Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua

phần I: khái quát chung về thị trường chứng khoán 2

1. lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. 2

2. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 3

2.1. Cơ cấu thị trường chứng khoán 3

2.1.1. Thị trường sơ cấp: 4

2.1.2. Thị trường thứ cấp: 5

2.2. Các loại chứng khoán được mua bán trên thị trường chứng khoán. 6

2.2.1. Cổ phiếu: 6

2.2.2. Trái phiếu: Khác với cổ phiếu trái phiếu đem lại cho người đầu tư ,tư cách chủ nợ của công ty (trái phiếu công ty) hay chính phủ (trái phiếu chính 6

2.3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán. 7

2.3.1. Nguyên tắc trung gian của mua bán chứng khoán. 7

2.3.2. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán. 8

2.3.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán. 8

2.4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. 9

2.4.1. Nhà phát hành chứng khoán. 9

2.4.2. Nhà đầu tư chứng khoán. 9

2.4.3. Các tổ chức trung gian. 9

3. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 10

3.1. Chức năng của thị trường chứng khoán. 10

3.2. Vai trò của thị trường chứng khoán. 10

3.2.1. Những mặt tích cực. 10

3.2.2. Những mặt tiêu cực. 12

phần II: thực trạng và phương hướng để tiếp tục 13

1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 13

1.1. Tình hình biến động của thị trường chứng khoán. 13

1.1.1. Từ ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000 - 28/10/2000. 13

1.1.2. Từ ngày 28/10/2000 - 28/04/2001. 15

1.1.3. Từ ngày 28/04/2000 - 28/07/2001. 17

1.1.4. Sự biến động của thị trường chứng khoán trong tháng 8/2001. 19

1.1.5. Từ đầu tháng 9/2001 - 02/2002. 21

1.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt nam 23

trong thời gian qua. 23

1.2.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán trong thời gian qua. 23

2.3. Giải pháp hoàn thiện để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. 26

1.3.1. Giải pháp trước mắt 27

1.3.2. Giải pháp mang tính lâu dài ( dài hạn): 30

2. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. 32

KẾT LUẬN 36

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan quản lý điều hành, các tổ chức quốc gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, điều đó tạo nên tiền đè vững trắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán Việt nam. Tình hình biến động của thị trường chứng khoán. Ngày 20/07/2000 Trung tâm Giao dịch chứng khoán đầu tiên ở Việt nam chính thức khai trương đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh. Và trung tâm thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Đến nay Trung tâm đã hoạt động được gần 3 năm. Vậy trong gần 3 năm qua hoạt động thị trường chứng khoán Việt nam biến động như thế nào? Giá cả và khối lượng hàng hoá biến động ra sao? Và đến nay đã đạt được những kết quả và có những hạn chế gì?... Để giải đáp được những câu hỏi này theo ý kiến chủ quan của tôi sự biến động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua có thể chia làm các giai đoạn như sau: Từ ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000 - 28/10/2000. Về hàng hoá: Tính đến ngày 28/10/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán có 7 loại chứng khoán được niêm yết.Tổng giá trị của 4 công ty niêm yết đạt đến 302,80 tỷ đồng trong đó: Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) 150 tỷ đồng, công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SACOM) 120 tỷ đồng, công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) 10,8 tỷ đồng, công ty cổ phần giao nhận ngoại thương (TMS) 22 tỷ đồng. Về trái phiếu: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ niêm yết 1.100 tỷ đồng bao gồm 3 loại: Loại đấu thầu đợt một (CP1-0100) 300 tỷ đồng lãi suất 6,5%/năm. Loại đấu thầu đợt hai (CP1-0200) 300 tỷ đồng lãi suất 6,6%/năm. Đợt một bảo lãnh phát hành (C P1A0100) 500 tỷ đồng lãi suất 6,6% năm. Tất cả các loại trái phiếu trên đều có kỳ hạn 5 năm. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Giá chứng khoán bị đẩy giá tăng cao liên tục trong từng phiên giao dịch, số lượng cổ phiếu đã giao dịch sau 33 phiên là 1.459.600 cổ phiếu của cả 4 công ty niêm yết và tổng giá trị giao dịch là 28.898,91 triệu đồng. Chỉ số Việt nam index tăng 28.27 điểm trong đó giá cả của các loại cổ phiếu điển hình biến động trong thời gian qua như sau: Với 5 loại cổ phiếu là REE, SAM, HAP, TMS, LAF. Bảng 1 So sánh mức giá cổ phiếu giá đóng cửa ngày 27/04/2000 so với giá tham chiếu Loại cổ phiếu Giá tham chiếu Giá đóng cửa ngày 27/10/2000 Tỷ lệ tăng (%) Mức giá (đ) Ngày REE SAM HAP TMS LAF 16.000 17.000 16.000 14.000 17.000 28/07/2000 28/07/2000 04/08/2000 04/08/2000 15/08/2000 19.100 22.800 25.000 19.500 20.500 19,4 34,1 56.25 16 20 Qua bảng số liệu trên nhận thấy giá cả của tất cả 5 loại cổ phiếu đều tăng hướng tốt phản ánh đúng cung cầu thị trường và tâm lý người đầu tư. Vậy tại sao lại có sự tăng giá đó? Nguyên nhân là do khái niệm đầu tư chứng khoán còn rất mới mới mẻ với chúng ta, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán còn hạn chế, người đầu tư tìm cách mua cổ phiếu bằng mọi giá họ chỉ muốn nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán còn những người nắm giữ cổ phiếu lại chưa muốn bán vì chờ diễn biến thị trường. Hoạt động giao dịch trái phiếu: Tính đến tháng 10/2000 tổng khối lượng giao dịch là 390 trái phiếu đạt 39,2 triệu đồng. Giá trái phiếu vẫn ở mức 100.800 đồng. Thời gian này thị trường trái phiếu tăng rất chậm nguyên nhân do người đầu tư không thực sự hiểu biết về lợi ích của đầu tư trái phiếu và do đầu tư vào trái phiếu không hấp dẫn bằng đầu tư vào cổ phiếu: lãi suất thấp mà phí giao dịch lại cao 0,5%. Trong thời kỳ này giá cổ phiếu HAP (56,25%) là tăng cao nhất và thấp nhất giá cổ phiếu của TMS (16%). Nhìn chung giá cả cổ phiếu trong thời kỳ này biến động theo chiều Nhận xét: Thời kỳ này hoạt động giao dịch cổ phiếu nói chung ổn định giá cả chứng khoán được quản lý trong phạm vi cho phép. Tình hình nhu cầu chứng khoán vượt cung cho thấy dấu hiệu tốt về khả năng thu hút đầu tư trên thị trường chứng khoán. Các công Tổng công ty lựa chọn niêm yết, hoạt động kinh doanh tốt và có lãi cổ phiếu được trả cổ tức cao hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên hàng hoá trên thị trường còn quá ít chưa đáp ứng được nhu cầu mua bán trên thị trường. 1.1.2. Từ ngày 28/10/2000 - 28/04/2001. Tính đến ngày 28/04/2001 Trung tâm Giao dịch chứng khoán-Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 80 phiên giao dịch đưa tổng số phiên giao dịch lên 113 phiên với tổnh giá trị giao dịch là 338,03 tỷ đồng. Có thêm hai loại chứng khoán được niêm yết đưa tổng số chứng khoán niêm yết lên 9 loại trong đó có 5 cổ phiếu của doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá. Và trong thời kỳ này có thêm hai công công ty tham gia niêm yết đó là: Công Tổng công ty giao nhận kho vận ngoại thương Sài Gòn-Transimex và công Tổng công ty chế biến nông sản xuất khẩu Long An- Lafooco, với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết 321,17 tỷ đồng. Trái phiếu phát hành thông qua đấu thầu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán kỳ hạn 5 năm, lãi suất 6,5%; 6,6% với khối lượng là 1.100 tỷ đồng, đợt một đưa vào niêm yết 83,07 tỷ đồng, đợt hai đưa vào niêm yết 75 tỷ đồng. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Trong 113 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 9.053.300 cổ phiếu tăng so với thời kỳ trước 520,26% với giá trị cổ phiếu giao dịch 327,225 tỷ đồng chiếm 96,8% và tình hình biến động giá cổ phiếu trong giai đoạn này được thể hiện rõ ở bảng dưới đây: Bảng 2 So sánh mức giá cổ phiếu giá đóng cửa ngày 27/04/2001 so với giá tham chiếu Loại cổ phiếu Giá tham chiếu Giá đóng cửa ngày 27/04/2001 Tỷ lệ tăng (%) Mức giá (đ) Ngày REE SAM HAP TMS LAF 16.000 17.000 16.000 14.000 17.000 28/07/2000 28/07/2000 04/08/2000 04/08/2000 15/08/2000 48.600 47.000 87.000 75.000 40.600 204 176 444 439 139 Nhìn chung tất cả các loại cổ phiếu đều tăng giá rất nhanh so với giá tham chiếu. mức giá tăng cao nhất là của HAP với mức giá đạt 87.000 đồng/cổ phiếu tương đương mức tăng 444% và giá cổ phiếu tăng ít nhất là của LAF đạt 40.600 đồng/cổ phiếu tương mức tăng 139%. Nguyên nhân của sự tăng giá này do: cung chứng khoán thấp hơn cầu chứng khoán; hiện tượng đầu tư theo trào lưu; mua chứng khoán để biết; cách thức phát hành cổ phiếu khi cổ phần hoá còn bát cập; việc định giá cổ phiếu quá thấp so với thực tế; một số các công Tổng công ty niêm yết trả cổ tức quá cao không chú trọng đến việc tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản suất, đã làm cho các nhà đầu tư đổ sô vào mua cổ phiếu với kỳ vọng nhận được cổ tức cao mà bất chấp những nguy cơ tiềm ẩn phía trước. Hoạt động giao dịch trên thị trường trái phiếu: Tính đến tháng 4/2001 khối lưọng trái phiếu giao dịch tăng thêm 107.600 trái phiếu đạt 107.990 nâng giá trị giao dịch lên 10,818 tỷ đồng chiếm 3,2% tổng giá trị giao dịch. Vào phiên thứ 105 giá trị trái phiếu khoảng 5,2 tỷ đồng và vào phiên thứ 115 với giá trị 1 tỷ đồng. Điều này có thể thấy rằng trái phiếu Chính phủ chưa thực sự hấp dẫn đối với người đầu tư. Mặc dù có độ an toàn cao nhưng lãi suất lại thấp hơn mặt bằng lãi suất thị trường (lãi suất ngân hàng khoảng 7% đến 8%/năm) nên không kích thích người mua. Mặc dù chúng ta đã cải tiến phương thức phát hành trên thị trường sơ cấp đảm bảo đủ tiêu chuẩn đưa vào niêm yết, nhưng lại xem nhẹ tính đại chúng của trái phiếu do đó trái phiếu tập trung vào một số Ngân hàng Thương mại lớn. Trong đó Ngân hang này chưa đẩy mạnh được dư nợ tín dụng nên chưa có nhu cầu bán ra dẫn đến trái phiếu Chính phủ gần như không giao dịch được. Nhận xét: trong thời kỳ này tình hình biến động chứng khoán (cổ phiếu) khá sâu sắc tăng cả về giá cả và số lượng cổ phiếu giao dịch. Điểm nổi bật trong thời kỳ này là giá của hầu hết các loại cổ phiếu tăng rất nhanh mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do yếu tố tâm lý và tình trạng cung chứng khoán nhỏ hơn cầu chứng khoán. Trong khi đó giá trái phiếu lại không có xu hướng biến động tốt mà giậm chân tại chỗ. Tuy nhiên tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trên thị trường có tăng nhưng mức yăng còn quá thấp do trái phiếu Chính phủ chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư. Từ ngày 28/04/2000 - 28/07/2001. Hàng hoá trên thị trường: tính đến ngày 28/07/2001 Thị trường Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thêm được 38 phiên giao dịch so với thời kỳ trước nâng tổng số phiên giao dịch lên 151 phiên với 14,2 triệu cổ phiếu và trên 500 trái phiếu đạt tổng giá trị giao dịch là 727 tỷ đồng. Đến thời điểm này có 5 loại trái phiếu chính phủ và hai loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch trên thị trường. Đã thực hiện được 8 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ thông qua thị trường giao dịch chứng khoán, trong đó đã tổ chức thành công 3 đợt đấu thầu tổng giá trị trái phiếu chính phủ trúng thầu là: 805 tỷ thời hạn lãi suất từ 6,5%/năm đến 7,3%/năm. Có 5 đợt đấu thầu không thành công vì lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo. Bên cạnh đó Kho bạc Nhà nước đã phát hành 2 đợt trái phiếu chính phủ theo hình thức bảo lãnh phát hành với tổng giá trị 700 tỷ đồng. Như vậy đến thời điểm này đã có 1500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán. Nhìn chung giá cả trái phiếu ít có sự biến động đáng kể, xu hướng giá trái phiếu đi vào ổn định. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Tại thời điểm này trên thị trường có 6 công Tổng công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu đăng ký niêm yết là 33,8 triệu cổ phiếu đạt giá trị là 338 tỷ đồng. Trong 151 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 14.2 triệu cổ phiếu, tổng giá trị giao dịch là 654,3 tỷ đồng chiếm 90%. Thị trường có xu hướng tăng giá. Các loại cổ phiếu tăng từ 4 đến 7 lần so với phiên giao dịch đầu tiên. Chỉ số Việt nam index tăng cao là 571 điểm, giá trị thị trường của 5 loại cổ phiếu đạt 2.301 tỷ đồng. Sự biến động giá cả của 5 loại cổ phiếu REE, SAM, HAP, TMS, LAF được thể hiện rõ dưới bảng sau đây: Bảng 3. So sánh mức tăng giá cổ phiếu ( Giá đóng cửa ) Loại cổ phiếu Giá ngày 27/4/2001 (đ) Giá ngày 01/7/2001 (đ) Tỷ lệ tăng (%) REE SAM HAP TMS LAF 48.600 47.000 87.000 75.000 40.600 82.500 64.500 109.000 115.000 82.000 70,75 32,23 25,29 52,32 101,97 Nhận xét: Trên bảng 3 cho thấy giá cả của 5 loại cổ phiếu đều tăng trong thời kỳ này, tuy nhiên mức độ tăng khác nhau của từng loại cổ phiếu. Giá ngày 01/07/2001 so với giá ngày 27/04/2001 mức tăng giá của cổ phiếu LAP là cao nhất với mức giá 82.000 đồng/cổ phiếu đạt mức tăng 101,97%, mức tăng giá của cổ phiếu HAP là thấp nhất với mức giá 109.000 dồng/cổ phiếu đạt mức tăng 25,29%. Trong thời kỳ này mức tăng của các loại cổ phiếu khá cao, nguyên nhân vẫn do thiếu hàng hoá trên thị trường dẫn tới tình trạng cầu lớn hơn cung làm cho giá cổ phiếu tăng lên nhanh chóng. Trong thời kỳ này giá cả trái phiếu ít có sự biến động so với thời kỳ trước nhìn chung giá cả có xu hướng đi vào ổn định. Sự biến động của thị trường chứng khoán trong tháng 8/2001. Về hàng hoá trên thị trường: Trong tháng 8, về khối lượng giao dịch chứng khoán trên thị trường, tổng khối lượng giao dịch là 2.114.890, trong đó cổ phiếu là 2.103.200 chiếm 99.4%, trái phiếu là 11.690, chiếm gần 0.5% tổng khối lượng giao dịch trên thị trường. Tháng 8 là tháng có số lượng trái phiếu giao dịch ít nhất từ trước tới nay, về giá trị chứng khoán giao dịch trên thị trường tổng giá trị giao dịch là 107,44 tỷ đồng, giá trị cổ phiếu thực hiện trong giao dịch đạt 106,3 tỷ đồng và giá trị trái phiếu là 1,1 tỷ đồng. Cũng trong tháng 8 thị trường trái phiếu có thêm hai mặt hàng mới là CP1A0101 và CP10401, nâng tổng số trái phiếu giao dịch trên thị trường lên 9 loại, với tổng giá trị niêm yết là 1.626,838 tỷ đồng. Hoạt động giao dịch cổ phiếu trên thị trường: Thực trạng diễn biến của thị trường chứng khoán trong tháng 8 có thể đấu thầu chi tiết như sau: trong tổng số 14 phiên giao dịch, chỉ duy nhất có một phiên thứ 156 ngày 8/8là giá 5 loại cổ phiếu tăng kịch trần còn lại hầu như tất cả các phiên giá đều giảm. Và sự biến động nay được thể hiện rõ trong bảng 4 dưới đây. Bảng 4 So sánh mức tăng giá cổ phiếu (Giá đóng cửa) Loại cổ phiếu Giá ngày 01/7/2001 (đ) Giá ngày 24/8/2001 (đ) Tỷ lệ tăng (%) REE SAM HAP TMS LAF 82.500 64.500 109.000 115.000 82.000 45.300 42.300 90.000 55.500 42.800 - 45,09 - 34,42 - 17,43 - 51,74 - 47,81 Qua bảng 4 cho thấy giá cổ phiếu giảm mạnh nhất là TMS, giảm 59.500 đồng/cổ phiếu tương đương mức giảm 51,74% (tính từ phiên giao dịch ngày 01/07/2001 đến ngày 24/08/2001); tiếp theo đến giá cổ phiếu LAF giảm 39.200 đồng/cổ phiếu tương đương mức giảm 47,81%; cổ phiếu REE giảm 37.200 đồng/cổ phiếu tương đương mức giảm 45,09%; cổ phiếu SAM giảm 22.200 đồng/cổ phiếu tương đương mức giảm 34,42%; và cổ phiếu giảm ít nhất là HAP 19.000 đồng/cổ phiếu tương đương mức giảm 17,43%. Sự biến động trên thị trường trái phiếu: Các loại trái phiếu mới chưa có giao dịch nên cũng chưa hình thành giá hiện thời. Các giao dịch chủ yếu tập trung vào 2 loại BID1-100 và BID1-200 của Ngân hành Đầu tư và Phát triển Việt nam. Trong đó, riêng BID1-100 có 8.750 trái phiếu được giao dịch chiếm 74,85% tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trong tháng. Nhìn chung giá các loại trái phiếu có tăng nhẹ. Nhận xét: trong thời kỳ này giá của 5 loại cổ phiếu trên đều giảm giá nhìn chung do những nguyên nhân cơ bản sau đây: do trong một thời gian dài giá chứng khoán đã tăng liên tục và cao hơn nhiều so với giá trị thực của nó; nguyên nhân trực tiếp, đó là trong thời gian qua một số tổ chức cầm cố chứng khoán hiện nay ồ ạt bán ra một lượng lớn cổ phiếu đang cầm cố làm tăng đột biến lượng chứng khoán bán ra trên thị trường và đã tác động đến giá chứng khoán theo quy luật cung cầu; Còn có một nguyên nhân khác là do yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư khi đón nhận xu hướng chứng khoán sẽ giảm giá do đó làm tăng thêm độ sụt giảm của giá cổ phiếu trên thị trường khi họ chủ động bán tháo cổ phiếu hòng tránh tổn thất. Giá cả cổ phiếu trong thời kỳ này giảm rất mạnh, xu hướng biến động này ảnh hưởng không xấu đến thị trường chứng khoán trong tương lai do đó Nhà nước cần phải có biện pháp can thiệp để khắc phục hiện tượng này. Từ đầu tháng 9/2001 - 02/2002. Sau sự biến động sụt giảm giá của các loại cổ phiếu trong tháng 8/2001, cho đến tháng 10/2001 thị trường chứng khoán Việt nam đã có những chuyển hướng tích cực: giá của 6 loại cổ phiếu trên thị trường đều tăng trở lại qua từng phiên giao dịch sau một thời gian dài sụt giảm. Từ phiên giao dịch thứ 182 ngày 10/10/2001 biên độ giao dịch chứng khoán thu hẹp từ ± 7% trở về ± 2%. Cũng trong tháng 10 này thị trường xuất hiện thêm chủng loại hàng hoá. Đó là cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần Đồ hộp Hạ long (công Tổng công ty CANFOCO với mã hiệu giao dịch cổ phiêú CAN) và hai chủng loại trái phiếu Chính phủ mới là CP1 - 0701 và CP1 - 0801. Sau một thời gian dài thay đổi thị trường chứng khoán trong trạng thái trầm lắng và mặc dù từng bước phục hồi trở lại từ những phiên giao dịch vaò trung tuần tháng 10 nhưng chỉ ở mức cầm chừng. Trong tháng 10 tổng khối lượng chứng khoán được thực hiện giao dịch đạt 2.475.880 chứng khoán tăng 38,5% so với tháng 9, tương đương 688.000 chứng khoán và tổng giá trị giao dịch là 87,3 tỷ đồng tăng 13% tương đương 10,6 tỷ đồng. Trong tháng 11/2001 thị trường chứng khoán Việt nam xuất hiện thêm hai loại cổ phiếu mới được cấp giấy phép niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần nhựa Đà Nẵng (mã chứng khoán là DPC) chính thức được giao dịch vào phieen thứ 203 ngày 28/11 và cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà và sẽ được giao dịch vào tháng 12/2001. Sự xuất hiện của hai loại cổ phiếu cung cấp cho thị trường thêm 7,18 triệu chứng khoán, trị giá 71,8 tỷ đồng. Trên thị trường đã có 9 loại cổ phiếu được niêm yết. Tổng khối lượng chứng khoán giao dịch trêntt là 1.279.630 chứng khoán trong đó: cổ phiếu 1.227.300, trái phiếu 52.330. Thời kỳ này trên thị trường có thêm 3 loại trái phiếu Chính phủ: CP1 - 0901; CP1A0201; CP1 - 1001, nâng chủng loại hàng hoá trên thị trường hiện nay lên 24 loại bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu, nhìn chung không có sự biến động lớn về giá cả trái phiếu trên thị trường. Sự biến động giá cả và số lượng cổ phiếu trên thị trường trong tháng 1 và 2/2002 nhìn chung không có sự biến động lớn và dưới đây là giá của 5 loại cổ phiếu biến động so với thời kỳ trước như sau: Bảng 5 So sánh mức tăng giá cổ phiếu (Giá đóng cửa) Loại cổ phiếu Giá ngày 24/8/2001 (đ) Giá ngày 28/2/2002 (đ) Tỷ lệ tăng (%) REE SAM HAP TMS LAF 45.300 42.300 90.000 55.500 42.800 85.600 63.400 112.000 124.000 85.000 88,96 49,88 24,44 123,42 98,6 Nhận xét: Trong thời kỳ này có sự chuyển biến đáng lưu ý là trên thị trường giao dịch chứng khoán đã xuất hiên sự tăng giá trở lại của 5 loại cổ phiếu sau một thời gian dài đồng loạt sụt giá. Bảng trên cho thấy mức giá tăng trở lại mức tăng cao nhất là giá của cổ phiếu TMS đạt 124.000 đ/cổ phiếu tương đương tăng 123,42% và mức tăng giá thấp nhất là giá cổ phiếu HAP đạt 112.000 đ/cổ phiếu tương đương mức tăng 24,44%. Nguyên nhân của sự tăng giá này là do sự xuất hiện của nhiều nhà đầu tư nước ngoài làm tăng lượng cầu cho hàng hoá dẫn đến sự tăng giá trở lại nhanh chóng...trong thời kỳ này có sự xuất hiện của nhà đầu tư nước ngoài đây là cơ hội tốt có thể thu hút nguồn vốn từ nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán để tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh. Chủng loại hàng hoá trên thị trường cũng đa dạng so với ngày đầu khai trương nhưng số lượng vẫn còn hạn chế, thời kỳ này giá chứng khoán trên thị trường có xu hướng tăng dự báo một thị trường chứng khoán Việt nam phát triển hơn nữa trong tương lai. Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt nam trong thời gian qua. 1.2.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán trong thời gian qua. Trong thời gian qua thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động tuy thời gian hoạt động không phải là dài nhưng thị trường chứng khoán đã từng bước trở thành kênh huy động vốn quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh. Đến nay thị trường chứng khoán đã hoạt động được 3 năm, bên cạnh những thành công kết quả to lớn ở trên thì thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn tồn taị những hạn chế cơ bản sau: Thứ nhất: Về hàng hoá, đã nói đến thị trường là phải nói đến hàng hoá cho thị trường đó, song trên thực tế hàng hóa của TTCK Việt nam còn rất nghèo nàn cả về số lượng và chủng loại: có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng khan hiếm này ví dụ như những công ty cổ phần có đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán còn rất hạn chế , một phần do thị trường chứng khoán Việt nam còn mới hình thành trong thời gian ngắn nên dẫn đến chưa có nhiều chủng loại hàng hoá, nguồn cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán chủ yếu là từ các công ty cổ phần mà tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước vẫn diễn ra chậm chạp. Khối luợng hàng hoá niêm yết giao dịch trên thị trường chưa nhiều, phạm vi hoạt động của thị trường còn hẹp, rất ít cổ phiếu được niêm yết trong khi đó nhu cầu đầu tư cổ phiếu của công chúng lại lớn, tạo ra sự mất cân đối giữa cung và cầu. Mặc dù Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã phối hợp giữa các bộ nghành liên quan và trực tiếp làm việc với một số doanh nghiệp để hướng dẫn việc tham gia niêm yết nhưng kết quả đến nay vẫn còn rất han chế . Nhiều doanh nghiệp chưa tham gia niêm yết vì thực tế họ chưa có nhu cầu về vốn ( một số doanh nghiệp được ngân sách cấp hoặc được vay ưu đãi ).Tâm lý còn ngại kiểm toán công khai tài chính và công bố thông tin. Mặt khác các doanh nghiệp hầu như chưa thấy hết dược lợi ích của việc tham gia niêm yết. Trái phiếu chính phủ tuy đã được đưa ra niêm yết nhưng số lượng giao dịch còn thấp nguyên nhân chính là do lãi suất trái phiếu thấp hơn mặt bằng lãi suất hiện nay nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Trái phiếu phát hành qua đấu thầu và bảo lãnh phát hành, đều do các tổ chức tín dụng, bảo hiểm mua và nắm giữ. Các tổ chức này trong tình trạng thừa vốn nên họ nắm giữ trái phiếu không có nhu cầu bán lại nên hàng hoá khan hiếm. Trong thời gian qua giá cả của các hàng hoá luôn biến động theo chiều hướng tăng lên( rất tăng so với ngày đầu phát hành ) nguyên nhân do mất cân đối giữa cung và cầu hàng hoá ( cung quá nhỏ so với cầu )... Người mua nhiều nhưng người bán lại ít do đó giá chứng khoán bị đẩy lên cao là tất yếu. Mặt khác do nhà đầu tư không muốn bán non cổ phiếu nên tiếp tục găm giữ để hy vọng tăng giá. Thứ hai: Năng lực của đội ngũ nhân viên còn yếu về nghiệp vụ. Chính vì khái niệm và hình thức đầu tư chứng khoán ở Việt Nam còn rất mới mẻ nên nhìn chung thực tế hoạt động của các công ty chứng khoán trong thời gian vừa qua cho thấy có rất nhiều nhân viên môi giới tại đây chưa được đào tạo đầy đủ một cách có hệ thống. Có người mới trải qua những lớp học ngắn hạn hoặc chỉ vừa mới ra trường. Hơn nữa thị trường chứng khoán mới lần đầu xuất hiện ở Việt Nam nên kinh nghiệm và thực tiễn của những nhân viên này còn rất hạn chế khi có những biên động hay sự cố trên thị trường chứng khoán họ cũng lúng túng không kém gì nhà đầu tư.Trong khi đó số người được đi đào tạo từ nước ngoài về còn rất ít không có đủ khả năng làm thay đổi bộ mặt của TTCK Việt Nam vì họ cũng chưa tinh thông luật và thực tế thị trường cụ thể ở đây. Nếu đội ngũ này tăng lên đông đảo thì chắc chắn TTCK Việt Nam sẽ có những thay đổi đáng kể và nhà đầu tư sẽ mạnh dạn hơn trong đầu tư chứng khoán . Mặt khác trên thị trường chứng kháon vẫn có một số nhà đầu tư chưa hiểu rõ và chưa phân tích kỹ các yếu tố tham gia đầu tư nên có xu hướng mua và găm giữ nên giá cổ phiếu tăng quá cao không phản ánh đúng giá trị đích thực của nó. Thứ ba: Hệ thống pháp lý còn lỏng lẻo và còn nhiều bất cập. Thị trường chứng khoán là một hình thức đầu tư rất mới ở Việt Nam do đó cần có pháp luật để điều chỉnh để đảm bảo an toàn công bằng và hợp pháp. Mặc dù trong lĩnh vực hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoan đã có những văn bản pháp quy điều chỉnh như Nghị định số 44/1998/NĐ_CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định số 22/2000/NĐ_CP về sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và nhiều quyết định thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện NĐ do các bộ ngành liên quan ban hành nhưng cho tới nay ta vẫn chưa ban ban hành bộ luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán một cách có hệ thống.Trong khi đó một số quyết định trên lại có những điều khoản mâu thuẫn và nhiều điều khoản chưa quy định hình phạt cụ thể .Chính điều này đã làm cho nhiều nhà đầu tư cảm thấy không được bảo vệ. Bên cạnh đó vẫn còn khe hở pháp luật từ những văn bản pháp quy trong lĩnh vưc này. Mặt khác, còn có sự chậm chễ cồng kềnh trong công tác triển khai. Sự yếu kém chậm chễ không theo kịp chuyển biến của xã hội là trở ngại lớn cho việc phát triển thị trường, công tác thực thi pháp luật còn chưa nghiêm việc xử lý phạt còn nhiều vận dụng tuỳ tiện của một số cán bộ công chức nhà nước. Thứ tư: Hoạt động công bố thông tin và giám sát trên thị trưòng chứng khoán tuy đã đạt được một số kết quả nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thị trường do quy mô nhỏ nguồn vốn đầu tư ban đầu ít. Việc cung cấp thông tin và giám sát thị trường vẫn còn nhiều hạn chế. Thứ năm: Công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức cho công chúng có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tạo cho người đầu tư nắm rõ nguyên tắc cơ chế hoạt động của thị trường, hiểu được lợi ích cũng như rủi ro khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Thời gian qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến kiến thức cho công chúng mở lớp học miễn phí nhưng chưa làm được nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu đông đảo của quần chúng. Do đó, hầu hết người dân có tiền đều gửi tiết kiệm mà không nghĩ đến đầu tư chứng khoán vì họ không biết nguyên tắc và cách thức đầu tư, còn rất mơ hồ về thị trường chứng khoán, chính vì thế mà thị trường chứng khoán Việt nam trong thời gian qua chưa trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả. Thứ sáu: Do sự phối hợp không đồng bộ giữa thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ. Có thể nói thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ được coi là kết cấu của hai chiếc bình thông nhau nên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng ở thị trường chứng khoán Việt Nam điều này hoàn toàn chưa có. Thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ vẫn đi trên hai con đường khác nhau và ít có mối quan hệ. Điều này dẫn đến một khó khăn lớn là người ta khó có thể dự đoán được tình hình của thị trường chứng khoán dựa trên động thái của thị trường tiền tệ. Mối quan hệ tách bạch giữa hai thị trường này làm cho hoạt động của chúng trở nên rời rạc và không có sư hỗ trợ lẫn nhau. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán dễ bị chi phối bởi những người nắm trong tay một lượng lớn cổ phiếu và hơn nữa khi có biến động xảy ra người ta khó có thể sử dụng những nghiệp vụ của thị trường tiền tệ để tác động gián tiếp hay trực tiếp để bình ổn hoạt động của thị trường chứng khoán. 2.3. Giải pháp hoàn thiện để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. Qua hơn hai năm đi vào hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh cũng là thời gian vừ vận hành vừa thử nghiệm, vừa điều chỉnh khung pháp lý phù hợp với thực tiễn thị trường

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0577.doc
Tài liệu liên quan