Thực trạng sản xuất và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO 2

I. VỊ TRÍ CỦA LÚA GẠO TRONG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 2

1. Lúa gạo trong nền kinh tế thế giới 2

2. Vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế nước Việt Nam 2

II. Nhu cầu gạo của thị trường gạo thế giới 3

1. Tình hình tiêu thụ gạo của thế giới 3

2. Tình hình xuất – nhập khẩu gạo của thế giới 4

 2.1. Tình hình nhập khẩu gạo trên thế giới 4

2.2. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới 6

2.3. Diễn biến giá gạo trên thị trường thế giới 7

3. Dự báo triển vọng tiệu thụ gạo của thế giới 8

3.1. Triển vọng tiêu thụ 8

3.2. Triển vọng buôn bán gạo trên thị trường thế giới 8

III. Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo của Việt Nam 9

1. Lợi thế so sánh của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo 9

1.1.Điều kiện đất đai 9

1.2.Khí hậu 9

1.3.Nước tưới tiêu 9

1.4.Nhân lực 10

1.5.Địa lý và cảng khẩu 10

2. Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo của Việt Nam 10

2.1. Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới của đất nước 10

2.2. Cải thiện đời sống 11

2.3. Phát huy lợi thế trong nước 11

2.4. Khắc phục các hậu qủa của thời gian chiến tranh để lại 11

 

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 12

I. Tình hình sản xuất trong nước 12

1. Tình hình và triển vọng sản xuất 12

2. Thị trường lúa, gạo Việt Nam 13

2.1 Sản xuất và cung ứng lúa, gạo 13

2.2 Tiêu dùng và mua lúa gạo 13

II. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 13

1. Tình hình xuất khẩu 13

2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của việt nam 15

3. Một số nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam 16

4. Dự báo xuất khẩu gạo việt nam trong thời gian tới 16

III. Những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam 17

1. Chất lượng gạo xuất khẩu 17

2. Yếu tố mùa vụ trong xuất khẩu gạo việt nam 18

3. Giá cả (giá trong nước và giá xuất khẩu) 18

4. Bao gói, quy cách mẫu mã sản phẩm gạo xuất khẩu 18

5. Tiếp cận tín dụng xuất khẩu 19

6. Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khậu 19

7. Vận chuyển tàu biển 19

8. Hoạt động tiếp cận thị trường 20

IV. Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 20

1. Điểm mạnh 20

2. Điểm yếu 21

3. Cơ hội 21

4. Thách thức 22

 

doc35 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng sản xuất và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm cho nhân dân Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến lược phát triển con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế – xã hội của đất nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó, đời sống ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông dân còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng v..v… Với tình trạng đó thì việc phát triển sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần thiết. 2.3 Phát huy lợi thế trong nước Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai, khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác triệt để nhất các lợi thế. Chính những lợi thế đó đã làm cho sản lượng lúa tăng đều đặn trong những năm qua. Qua những điều cơ bản đã nêu ở trên, chúng ta thấy rõ sự cần thiết phải xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo là tất lẽ dĩ ngẫu. 2.4 Khắc phục các hậu qủa của thời gian chiến tranh để lại Nước ta phải đối mặt với cuộc chiến tranh ác liệt và kéo dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Suốt 30 năm có chiến tranh, đất nước bị chia cắt và chiếm đóng, Đảng và Chính phủ ta không có đIều kiện lãnh đạo toàn bộ hoạt động kinh tế của cả nước thống nhất. Điều kiện khí hậu thiên nhiên thuận lợi và đất đai màu mỡ ở nhiều vùng chưa khai phá đặt ra nhiệm vụ biến ĐBSCL và nhiều vùng khác của đất nước thành vùng phát triển nông nghiệp để thực hiện 3 chương trình kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Đây là chiến lược quan trọng “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” của những năm 70 - đầu 90, lấy nông nghiệp là cơ sở ban đầu tạo vốn cho công nghiệp hóa. Chương II Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của việt nam trong thời gian qua. I. Tình hình sản xuất trong nước 1. Tình hình và triển vọng sản xuất Trong giai đoạn 1992 – 1997, diện tích trồng lúa tăng bình quân 1,85%, năng suất tăng bình quân 3,10%/năm và sản lượng tăng bình quân 4,97%/năm. Trong giai đoạn tiếp theo (1997 – 2002), mặc dù diện tích trồng lúa chỉ tăng 1,05%/năm, nhưng do năng suất tăng cao hơn so với giai đoạn trước, đạt 3,25%/năm, nên sản lượng lúa cả năm vẫn đạt tốc độ tăng 4,3%/năm. Bảng 4 cho thấy các số liệu cụ thể về diện tích, năng suất và sản lượng lúa qua các năm. Như vậy, trong giai đoạn 1992 – 1997, khoảng trên 60% mức tăng trưởng sản lượng lúa là do tăng năng suất và trong giai đoạn 1997 – 2002 là khoảng 75%. Bảng 4: Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam Năm Diện tích lúa cả năm Năng suất Sản lượng 1000 ha % tăng Tạ/ha % tăng 1000 tấn % tăng 1991 6.302,8 31,1 19.621,9 1992 6.475,3 102,7 33,3 107,1 21.590,4 110,0 1993 6.559,4 101,3 34,8 104,4 22.836,5 105,8 1994 6.598,6 100,6 35,7 102,4 23.528,2 103,0 1995 6.765,6 102,5 36,9 103,4 24.963,7 106,1 1996 7.003,8 103,5 37,7 102,1 26.396,6 105,7 1997 7.099,7 101,4 38,8 102,8 27.523,9 104,3 1998 7.362,7 103,7 39,6 102,1 29.145,5 105,9 1999 7.648,1 103,9 41,0 103,6 31.393,8 107,7 2000 7.665,4 100,2 42,4 103,3 32.529,4 103,6 2001 7.484,2 97,6 42,7 100,6 31.970,0 98,3 2002 7.485,0 100,0 45,5 106,6 34.000,0 106,4 Nguồn: Tổng cục Thống kê Năm 2002, sản lượng lúa của Việt Nam đã đạt 34 triệu tấn, tăng 15,2 triệu tấn (80% so với năm 1989, đạt tốc độ tăng 6,43%/năm). Trong khi đo, tốc độ tăng dân số của Việt Nam cùng thời kỳ chỉ là 1,9%/năm, nên sản lượn lương thực bình quân đầu người tăng từ 324,4kg/người năm 1990 lên 372kg/người năm 1995 và 435kg/người năm 2002, nhưng mức sản lượng bình quân cao nhất đạt được vào năm 2000 là 455kg/người. 2. Thị trường lúa, gạo Việt Nam Sản xuất và cung ứng lúa, gạo Tham gia vào sản xuất lúa ở Việt Nam có tới 70% số hộ cả nước, hay 84% số hộ ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất phân bố rộng, qui mô nhỏ và yêu cầu đảm bảo tiêu dùng lương thực trong các hộ gia đình, nên tỷ lệ số hộ có bán lúa chỉ chiếm khoảng 60%. Nếu xét theo vùng sản xuất, thì ĐBSCL có tỷ lệ số hộ bán lúa chiếm khoảng 76% (cao nhất trong cả nước). 2.2 Tiêu dùng và mua lúa, gạo Chỉ có khoảng 98% số hộ gia đình ở khu vực thành thị và3/4 số hộ gia đình ở khu vực nông thôn phải mua gạo trên thị trường. Trong khu vực nông thôn, thì ĐBSCL có tỷ lệ số hộ mua gạo cao nhất, chiếm khoảng 89%. Nếu xét theo nhóm thu nhập, thì trong nhóm hộ giàu, tỷ lệ số hộ mua gạo trên thị trường cao hơn so với nhóm thu nhập thấp. Bình quân lượng gạo mua trong một năm của một hộ gia đình là trên 300kg, bình quân cao nhất là ở vùng ĐBSCL (350kg/hộ/năm) và thấp nhất là ở vùng ĐBSH (100kg/hộ/năm). II. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 1. Tình hình xuất khẩu Từ năm 1989 đến nay, 14 năm liên tục, Việt Nam được xem là một thế lực chủ yếu trên thị trường gạo thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng tăng. Trong giai đoạn (1992 – 1997), xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng bình quân 12,94%/năm về lượng và 15,80%/năm về trị giá. Mặc dù trong giai đoạn gần đây (1997 – 2002), xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có dấu hiệu tăng chậm lại. Điều này có nguyên nhân từ sự suy giảm giá chung trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, năm 1999 Việt Nam đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, với giá trị xuất khẩu đạt 1,025 tỷ USD, so với năm 1989, lượng tăng gấp 3,2 lần và giá xuất khẩu bình quân tăng 1,11 lần và giá trị tăng gấp 3,53 lần. Năm 2000, xuất khẩu 3,5 triệu tấn, do khó khăn về thị trường và giá cả giảm, năm 2001 xuất 3,7 triệu tấn và năm 2002 xuất 3,2 triệu tấn. Năm 2003 có thể đạt gần 4 triệu tấn mặc dù gặp một số khó khăn thiên tai hạn hán. Dự trữ lương thực quốc gia thực hiện đầy đủ làm cho an toàn lương thực được bảo đảm. Bảng 5: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 1991 – 2003 Năm Sản lượng gạo Kim nghạch xuất khẩu Gía bình quân 1 tấn (1000 kg) (Triệu USD) (USD) 1991 1033 234 227 1992 1946 418 215 1993 1722 362 210 1994 1983 424 214 1995 1988 530 267 1996 3003 855 285 1997 3575 870 243 1998 3730 1024 275 1999 4508 1025 227 2000 3476 672 192 2001 3729 619 165 2002 3240 726 224 Dự báo 2003 3700 780 234 Nguồn : Niên giám Thống kê Việt Nam Tính chung 14 năm, nước ta đã cung cấp cho thị trường gạo thế giới gần 40 triệu tấn, bình quân 2,70 triệu tấn/năm và tổng giá trị xuất khẩu gạo đạt trên 8 tỷ USD, bình quân 572 triệu USD/năm. Năm 2003, mặc dù thị trường Irắc có biến động, nhưng các thị trường mới đã mở ra như Iran, Libăng, Xi-ri, Châu Phi, xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao. Kế hoạch xuất khẩu 3,2 triệu tấn gạo năm 2003 đã hoàn toàn có thể đạt hoặc vượt tới gần 4 triệu tấn. Bên cạnh sự tăng trưởng về khối lượng gạo, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao. Chất lượng gạo ngon và chất lượng chế biến (phân theo tỷ lệ tấm) đạt chỉ tiêu đề ra. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỷ lệ gạo chất lượng trung bình, với tỷ lệ tấm cao trên 25% chiếm đến 80 – 90%, nên sức cạnh tranh kém, giá cả thấp. Nguyên nhân chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực xay sát, đánh bóng chưa được quan tâm đúng mức. Trang thiết bị mới, công nghệ mới đi đôi với tạo giống lúa đã tạo đIều kiện xuất khẩu gạo 5% tấm tăng lên rõ rệt nên khả năng cạnh tranh, tăng giá bán trung bình lên đang kể. Bảng 6: Tỷ lệ một số loại gạo xuất khẩu chính của Việt Nam Loại Thị phần% 25% tấm 37,90 5% tấm 26,56 15% tấm 15,50 10% tấm 13,11 Tấm 5,30 Nếp và gạo thơm 1,46 Các loại khác 1,17 Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng được tăng dần cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung – cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm 1995 – 1998 là 269 USD/tấn, tăng 61 USD/tấn so với giá bình quân 6 năm trước đó (1989 – 1994). Khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40 – 55 USD/tấn những năm 1989 – 1994 xuống 20 – 25 USD/tấn những năm 1995 – 2000. Nhìn chung, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của thế giới. 2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Năm 1991, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang trên 20 nước, bước sang năm 1993 – 1994 tăng lên trên 50 nước, và hiện nay đã xuất khẩu đến trên 80 nước và có mặt ở cả 5 châu lục. Trong đó, thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam là các nước Châu á với 29 nước, Châu Âu 29 nước, Châu Mỹ 17 nước, Châu Phi 16 nước va Châu Đại Dương 3 nước. Trong đó, Châu á và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Giai đoạn 1991 – 2000 hai thị trường ày chiếm tỷ lệ tương ứng là 58,8% va 18,8%. Các thị trường nhập khẩu với lượng lớn và ổn định la Philippine, Inđônêsia, Malaysia, Irắc. Các nước Singapore, Thuỵ Sỹ, Hà Lan và Mỹ nhập khẩu gạo của ta chủ yếu là để tái xuất. 3. Một số nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam Indonesia: Trong 5 năm trở lại đây, Inđônêsia đã nhập khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Myanma và Đài Loan. Chính phủ Indonesia chủ yếu nhập khẩu gạo 25% tấm. Năm 1999 nhập 1804 ngàn tấn (40%) và 2001 chỉ còn 350 ngàn tấn (14%), năm 2002 là 744,0 ngàn tấn. Philippine: Hàng năm, gạo Việt Nam chiếm 40 – 60% tổng lượng gạo nhập khẩu của nước này.Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Philippine 370 ngàn tấn (trên thực tế là 530 ngàn tấn vì một số công ty nước ngoài nhập khẩu gạo của Việt Nam rồi xuất sang đây). Malaysia: Nhập khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Myanma, Mỹ, ấn Độ, với giá trị 36,52 triệu USD. Singapore: Năm 1999, đã nhập khẩu 112 ngàn tấn gạo của Việt Nam, năm 2000 là 221 ngàn tấn, 260 ngàn tấn trong năm 2001 và 97,36 ngàn tấn năm 2002. Irac: Hàng năm, Irắc nhập khẩu gạo chủ yếu từ Việt Nam loại gạo 5% tấm – khoảng 500 ngàn tấn, đây là thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam tương đối ổn định và có giá trị cao song cũng gặp nhiều khó khăn nhất là tình hình chính trị không ổn định (năm 2002, Irắc nhập của Việt Nam 876,37 ngàn tấn gạo, với trị giá 276,17 triệu USD). Ngoài các nước kể trên gạo Việt Nam còn xuất khẩu sang các nước khác ở Châu Âu, kể cả xuất khẩu sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch biên giới. Do gạo có tiềm năng nên tháng 10/2003 Chính phủ Việt Nam đã giúp nhân dân Irắc khắc phục khó khăn do Mỹ gây chiến và chiếm đóng 5000 tấn gạo. Từ nước nhận viện trợ trước đây, Việt Nam lần đầu tiên thành nước giúp, hỗ trợ nước khác trong hoạn nạn theo chương trình của Liên Hợp Quốc. 4. Dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới Việt Nam có rất nhiều cơ hội tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu. Nếu Việt Nam tận dụng được cơ hội nhu cầu thị trường tăng lên (trong khi các nước có tiềm năng cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu gạo như Myanma, Pakistan và Camphuchia còn đang chậm hơn trong nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất và tìm cách mở rộng thị trường), đồng thời, tăng cường có hiệu qủa áp dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất đi đôi với cải thiện cơ chế chính sách và phương thức xúc tiến thương mại, đuổi kịp Thái Lan, Trung Quốc và ấn độ trong cạnh tranh xuất khẩu vào các thị trường mới mở, Việt Nam sẽ có thể mở rộng xuất khẩu trên cả hai thị trường gạo phẩm cấp cao và chất lượng gạo trung bình. Với xu thế phat triển của đất nước, tương quan với tình hình thị trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu có thể nhận định chung: Việt Nam vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng và nằm trong 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới trong vòng 10 năm tới. Dự báo, trong bối cảnh cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước, tăng thêm thị phần xuất khẩu trong thời gian tới là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Một số nhà kinh tế cho rằng, tiếp tục giữ được thị phần như hiện nay ở các khu vực thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam là khả năng diễn ra cao nhất, theo đó, xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đạt 4,61 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001 – 2005 và 5,42 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2006 – 2010 Thị trường quan trọng của gạo Việt Nam vẫn là Châu Phi, hàng năm có thể xuất vào 1,9 – 2,7 triệu tấn gạo, Châu á là 1,3 – 1,5 triệu tấn, tiếp theo là khu vực Mỹ La Tinh và Caribê có thể xuất vào mỗi năm 0,5 – 0,9 triệu tấn. Bảng 7: Dự báo thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 Đơn vị: Nghìn tấn Thị trường 2001 – 2005 2006 – 2010 Châu á 1.570 1.490 Châu Phi 2.190 2.730 Mỹ La Tinh & Caribê 620 880 Khu vực còn lại 230 320 Tổng 4.610 5.420 Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 284 III. Những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam 1.Chất lượng gạo xuất khẩu Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã được cảI thiện tương đối ấn tượng trong hơn một thập kỷ qua. Tốc độ tăng xuất khẩu gạo 5% tấm đã tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và hiện đã chiếm 26,56% tổng lượng gạo xuất khẩu. Đây là kết qủa của quá trình đầu tư cảI tiến công nghệ trong khâu chế biến và những vấn đề có liên quan. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp nên ảnh hưởng lớn đến giá bán và thị trường trong xuất khẩu. 2.Yếu tố mùa vụ trong xuất khẩu gạo của Việt Nam Do tính mùa vụ của sản xuất lúa, nên xuất khẩu gạo cũng mang đậm tính mùa vụ. Thời điểm từ tháng 4 đến tháng 9 là khoảng thời gian xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam (cùng với thời đIểm thu hoạch Đông Xuân và Hè Thu). Đồng thời, khoảng thời gian tháng 1, tháng 2 là thời điểm xuất khẩu gạo thấp nhất của Việt Nam. 3. Giá cả (giá trong nước và giá xuât khẩu) Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam có lợi thế hơn nhiều so với Thái Lan: chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần, các chỉ tiêu liên quan về giá vật tư đầu vào bằng 50% - 80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90 – 110 USD/tấn, đặc biệt vụ Đông Xuân 2002 giá thành sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 920 – 1000 đồng/kg, trong khi chi phí của Thái Lan là 120 – 150 USD/tấn (tỷ giá 35bat/USD). Tuy nhiên, chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá giao tại cảng lại khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của Việt Nam cao. Điều đó xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Chi phí bốc dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng Sài Gòn cao chiếm 1,6% giá xuất khẩu, ở Thái Lan chi phí này bằng 1/2 Việt Nam, tốc độ bốc dỡ chậm so với Thái Lan 6 lần, làm tốn thêm 6000/ngày. Mặt khác, theo kết qủa điều tra Viện Công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê 1995 cho thấy tổn thất sau thu hoạch ở nước ta cao: ở khâu thu hoạch là 1,3 – 1,7%, vận chuyển là 1,2 –1,5%, đập tuốt là 1,4 – 1,8%, phơi sấy là 1,9 – 2,1%, bảo quản 3,0 – 3,4%, xay xát chế biến là 4,1 –4,5%. Mặt khác, tổng tổn thất lên đến 12 – 15%, đồng nghĩa với giá thành bị đẩy lên tương đương. Bên cạnh những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng làm tăng chi phí dịch vụ xuất khẩu, mối quan hệ giữa giá trong nước và giá giao tại cangr này còn là một tham số phản ánh tính hiệu qủa thấp của hệ thống marketing lúa gạo. 4. Bao gói, quy cách, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu Một số yêu cầu cơ bản về gạo xuất khẩu: chiều dài hạt gạo đạt 7mm, tỷ lệ chiều dài/chiều rộng lớn hơn, hạt gạo phải trong, điểm bạc bụng cho phép từ 0 – 1mm và một số tiêu chuẩn khác như: tỷ lệ tấm, tỷ lệ hạt hẩm, hạt đỏ, tỷ lệ bạc bụng, tỷ lệ thóc, độ bóng v..v… Tuy nhiên, gạo Việt Nam hầu như chưa đáp ứng các yêu cầu trên. Ngoài các yếu tố được nêu trên, thì bao bì xuất khẩu Việt Nam cũng chưa đảm bảo yêu cầu: chất lượng bao bì không đều, mật độ sợi thấp, độ bền sợi thấp, đường khâu hai bên lỏng lẻo, đóng miệng chưa chắc chắn nên khi vận chuyển rất dễ bị vỡ và khó bảo quản. Tất cả các nguyên nhân trên khiến cho gạo Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu về mẫu mã của thị trường, làm giảm khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam so với Thái Lan và Mỹ. 5. Tiếp cận tín dụng xuất khẩu Những hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hiện nay được xem như một trở ngại quan trọng nhất trong việc tăng trưởng xuất khẩu của các nhà xuất khẩu chủ yếu. Các cơ quan cung cấp tín dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Các cơ quan này chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sau khi đã có hợp đồng xuất khẩu. Vì vậy, nếu không được cấp tín dụng kịp thời, nhà xuất khẩu sẽ không thể mua được gạo xuất khẩu theo hợp đồng và có thể còn bị phạp do không thực hiện đúng hợp đồng. Các doanh nghiệp nhà nước ở ĐNB và ĐBSCL đều cho rằng tiếp cận tín dụng hiện nay còn nhiều hạn chế, thông thường Ngân hàng chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu vay của doanh nghiệp. 6. Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu Cơ quan kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu (đối với các sản phẩm nông nghiệp và phi nông nghiệp) quan trọng nhất ở Việt Nam hiện nay là VINACONTROL. Đối với mặt hàng gạo xuất khẩu, VINACONTROL kiểm tra tới 95% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Quy trình kiểm tra của VINACONTROL gồm 3 bước: (1) kiểm tra chất lượng gạo trong kho của nhà xuất khẩu; (2) kiểm tra chất lượng gạo tại nơi xếp hàng chờ xuất khẩu; (3) kiểm tra chất lượng gạo trước khi giao hàng, chi phí kiểm tra chất lượng gạo là 0,3USD/tấn. 7. Vận chuyển tàu biển Vận chuyển gạo xuất khẩu là dịch vụ đắt đỏ ở Việt Nam do thiết bị cảng lạc hậu, năng lực bốc xếp thấp, lệ phí cảng cao và năng lực vận tải thấp… Do năng lực vận tải biển thấp, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng phương thức xuất khẩu FOB (sử dụng tàu vận tải nước ngoài), chỉ có những lô hàng xuất khẩu theo ký kết của Chính phủ mới sử dụng tàu của các công ty tàu biển trong nước. Trong số các cảng biển của Việt Nam thì lượng gạo xuất khẩu thông qua cảng Sài Gòn chiếm tới 70%. Điều này không chỉ xuất phát từ vị trí gần gũi của cảng với nguồn hàng xuất khẩu chính, mà còn từ mức cước phí vận tải biển từ cảng Sài Gòn thường thấp hơn cảng Hải Phòng và cảng Đà Nẵng. Tuy nhiên, mức phí cảng của cảng Sài Gòn lại cao hơn. 8. Hoạt động tiếp cận thị trường Phần lớn quan hệ giao dịch buôn bán gạo thường được người mua nước ngoài hoặc là trực tiếp, hoặc là thông qua cơ quan Chính phủ. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa chủ động tìm kiếm thị trường: chưa có được các hơp đồng lớn ổn định. Các hợp đồng chủ yếu là các hợp đồng Chính phủ chiếm 1/2 lượng gạo xuất khẩu. Hoạt động của Hiệp hội Xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam trong việc cung cấp thông tin về giá cả, thị trường chưa có hiệu qủa. Mặt khác, do gạo là nguồn an ninh lương thực quốc gia nên Nhà nước quản lý hoạt động xuất khẩu bằng việc cấp QUOTA nên các doanh nghiệp cũng không chủ động trong việc ký hợp đồng. Các hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu gạo cũng chưa được quan tâm đầy đủ, chưa tận dụng được các phương tiện thông tin, văn phòng đại diện, cơ quan tham tán, người Việt Nam ở nước ngoài … để tổ chức tuyên truyền, quảng bá gạo Việt Nam đến người tiêu dùng. Đối với thị trường có nhu cầu lớn về gạo có phẩm cấp thấp như Châu Phi, chúng ta lại chưa xuất khẩu trực tiếp do ta chưa có chính sách tín dụng hỗ trợ ban trong thanh toán. ở các thị trường có sức mua lớn đòi hỏi chất lượng cao , gạo của ta cũng chưa tiếp cận được. Nhìn chung hoạt động tiếp cận thị trường của doanh nghiệp được giao xuất khẩu của chúng ta chưa xứng đáng với tiềm năng và vị trí nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. IV. Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 1. Điểm mạnh Việt Nam đã trở thành một thế lực chủ yếu trênt thị trường gạo thế giới. Sản xuất và xuất khẩu gạo là một trong những hướng ưu tiên phát triển của Chính Phủ không chỉ xuất phát từ chính sách an ninh lương thực quốc gia mà còn là mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam hiện nay. Điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, chi phí nguồn lực nội địa thấp. Chính sách cơ cấu lại giống lúa đang được quan tâm hơn và bước đầu đã đem lại hiệu qủa, nâng cao năng suất lúa. Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng về phát triển gạo chất lượng cao. Tăng trưởng xuất khẩu gạo chưa vượt quá ngưỡng an toàn lương thực quốc gia do mức tăng trưởng sản lượng cao. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia vào thị trường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo và đã có ít nhiều kinh nghiệm xuất khẩu gạo. 2. Điểm yếu Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam chủ yếu là thị trường có mức thu nhập trung bình và thấp, chỉ tiêu thụ gạo có chất lượng trung bình và thấp. Diện tích sản xuất rộng lớn, nhưng qui mô sản xuất của các hộ nông dân thấp, chủ yếu sử dụng các lao động không chuyên nghiệp, mức đầu tư vào các thiết bị sản xuất trong phạm vi hộ thấp. Việc cơ cấu lại giống lúa cho chất lượng cao mới chỉ ở giai đoạn khởi động và diễn ra khá chậm chạp. Tổn thất ở khâu thu hoạch lúa lớn làm giảm hiệu quả sản xuất. Khâu chế biến gạo xuất khẩu còn nhiều khó khăn cả về mức công suất, trình độ công nghệ và mức độ lẫn loại của nguồn lúa nguyên liệu. Cơ sở hạ tầng nông thôn kém phát triển, chi phi vận chuyển cao làm gia tăng giá thành phẩm. Môi trường, điều kiện tiếp cânj thông tin thị trường và công nghệ còn yếu. Những qui định hạn chế tiếp cận tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Mùa vụ thu hoạch và xuất khẩu của Việt Nam trái với mùa vụ chung trên thị trường thế giới. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu gạo chưa công bằng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Khả năng giao dịch, đàm phán của các doanh nghiệp Việt Nam với khách hàng nước ngoài thấp. Hệ thống kho dự trữ, bảo quản và chuẩn bị giao hàng phân tán, qui mô nhỏ. Cơ hội Theo dự báo về nhu cầu nhập khẩu gạo trên thị trường thế giới, khả năng tăng trưởng gạo xuất khẩu trong tương lai còn rất lớn tại các khu vực thị trường thế giới. Xu hướng tự do hóa thương mại và yêu cầu mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp sẽ tác động mạnh đến chính sách tự cung về lương thực và làm tăng nhập khẩu lương thực của các nước đang nhập khẩu dòng về lương thực, như: các nước thuộc Châu á (thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam). Chính sách cắt giảm viện trợ lương thực của các nước phát triển cho các nước kém phát triển cũng làm tăng lượng nhập khẩu lương thực theo điều kiện thương mại thông thường của các nước này, nhất là với các nước Châu Phi. Những yêu cầu về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và giảm hỗ trợ trong nước sẽ làm tăng giá gạo chất lượng cao trên thị trường thế giới, nhất là giá gạo của Mỹ, Nhật Bản. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia vào thị trường gạo chất lượng cao. 4. Thách thức Cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu gạo sẽ mạnh hơn do sự tham gia của các nước xuất khẩu tiềm năng như: Trung Quốc, Pakistan, Myanmar, Campuchia… Trong ngắn hạn, việc giảm giá của đồng USD hiện nay sẽ tác động mạnh đến các nước xuất khẩu nói chung và đối với xuất khẩu gạo nói riêng. Năng lực hoạt động marketing xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam thấp và rất khó được cải thiện trong ngắn hạn. Mặc dù Việt Nam được xem là một thế lực trên thị trường lúa gạo thế giới, như thường là gắn liền với loại gạo chất lượng trung bình, thấp và độ ổn định về chất lượng kém. Việc hạ thấp chi phí xuất khẩu liên quan đến việc sử dụng cơ sở hạ tầng không thể giải quyết trong ngắn hạn. Những khó khăn trong việc phổ biến giống lúa chất lượng cao do hạn chế về nghiên cứu chuyển giao, các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất đai, qui mô sản xuất của các hộ nông dân nhỏ, lẻ, năng lực tài chính thấp. Chương III Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo của việt nam trong thời gian tới I. Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục tiêu: * Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tăng thêm khối lượng lương thực dự trữ, thoả mãn nhu cầu lương thực trong bất kỳ tình huống nào. * Đảm bảo nguồn nguyên liệu cho cung cấp công nghiệp. * Tăng năng suất cây trồng và tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu trên, các định hướng cơ bản được đề xuất là: - Tăng cường thâm canh tăng năng xuất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện. Trong đó thâm canh tăng năng suất là hướng chủ yếu lâu dài, kết hợp với nâng cao chất lượng lúa hàng hoá. Tuy nhiên, một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL có thể sẽ chuyển sang canh tác các loại hoa màu khác hay nuôi trồng thủy sản sao cho có hiệu quả kĩ thuật cao hơn. - Đa dạng hóa trong sản xuất, đa dạng hóa về chủng loại gạo (gạo thông thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp), đa dạng hóa về phẩm cấp các giống lúa (cùng một giống lúa nhưng có thể có giống siêu thuần chủng, thuần chủng cấp 1, cấp 2), đa dạng hóa nguồn lúa gạo cho xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đa dạng phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế để sản xuất ra những sản phẩm thích hợp. - Tích

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0076.Doc