các đơn vị bao gồm 618 quận huyện và 61 tỉnh thành phố có trụ sở đủ diện tích làm việc, đáp ứng yêu cầu công tác. Sở dĩ có tình trạng này là do:
-Năng lực tài chính còn hạn chế: Mặc dù đã có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách hết sức thông thoáng và hợp lý, nhưng vốn ngân sách Nhà nước phục vụ cho hoạt động đầu tư XDCB của BHXH Việt Nam còn qúa ít (Trong khi kể từ khi ra đời vào tháng 10/1995 cơ sở vật chất chủa BHXH Việt Nam chủ yếu là đi thuê mượn, hầu như chưa có trụ sở riêng). Ví dụ: Trong cả giai đoạn 1996-2001 tổng số vốn ngân sách Nhà nước phục vụ cho hoạt động đầu tư XDCB của BHXH Việt Nam đã được phê duyệt quyết toán chỉ là: 73.872triệu đồng, đây là con số quá nhỏ bé đối với nhu cầu của BHXH Việt Nam, chính vì sự eo hẹp của vốn đầu tư cho nên khi xét duyệt đầu tư, thường các dự án bị xé lẻ để đảm bảo sự đồng đều giữa các tỉnh, vùng miền.
-Sản phẩm xây dựng của Bảo hiểm xã hội Việt Nam không tập trung, dàn trải trên khắp 61 tỉnh, thành phố cho nên công tác xét duyệt đầu tư gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong khâu nghiên cứu dự án khả thi
Tỷ trọng vốn xây lắp trong tổng vốn đầu tư có xu hướng giảm. Năm 1996 tỷ trọng vốn xây lắp trong tổng vốn đầu tư là: 90%. đến năm 2000 giảm xuống còn 80% và đến năm 2001 giảm xuống còn 75%. Tỷ trọng vốn thiết bị trong tổng vốn đầu tư có xu hướng tăng. Năm 1996 tỷ trọng vốn thiết bị trong tổng vốn đầu tư XDCB là: 5% thì đến năm 2000 con số này đã là: 10% nhưng nhìn chung tỷ trọng vốn thiết bị trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tương đối ổn định ở mức bình quân 8%. Có thực trạng này là do:
-Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hiện nay tất cả cán bộ viên chức nói chung và cán bộ viên chức ngành bảo hiểm nói riêng không thể làm việc tốt khi mà thiếu các thiết bị cơ bản phục vụ cho công việc như: Máy vi tính, các phần mềm ứng dụng, máy photocoppy, máy điều hoà nhiệt độ.Sẽ là vô nghĩa nếu chỉ chú trọng tập trung đầu tư xây lắp nên những công trình to lớn nhưng không có hoặc thiếu các trang thiết bị
-Tỷ trọng vốn kiến thiết cơ bản khác trong tổng vốn đầu tư tương đối ổn định, từ năm 1996 đến năm 2001 đều ở con số 5%, riêng chỉ có năm 2000 là 10%
Sự ổn định về tỷ trọng của vốn KTCB khác ở thời kỳ 1996-1999 phản ánh trình độ tổ chức quản lý vốn đầu tư XDCB của các ban quản lý dự án là rất tốt, hầu như các khoản chi phí phát sinh là rất nhỏ, quá trình chấn chỉnh công tác quản lý trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng đạt hiệu quả cao, vì vậy các khoản chi phí thuộc thành phần vốn này giảm. Riêng trong năm 2000 tỷ trọng tăng đột biến đạt 10%, là do: Các Ban quản lý dự án chưa có định mức chuẩn để lập dự toán cho các loại chi phí thuộc thành phần vốn này, nên cũng làm cho tỷ trọng vốn KTCB khác tăng lên chưa hợp lý.
Công tác thực hiện phê duyệt quyết toán các dự án so với giá trị các dự án đề nghị trong giai đoạn 1996-2001 cũng có nhiều điểm đáng lưu ý.
Biểu số 5: Tình hình phê duyệt các dự án đầu tư của BHXH Việt Nam giai đoạn 1996-2001
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
96-2001
Tổng vốn đầu tư đề nghị
30.850
45.000
51.840
57.690
54.000
72.920
312.300
Tổng vốn đầu tư được duyệt
21.600
32.400
38.880
45.000
43.200
59.800
240.880
Chênh lệch
9.250
12.600
12.960
12.690
10.800
13.120
71.420
Tỉ lệ vốn đầu tư được duyệt/ vốn đề nghị(%)
70
72
75
78
80
82
77
Nguồn: Phòng đầu tư XDCB – Ban tài chính – BHXH Việt Nam
Bình quân trong giai đoạn 1996-2001 Tổng vốn đầu tư được duyệt so với Tổng vốn đầu tư đề nghị đạt 77%, điều đó cũng có nghĩa là có: 23% số dự án trình lên Bảo hiểm xã hội Việt Nam nhưng không được phê duyệt đầu tư xây dựng, qua phân tích chúng ta nhận thấy:
Trong thời kỳ 1996-1998 thì giá trị đầu tư được phê duyệt so với giá trị dự án đề nghị chỉ đạt bình quân: 73%, trong đó năm 1996 chỉ đạt 70%. Điều này phản ánh: trong giai đoạn 1996-1998 đặc biệt là năm 1996 giá trị các dự án được phê duyệt là rất thấp, chứng tỏ năng lực, hiệu quả làm việc của các Ban quản lý dự án là rất thấp, có nhiều dự án không mang tính khả thi hoặc tính khả thi rất thấp cho nên đã không được phê duyệt đầu tư. Điều này cũng có thể được lý giải do:
+Năm 1996 là năm mới bắt đầu triển khai quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, phần lớn các cán bộ trong Ban quản lý dự án đều là kiêm nhiệm cho nên rất thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng.
+Trong khoảng thời gian 1996-1998 do Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới thành lập và đi vào hoạt động cho nên chưa hình thành rõ ràng chức quản lý đầu tư xây dựng của Ban kế hoạch tàI chính, chưa có cán bộ chuyên trách cho nên việc thẩm định hồ sơ, kiểm tra hồ sơ xây dựng để trình Tổng giám đốc phê duyệt dự án còn mất khá nhiều thời gian và chưa hoàn chỉnh.
2.2.2.3. Công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện vốn đầu tư XDCB của BHXH Việt Nam
Công tác kiểm tra kiểm soát giữ một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
a)Nội dung kiểm tra kiểm soát
Bảo hiểm xã hội Việt Nam có trách nhiệm quản lý về quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam và trụ sở làm việc của BHXH các tỉnh, BHXH các huyện. Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý một số nội dung: quy mô đầu tư của từng trụ sở BHXH tỉnh, BHXH huyện; quy trình, quy phạm đầu tư, chất lượng, hiệu quả đầu tư và tiến độ đầu tư; quản lý tổng mức đầu tư, tổng dự toán và phê duyệt quyết toán đầu tư. Thực trạng nội dung kiểm tra kiểm soát việc thực hiện vốn đầu tư XDCB của BHXH Việt Nam trong thời gian vừa qua:
*Kiểm tra tính đúng đắn của quy hoạch do Ban quản lý dự án các tỉnh trình lên phê duyệt: Sự sắp xếp, bố trí , cân đối giữa các yếu tố nhu cầu đầu tư XDCB thực tế của BHXH các tỉnh, Thành phố và mức vốn dự kiến đầu tư đã hợp lý chưa? Trong thực tế những thiếu sót trong công tác quy hoạch đã dẫn đến lãng phí hàng chục tỷ đồng cho công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng công trình để sau phải dỡ bỏ là hiện tượng khá phổ biến ở nước ta từ trước đến nay, kể cả công trình, dự án đầu tư của các ngành Trung ương cũng như các địa phương song chậm được khắc phục.
*Kiểm tra kiểm soát khâu xác định chủ trương đầu tư:
Chủ trương đầu tư cần được đánh giá là khâu dễ gây và thực tế đã gây nên những thất thoát và lãng phí lớn trong đầu tư và xây dựng. Hầu hết các dự án được đầu tư đều xuất phát từ nhu cầu thực té và trên cơ sở quy hoạch chung, nhưng thực tế có trường hợp không có quy hoạch, hoặc quy hoạch chưa hợp lý phải điều chỉnh lại, duyệt lại hoặc trong quá trình lập dự án do khảo sát không kỹ, lựa chọn địa điểm không phù hợp, xác định quy mô xây dựng công trình vượt quá nhu cầu sử dụng dẫn đén sự lãng phí rất lớn đối với vốn đầu tư XDCB
*Kiểm tra kiểm soát khâu thẩm định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán
-Công tác thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán ở nhiều Ban quản lý dự án còn tình trạng chưa tuân thủ các quy định về nội dung được phê duyệt trong quyết định đầu tư của dự án, áp dụng sai định mức, sai đơn giá... đã tạo sơ hở, khó khăn cho công tác quản lý, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư dẫn đến gây lãng phí, tiêu cực, thất thoát vốn.
-Kiểm tra kiểm soát thực tế các Ban quản lý dự án có thực hiện đúng chế độ Nhà nước quy định về chi phí tư vấn (khảo sát, thiết kế...) được tính theo tỷ lệ thuận theo chi phí công trình. Vì trong thực tế các nhà thiết kế có xu hướng tăng quy mô và hệ số an toàn (hệ số dớt) của công trình cao hơn mức bình thường để tăng giá trị công trình nhằm tăng chi phí thiết kế để hưởng lợi mà ít chú ý nghiên cứu thiết kế hợp lý để giảm bớt các khối lượng không cần thiết. Hiện tượng này cũng dẫn đến phê duyệt giá trị dự toán không sát thực tế, gây lãng phí và thất thoát vốn đầu tư, đồng thời tạo sơ hở để giảm khối lượng (giảm tiêu chuẩn quy phạm vật tư để bớt khối lượng) trong quá trình thi công nhằm hưởng lợi.
-Quá trình khảo sát lập dự án đầu tư cũng tạo ra khe hở gây thất thoát, lãng phí vốn và tài sản của Nhà nước. Để trốn hạn ngạch, đơn giản trong khâu trình phê duyệt của chủ trương đầu tư, nhiều chủ đầu tư chia dự án lớn thành nhiều dự án nhỏ, hoặc nhiều hạng mục chỉ tạm tính nhằm mục đích làm cho tổng mức đầu tư thấp. Do vậy trong quá trình thi công đã vượt tổng mức vốn đầu tư khá lớn, có dự án vượt gấp 2 lần so với tổng mức vốn đầu tư đã duyệt ban đầu, nên phải điều chỉnh tổng mức và duyệt lại. Tình trạng này cũng gây sơ hở cho công tác quản lý trong quá trình thực hiện dự án dẫn đến lãng phí, thất thoát vốn đầu tư , đồng thời tạo lỗ hổng cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng có thể xẩy ra.
-Công tác kiểm tra kiểm soát tập trung vào nội dung tương đối phổ biến là khi lập và phê duyệt tổng dự toán, dự toán không theo sát các định mức kinh tế kỹ thuật của Nhà nước đã ban hành không sát với thực tế từng khu vực, thoát ly giá cả thực tế trên thị trường trong từng thời kỳ dẫn đến phê duyệt tổng mức đầu tư quá chênh lệch so với thực tế.
*Kiểm tra kiểm soát khâu đấu thầu xây dựng
Tình trạng không tuân thủ Quy chế đấu thầu thường xảy ra. Theo quy định một số dự án được phép chỉ định thầu gói thầu có giá trị dưới 1 tỷ đồng đối với mua sắm hàng hoá và xây lắp, dưới 500 triệu đồng đối với tư vấn. Nhưng thực tế nhiều công trình đúng ra phải đấu thầu song chủ đầu tư lại thực hiện chỉ định thầu, hoặc chia nhỏ dự án thành nhiều hạng mục nhỏ, gói thầu nhỏ để thực hiện chỉ định thầu. Như vậy đã không tiết kiệm được tiền vốn cho NSNN lại còn lệ thuộc nhiều vào khả năng, trình độ thi công của nhà thầu, nhiều công trình không đảm bảo chất lượng theo thiết kế được duyệt, phải tu bổ, sửa chữa ngay sau khi công trình đi được nghiệm thu đưa vào sử dụng.
*Kiểm tra kiểm soát trong khâu chuẩn bị xây dựng
Để đẩy mạnh tiến độ thực hiện dự án phải làm tốt công tác chuẩn bị xây dựng. Nội dung công tác chuẩn bị xây dựng gồm: điều tra khảo sát, lập hồ sơ thiết kế xây dựng, lập tổng dự toán và dự toán chi tiết, chuẩn bị mặt bằng xây dựng. Trong những nội dung đó, nội dung chuẩn bị mặt bằng xây dựng mà trọng tâm là công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để xây dựng. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng trong nhiều năm qua luôn gây ắch tắc, làm chậm tiến độ xây dựng xảy ra nhiều tiêu cực gây lãng phí, thất thoát vốn phục vụ cho hoạt động đầu tư XDCB.
*Kiểm tra kiểm soát trong khâu tổ chức thực hiện
Kiểm tra từ khâu lập dự án đầu tư, trình BHXH Việt Nam phê duyệt đến khâu tổ chức thực hiện dự án đầu tư, bao gồm tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng, kiểm tra những hạng mục không phải đầu thầu trên nguyên tắc không làm thay đổi thiết kế, tổng dự toán đã được duyệt.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện kiểm tra việc giám sát thi công, nghiệm thu công trình dựa trên việc xem xét bản hợp đồng, biên bản nghiệm thu thực tế ký với đơn vi tư vấn giám sát thi công.
*Kiểm tra kiểm soát giá trong xây dựng
Do đặc điểm riêng biệt của ngành xây dựng, nên sản phẩm xây dựng không có giá thống nhất trên thị trường toàn quốc hoặc khu vực như các sản phẩm công nghiệp. Từng sản phẩm xây dựng có giá riêng của mình được xác định bằng phương pháp lập dự toán. Vì vậy, trọng tâm quản lý giá trong xây dựng là quản lý định mức dự toán. Định mức dự toán XDCB do Bộ Xây dựng nghiên cứu và ban hành áp dụng thống nhất trong cả nước
*Kiểm tra kiểm soát trong khâu thanh toán
Do đặc điểm sản phẩm xây dựng và sản xuất xây dựng có qui mô lớn, thời gian xây dựng dài nên phải thanh toán theo tuần kỳ khi có khối lượng thực hiện được nghiệm thu - vì vậy về nguyên tắc vốn đầu tư thanh toán là số vốn đầu tư thanh toán cho giá trị khối lượng thực hiện hoàn thành được A-B nghiệm thu (nhà thầu và chủ đầu tư), được chủ đầu tư chấp nhận thanh toán. Giá trị khối lượng thực hiện hoàn thành được A-B nghiệm thu chủ đầu tư chấp nhận và đề nghị thanh toán phải đảm bảo có đủ các hồ sơ cần thiêt:
(1) Chuẩn bị đầu tư:
-Văn bản của cấp có thẩm quyền cho phép tiến hành chuẩn bị đầu tư.
-Dự toán chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
(2) Chuẩn bị thực hiện dự án:
-Báo cáo nghiên cứu khả thi (hoặc báo cáo đầu tư) và quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền.
-Dự toán chi phí cho công tác chuẩn bị thực hiện dự án được cấp thẩm quyền phê duyệt.
(3) Thực hiện đầu tư:
-Báo cáo nghiên cứu khả thi (hoặc báo cáo đầu tư) và quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền.
-Thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Những dự án nhóm A, B nếu chưa có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt thì trong quyết định đầu tư phải quy định mức vốn của từng hạng mục công trình và phải có thiết kế và dự toán hạng mục công trình thi công trong năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thực tế trong thời gian vừa qua, tất cả các nội dung trên Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới chỉ tiên hành kiểm tra kiểm soát trên hồ sơ do đơn vị tư vấn giám sát được thuê cung cấp, cho nên hiệu quả công tác kiểm tra kiểm soát việc thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản của BHXH Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào sự trung thực của đơn vị được thuê tư vấn giám sát.
b)Hình thức kiểm tra kiểm soát
Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các Ban Quản lý dự án đầu tư ở các tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý về lĩnh vực xây dựng cơ bản như Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Tổng cục đầu tư và phát triển, Quỹ Hỗ trợ phát triển, Sở Xây dựng, Sở Tài chính vật giá, Cục Đầu tư phát triển, Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển để tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư dự án từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư. Do số lượng cán bộ thiếu cho nên hình thức kiểm tra giám sát của BHXH Việt Nam chủ yếu là: Thuê đơn vị tư vấn giám sát và định kỳ tổ chức kiểm tra chất lượng thi công ở những công trình trọng điểm. Bên cạnh đó BHXH Việt Nam thường xuyên điều chỉnh, nhắc nhở các Ban quản lý dự án các tỉnh bằng các văn bản:
-Văn bản số 331/BHXH-KHTC ngày 20/04/1996 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc hướng dẫn thành lập Ban quản lý dự án để quản lý đầu tư XDCB
-Văn bản số 250/BHXH-KHTC ngày 1/4/1997 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc hướng dẫn BHXH các tỉnh, Thành phố thực hiện đầu tư XDCB
-Văn bản số 266/BHXH-KHTC ngày 7/4/1997 của BHXH Việt Nam về việc hướng dẫn rõ thêm một số điểm trong việc đấu thầu xây lắp xây dựng trụ sở
Với hình thức kiểm tra giám sát như trên cho nên thực trạng công tác quản lý vốn đầu tư XDCB của BHXH Việt Nam trong thời gian vừa qua còn nhiều bất cập, chủ yếu mới chỉ phát hiện được những sai phạm lớn và hầu như tất cả các sai phạm bị phát hiện đều đã được thực hiện cho nên công tác khắc phục sai phạm mất rất nhiều thời gian và vốn đầu tư XDCB:
+Trụ sở Bảo hiểm xã hội một số tỉnh, Thành phố không triển khai theo thiết kế mẫu; một mặt quản lý được quy mô đầu tư, chất lượng thiết kế, dự toán, giảm được kinh phí đầu tư và thời gian chuẩn bị, còn nhiều hạng mục chưa thật phù hợp với từng địa phương về kiến trúc, công năng và chỉ định sử dụng vật liệu xây dựng vào công trình.
+ Một số ít Ban Quản lý dự án chưa quan tâm đầy đủ đến công tác kiểm tra, giám sát chất lượng công trình, còn có tư tưởng phó th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV599.doc