Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

PHÇN i: THùC TR¹NG H¹CH TO¸N KÕ TO¸N TRONG C¸C doanh nghiÖp dÖt may viÖt nam 1

1.1 Tổng quan về tình hình phát triển doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam 1

1.1.1 Vai trò của doanh nghiệp dệt may trong cơ cấu nền kinh tế 1

1.1.2 Thực trạng phát triển doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam 5

1.1.3 Doanh nghiệp dệt may trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế 9

1.2 Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 12

1.2.1 Tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may thuộc sở hữu nhà nước 14

1.2.2 Tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may ngoài quốc doanh 20

1.3 Nhận xét về thực trạng tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 26

PhÇn 2: ph­¬ng h­íng vµ gi¶i ph¸p hoµn thiÖn tæ chøc h¹ch to¸n kÕ to¸n trong c¸c doanh nghiÖp dÖt may viÖt nam 36

2.1 Phương hướng hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 36

2.1.1 Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải phù hợp với cơ chế quản lý hiện nay - cơ chế thị trường định hướng XHCN 36

2.1.2 Tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may phải phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế, hội nhập kế toán quốc tế 38

2.1.3 Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với đặc điểm tổ chức, hoạt động, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp 38

2.2 Giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 39

2.2.1 Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán 39

2.2.2 Hoàn thiện hệ thống chứng từ kế toán 44

2.2.3 Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán 45

2.2.4 Hoàn thiện hệ thống sổ kế toán 47

2.2.5 Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính 47

2.2.6 Ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp dệt may 48

2.3 Điều kiện cơ bản để thực hiện các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 49

2.3.1 Về phía Nhà nước và các cơ quan chức năng 50

2.3.2 Về phía doanh nghiệp 51

PHỤ LỤC.52

 

doc94 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển khai Luật vào thực tiễn của các doanh nghiệp chưa được quan tâm. Công tác kiểm tra kế toán theo các điều 35 đến 38 Luật Kế toán chưa được triển khai. Cho đến nay, chỉ cơ quan thuế quan tâm, kiểm tra công tác kế toán của doanh nghiệp. Song, việc kiểm tra công tác kế toán doanh nghiệp của cơ quan thuế chỉ nhằm mục đích thuế, do đó không thể toàn diện. Hơn nữa, theo quy định hiện hành, cơ quan thuế không có thẩm quyền trong việc xử lý phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán. Trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, những sai sót của doanh nghiệp về công tác kế toán nhiều khi không được xử lý nghiêm minh. Để từng bước đưa chế độ kế toán Việt Nam hòa nhập cùng chế độ kế toán của các nước trên thế giới, những năm qua, Bộ Tài chính đã tích cực nghiên cứu và ban hành được 26 chuẩn mực kế toán. Đó là một cố gắng lớn, đáng ghi nhận. Song, việc nghiên cứu, ban hành các chuẩn mực kế toán là quan trọng nhưng quan trọng hơn là đưa chúng vào thực tiễn. Nghiên cứu, tiếp thu các chuẩn mực kế toán là công việc rất phức tạp, ngay cả với những cán bộ kế toán được đào tạo chính quy. Do đó, ban hành các chuẩn mực kế toán chưa phải đã là hoàn thành nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, ở không ít doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay, còn rất nhiều cán bộ kế toán vẫn chưa tìm hiểu, thậm chí chưa biết đến chuẩn mực kế toán. Về thực hiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp dệt may quy mô vừa và nhỏ: đi sâu vào phân tích, đánh giá các kỳ quyết toán thuế, nhiều doanh nghiệp tư nhân thực hiện chế độ kế toán chưa đạt yêu cầu, chưa theo đúng trình tự ghi chép sổ sách kế toán, nhất là việc kế toán quỹ tiền mặt không tuân theo các quy định của chế độ kế toán, không kiểm kê và không phản ánh được tiền mặt tồn cuối kỳ. Tình trạng sử dụng lao động không có hợp đồng, chi trả tiền lương, tiền công phản ánh không đúng sự thực diễn ra khá phổ biến. Các quy định về hạch toán tài sản cố định chưa tuân thủ, nhiều dịch vụ mua ngoài vừa dùng cho sinh hoạt vừa dùng cho sản xuất kinh doanh chưa phân bổ được, hầu hết đưa vào sản xuất kinh doanh chịu. Vấn đề kê khai thuế hàng tháng và quyết toán thuế vẫn còn chậm so với yêu cầu của luật, đặc biệt là các phạm vi về quản lý sử dụng hoá đơn vẫn còn nhiều... PhÇn 2 ph­¬ng h­íng vµ gi¶i ph¸p hoµn thiÖn tæ chøc h¹ch to¸n kÕ to¸n trong c¸c doanh nghiÖp dÖt may viÖt nam 2.1 Phương hướng hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 2.1.1 Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải phù hợp với cơ chế quản lý hiện nay - cơ chế thị trường định hướng XHCN Chúng ta đã biết hạch toán kế toán ra đời, tồn tại và phát triển xuất phát từ nhu cầu phải giám đốc và quản lý hoạt động kinh tế. Xã hội càng phát triển thì mức độ quan tâm của con người đến hoạt động sản xuất càng tăng, nghĩa là càng cần phải tăng cường quản lý sản xuất, theo đó hạch toán kế toán cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện về phương pháp và hình thức tổ chức. Như vậy, hạch toán kế toán phải phụ thuộc thường xuyên, trực tiếp vào cơ chế quản lý điều hành nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay ở nước ta là cơ chế thị trường định hướng XHCN. Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung phải phù hợp với cơ chế đó. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những nét đặc trưng sau: - Đó là nền kinh tế hoạt động tuân thủ theo các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị.... trong đó quy luật giá trị chi phối các quy luật khác. - Đó là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhwn) với nhiều thành phần kinh tế. Nhà nước khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. - Đó là nền kinh tế có sự điều tiết của Nhà nước, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch... qua đó tạo ra môi trường pháp lý cho các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp hoạt động. - Đó là nền kinh tế trong đó các doanh nghiệp với mục tiêu trước hết là lợi nhuận, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh; các doanh nghiệp có tính tự chủ cao về điều hành doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp lý đã thiết lập; Các doanh nghiệp hoàn toàn bình đẳng, không có bảo hộ, độc quyền, giá mua và giá bán đều hình thành trên thị trường, kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp, lợi ích chung toàn xã hội và lợi ích người lao động,thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động. - Đó là nền kinh tế trong quá trình hội nhập với các nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới, là nền kinh tế mở cùng với việc mở rộng các quan hệ kinh tế song phương và đa phương với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Tất cả những đặc trưng trên đây của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp, trong đó có quản lý hoạt động tài chính. Hạch toán kế toán là một công cụ quản lý tài chính quan trọng vì vậy việc hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp phải phù hợp với các đặc trưng này, có như vậy mới đảm bảo được chứng năng của HTKT, cung cấp những thông tin hữu ích cho các nhà quản lý trong việc ra quyết định, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. 2.1.2 Tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may phải phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế, hội nhập kế toán quốc tế Theo xu thế thời đại, khi thế giới chúng ta đang ngày càng thu hẹp lại, các giao dịch xuyên quốc gia đang ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ hơn, tất cả các quốc gia đang tìm cách hoà hợp các Chuẩn mực kế toán trong nước với các Chuẩn mực quốc tế. Chính vì thế, cùng với các lĩnh vực khác của Việt Nam đang trong quá trình tiến tới một khuôn khổ pháp lý chung, ngành kế toán Việt Nam cũng theo con đường đó - Con đường duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế để phát triển nghề nghiệp kế toán Việt Nam phù hợp với thông lệ chung được thừa nhận nhằm đạt được sự công nhận của khu vực và quốc tế, khẳng định chất lượng của cán bộ kế toán Việt Nam, góp phần phát triển nền kinh tế, tài chính đất nước ta. Trong xu thể đó, việc xây dựng khuôn khổ pháp lý về kế toán của Nhà nước cũng như việc tổ chức HTKT tại mỗi doanh nghiệp không được trái với quan điểm hội nhập kinh tế, hội nhập kế toán để HTKT thực sự là một công cụ quản lý tài chính hữu ích trong nền kinh tế mở. 2.1.3 Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với đặc điểm tổ chức, hoạt động, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp Qua nghiên cứu cho thấy, trình độ quản lý, trình độ kế toán của các doanh nghiệp dệt may không đồng đều. Các doanh nghiệp có quy mô lớn, thường là doanh nghiệp nhà nước hoặc các công ty cổ phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước có trình độ cao hơn, khả năng cập nhật, áp dụng các chế độ, chuẩn mực chính sách tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Hệ thống kế toán trong các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ còn rất nhiều bất cập. Chính vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các chính sách, chế độ, chuẩn mực kế toán phải xem xét trên cơ sở điều kiện thực tế của các doanh nghiệp. Hoàn thiện chính sách, chế độ kế toán phải theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, phù hợp với trình độ, khả năng áp dụng của các doanh nghiệp và khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo thực hiện được chức năng thông tin và kiểm tra của kế toán. 2.2 Giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 2.2.1 Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán Công tác kế toán trong mỗi doanh nghiệp có hiệu quả hay không, thông tin kế toán có đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy hay không phụ thuộc rất lớn vào cách thức tổ chức bộ máy kế toán của doanh nghiệp. Chính vì vậy, hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán không thể bỏ qua yêu cầu hoàn thiện bộ máy kế toán. Thứ nhất, lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy kế toán phù hợp Tổ chức bộ máy kế toán tại các doanh nghiệp có thể thực hiện theo một trong ba mô hình: Mô hình kế toán tập trung, mô hình kế toán phân tán và mô hình kế toán hỗn hợp. Trong đó, mô hình kế toán tập trung thường phù hợp với doanh nghiệp có quy mô nhỏ hoặc vừa, tổ chức hoạt động tập trung trên cùng một địa bàn, hoặc ở những đơn vị có quy mô lớn, địa bàn hoạt động rộng nhưng đã trang bị và ứng dụng phương tiện kỹ thuật ghi chép tính toán, thông tin hiện đại, tổ chức quản lý tập trung. Đối với những doanh nghiệp có quy mô vừa, quy mô lớn, địa bàn hoạt động phân tán, chưa trang bị và ứng ựng phương tiện kỹ thuật ghi chép, tính toán và thông tin hiện đại, có sự phân cấp quản lý tương đối toàn diện cho các bộ phận phụ thuộc nên lựa chọn mô hình kế toán phân tán. Còn lại những doanh nghiệp có quy mô vừa, quy mô lớn, tổ chức hoạt động tập trung trên một địa bàn, đồng thời có một số bộ phận phụ thuộc đơn vị hoạt động phân tán trên một số địa bàn khác nhau, chưa trang bị và ứng dụng phương tiện kỹ thuật ghi chép, tính toán, thông tin hiện đại trong công tác kế toán, có sự phân cấp quản lý tương đối toàn diện cho các bộ phận phụ thuộc hoạt động trên các địa bàn phân tán thì mô hình tổ chức kế toán thích hợp là mô hình hỗn hợp, nửa tập trung, nửa phân tán. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp dệt may hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ (90% có số vốn dưới 5 tỷ đồng). Trong đó có không ít doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ. Chính vì vậy, để đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong tổ chức hạch toán kế toán, không phải doanh nghiệp nào cũng phải tổ chức bộ máy kế toán thành phòng ban mà có thể bố trí người làm kế toán hoặc thuê kế toán từ bên ngoài, thậm chí cả kế toán trưởng. Điều 48. Tổ chức bộ máy kế toán - Luật kế toán có quy định: “Đơn vị kế toán phải tổ chức bộ máy kế toán, bố trí người làm kế toán hoặc thuê làm kế toán. Đơn vị kế toán phải bố trí người làm kế toán trưởng. Trường hợp đơn vị kế toán chưa bố trí được người làm kế toán trưởng thì phải cử người phụ trách kế toán hoặc thuê người làm kế toán trưởng”. Như vậy điều này hoàn toàn đúng luật và phù hợp với xu hướng hiện nay, kế toán không còn là công việc phải gắn với người trong doanh nghiệp mà đã trở thành một loại dịch vụ, có thể thuê mướn. Thứ hai, sử dụng lao động kế toán một cách hợp lý, hiệu quả. Dựa trên khối lượng công việc kế toán trong doanh nghiệp, yêu cầu quản lý của doanh nghiệp xác định số lượng nhân viên kế toán cần thiết. Trên cơ sở khối lượng, tính chất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, trình độ, năng lực của nhân viên kế toán để bố trí công việc cho hợp lý, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu công việc đồng thời tạo được mối quan hệ chỉ đạo, phối kết hợp giữa các vị trí trong bộ máy kế toán. Để bộ máy kế toán hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thông tin của nhà quản lý và các đối tượng có liên quan, doanh nghiệp tuân thủ các quy định khi tổ chức bộ máy kế toán, đó là: Phải bố trí người làm kế toán hoặc thuê kế toán, có chuyên môn nghiệp vụ kế toán; phải bố trí người làm kế toán trưởng, trường hợp đơn vị chưa bố trí được người làm kế toán trưởng thì phải cử người phụ trách kế toán hoặc thuê người làm kế toán trưởng (Điều 48 Luật Kế toán). Người làm kế toán phải có tiêu chuẩn: Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật. Có trình độ chuyên môn về nghiệp vụ kế toán. Luật Kế toán quy định người làm kế toán có quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ kế toán (Điều 50 Luật Kế toán). Theo Luật Kế toán đơn vị không được bố trí những người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị cấm hành nghề, cấm làm kế toán theo bản án hoặc quyết định của tòa án, đang phải truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc đang chấp hành hình phạt tù về các tội về kinh tế có liên quan đến tài chính kế toán mà chưa được xóa án. Hoặc không được bố trí bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh chị em ruột làm kế toán kể cả thủ kho, thủ quỹ ở cùng đơn vị của người có trách nhiệm điều hành đơn vị, kể cả kế toán trưởng ở công ty cổ phần, hợp tác xã... (Điều 51 Luật Kế toán). Riêng kế toán trưởng phải lựa chọn những người thỏa mãn như người làm kế toán nói trên, ngoài ra cần có trình độ nghiệp vụ trung cấp đã có thời gian công tác thực tế về kế toán ít nhất là 3 năm; hoặc người có trình độ đại học kế toán trở lên và có thời gian thực tế về công tác kế toán ít nhất là 2 năm (Điều 53 Luật Kế toán). Luật Kế toán quy định đối với người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán (giám đốc, tổng giám đốc...) có trách nhiệm tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán trưởng theo đúng tiêu chuẩn quy định của Luật Kế toán: Có quyết định thuê người làm kế toán, thuê làm kế toán trưởng. Có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác kế toán trong đơn vị kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán và chịu trách nhiệm về hậu quả do những sai trái mà mình gây ra (Điều 49 Luật Kế toán). Thứ ba, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ của đội ngũ kế toán viên trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nhận thức được vai trò của công tác kế toán và có sự đầu tư thích đáng vào hoạt động đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như trình độ ứng dụng công nghệ thông tin, cập nhật thông tin về lĩnh vực kế toán cho nhân viên kế toán dưới các hình thức mở các lớp tập huấn, gửi đi đào tạo ... Thứ tư, quan tâm và củng cố hệ thống kế toán quản trị. Những năm gần đây, các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm rất nhiều về kế toán quản trị để nâng cao chất lượng quản lý. Kế toán quản trị được định nghĩa theo nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên tất cả đều thống nhất chung mục đích kế toán quản trị cung cấp thông tin định lượng tình hình kinh tế - tài chính về hoạt động doanh nghiệp cho các nhà quản trị ở doanh nghiệp và kế toán quản trị là một bộ phận kế toán linh hoạt do doanh nghiệp xây dựng phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật, tổ chức quản lý. Kế toán quản trị đã tồn tại rất lâu trong hệ thống kế toán doanh nghiệp; tuy nhiên, kế toán quản trị chỉ mới được hệ thống hoá và phát triển một cách hệ thống về lý luận và thực tiễn ở những thập kỷ gần đây trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô, sự tiến bộ nhất định về khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, điều kiện xử lý thông tin. Kế toán quản trị đã trở thành yêu cầu cấp bách trong xây dựng hệ thống thông tin kế toán vào đầu những năm 2000 khi các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng quản lý để tăng năng lực cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh không những ở phạm vị thị trường Việt Nam mà còn mở rộng ra thị trường khu vực, thị trường thế giới. Về mặt luật pháp, thuật ngữ kế toán quản trị cũng chỉ vừa được ghi nhận chính thức trong luật kế toán Việt Nam ban hành ngày 17.5.2003. Qua phân tích lý luận, thực tiễn trên về kế toán quản trị và kết hợp với định hướng phát triển của chính sách kế toán Việt Nam, môi trường kế toán kế toán Việt Nam, việc xây dựng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng phải hướng đến tính linh hoạt, hữu ích và quyền lựa chọn ở doanh nghiệp. Để đảm bảo định hướng này, cần phải phối hợp đồng bộ những giải pháp cơ bản sau : - Về phía Nhà nước: không nên ràng buộc và can thiệp quá sâu vào nghiệp vụ kỹ thuật kế toán quản trị ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bằng chính sách kế toán hay những quy định trong hệ thống kế toán doanh nghiệp mà chỉ nên dừng lại ở sự công bố khái niệm, lý luận tổng quát và công nhận kế toán quản trị trong hệ thống kế toán ở doanh nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cần hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong đào tạo nhân lực, nghiên cứu, triển khai, phát triển kế toán quản trị và về lâu dài Nhà nước cần tổ chức các ngân hàng tư liệu thông tin kinh tế - tài chính có tính chất vĩ mô để hỗ trợ tốt hơn trong việc thực hiện nghiệp vụ kế toán quản trị ở doanh nghiệp. - Về phía các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, để áp dụng kế toán quản trị cần phải giải quyết căn bản những cơ sở sau : ° Tổ chức và hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất kinh doanh; từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng sản xuất kinh doanh. ° Xác lập hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh và định hướng phát triển hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh để làm cơ sở xác lập, định hướng thiết kế, xây dựng mô hình kế toán quản trị. ° Xác lập và cải tiến nội dung, mối quan hệ trong công tác kế toán hiện nay (đa số nội dung công tác kế toán của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay chỉ tập trung vào công tác kế toán tài chính), cải tiến mối quan hệ giữa bộ phận kế toán với các bộ phận quản lý, bộ phận sản xuất kinh doanh. ° Nhanh chóng tuyển dụng và đào tạo lại nhân sự kế toán với định hướng đa dạng hoá nghiệp vụ và sử dụng thành thạo các công cụ xử lý thông tin hiện đại. ° Nhanh chóng phát triển và kiện toàn hệ thống xử lý thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh tự động hoá. Đây là điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật tiền đề áp dụng kế toán quản trị và kế toán quản trị chỉ có thể áp dụng, tác động tích cực, hiệu quả với điều kiện xử lý thông tin hiện đại. - Về phía các tổ chức đào tạo, tư vấn về quản lý kinh tế, kế toán : ° Sớm đổi mới, hoàn thiện chương trình đào tạo kế toán quản trị ° Gắn liền đào tạo chuyên viên kế toán trên công cụ xử lý thông tin hiện đại. ° Phân định rõ chương trình, cấp bậc đào tạo từ thấp đến cao để giúp doanh nghiệp có một nhận định đúng về trình độ kế toán của người học trong việc xây dựng chiến lược nhân sự ° Thực hiện phương châm đào tạo gắn liền với thực tiễn và phục vụ cho việc phát tiển thực tiễn thông qua tổ chức hội thảo kế toán, liên kết đào tạo theo nhu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 2.2.2 Hoàn thiện hệ thống chứng từ kế toán Nhìn chung, hệ thống chứng từ kế toán hiện nay do Bộ Tài chính ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC về Chế độ kế toán doanh nghiệp và Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tương đối đầy đủ, bao quát được các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo được yêu cầu quản lý công tác kế toán của Nhà nước, nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn tại sau: Nên giảm bớt chủng loại chứng từ kế toán bắt buộc và tăng cường hệ thống chứng từ hướng dẫn, theo đó cần đơn giản hoá nội dung chứng từ, thống nhất quy cách biểu mẫu chứng từ. Giảm bớt số lượng chứng từ theo hướng sử dụng những chứng từ liên hợp, chứng từ sử dụng nhiều lần. Để đảm bảo tính mở của hệ thống chứng từ, Nhà nước có thể không quy định về mẫu biểu chứng từ mà cho phép doanh nghiệp tự in mẫu biểu chứng từ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Song, để đảm bảo pháp lý của chứng từ, Nhà nước cần có hướng dẫn về nội dung cũng như các yếu tố cơ bản của chứng từ, quy định chứng từ của doanh nghiệp nào thì cần in biểu tượng của doanh nghiệp đó đồng thời phải đăng ký sê ri của chứng từ trước khi phát hành và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về số chứng từ đã phát hành. Việc làm này vừa tránh được một số hiện tượng tiêu cực, vừa buộc các doanh nghiệp nâng cao được trách nhiệm của mình trong việc quản lý hệ thống hoá đơn chứng từ. Hiện nay, do sự phát triển của hệ thống phương tiện truyền tin, Chính phủ đã cho phép sử dụng chứng từ điện tử. Chế độ kế toán ban hành theo Quyết định số 15 có quy định “Các doanh nghiệp có sử dụng chứng từ điện tử cho hoạt động kinh tế, tài chính và ghi sổ kế toán thì phải tuân thủ theo quy định của các văn bản pháp luật về chứng từ điện tử”. Như vậy, chứng từ điện tử có giá trị pháp lý như văn bản, song về nguyên tắc thì chứng từ kế toán không được phô tô, nếu cần sử dụng nhiều bản thì phải dùng giấy than. Để đảm bảo tính hợp pháp của chứng từ điện tử, Nhà nước cần quy định thống nhất về việc sử dụng cũng như việc mã hoá các yếu tố của chứng từ điện tử theo hướng là nên căn cứ vào tính chất từng loại nghiệp vụ kinh tế mà mã hoá cho từng phân hệ chương trình, đồng thời cần phải có biện pháp để chống việc sửa chữa và lưu giữ chứng từ trên máy tính. 2.2.3 Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán Hệ thống tài khoản kế toán là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam. Sau khi được ban hành và đưa vào sử dụng đến nay đã thật sự đi vào cuộc sống. Nhìn chung, hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành đã đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế đặc thù ở nước ta. Song quá trình vận dụng các tài khoản kế toán và trong hạch toán kế toán thực tế ở các doanh nghiệp đã nảy sinh một số vấn đề tồn tại, chưa hợp lý. Để phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới và đảm bảo tính khoa học của kế toán thì cần thiết phải hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán thống nhất theo quan điểm: hệ thống tài khoản kế toán phải đảm bảo nguyên tắc thống nhất, tiết kiệm và hiệu quả trong kế toán, nghĩa là vừa giảm được sự cồng kềnh của hệ thống tài khoản vừa đảm bảo được yêu cầu của công tác quản lý. Do đó, cần hoàn thiện trên một số điểm sau: - Về tên gọi của tài khoản: Mỗi tài khoán kế toán đều có tên gọi riêng, tên gọi của tài khoản phải phù hợp với nội dung kinh tế của đối tượng kế toán mà tài khoản đó phản ánh. Cho nên, tên gọi của tài khoản chính là tên gọi của đối tượng kế toán. Hiện nay, tên gọi của một số tài khoản còn chưa phù hợp với nội dung kinh tế mà nó phản ánh. Vì vậy, một số tài khoản kế toán cần phải sửa lại tên cho đúng với bản chất kinh tế mà nó phản ánh, tránh tình trạng hiểu không rõ về nội dung, kết cấu của tài khoản dẫn đến việc sử dụng không đúng với quy định. Các vấn đề có cùng bản chất kinh tế thì nên đưa vào một tài khoản nhằm giảm tính cồng kềnh của hệ thống (tài khoản 211, 212, 213 đều phản ánh tài sản cố định của doanh nghiệp thì nên đưa vào một tài khoản "Tài sản cố định" và chi tiết thành 3 tài khoản cấp II,...) - Về số lượng tài khoản: hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành quy định thống nhất quản lý đến các tài khoản cấp II dẫn đến tình trạng số lượng các tài khoản trong hệ thống quá nhiều song vẫn không đáp ứng được yêu cầu quản lý (như còn thiếu tài khoản phản ánh thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, khoản này được phản ánh chung với tài khoản 133 "thuế giá trị gia tăng được khấu trừ", một tài khoản phản ánh hai đối tượng kế toán khác nhau,...). Nhà nước nên thống nhất quản lý tới tài khoản cấp I còn các tài khoản cấp II, cấp III,... nên để doanh nghiệp tự lập theo yêu cầu quản lý cụ thể của mình. Như vậy, số lượng các tài khoản cấp I phải bao quát được toàn bộ mọi nội dung kinh tế, tài chính phát sinh trong doanh nghiệp. - Về số hiệu tài khoản: Hiện nay, Bộ Tài chính xây dựng cho mỗi ngành, mỗi lĩnh vực kinh doanh một hệ thống tài khoản kế toán, như vậy tính thống nhất trong kế toán khó đảm bảo, một tài khoản kế toán có cùng tên gọi song ở các hệ thống tài khoản khác nhau thì lại có số hiệu không giống nhau, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý kiểm tra cũng như việc đào tạo đội ngũ cán bộ kế toán. Vì vậy, Bộ Tài chính chỉ nên xây dựng một hệ thống tài khoản kế toán áp dụng thống nhất cho mọi đơn vị kế toán thuộc các lĩnh vực khác nhau. - Về phân loại tài khoán kế toán: Các tài khoản phản ánh các vấn đề có cùng bản chất kinh tế thì nên xếp vào một loại. Trong hệ thống tài khoản kế toán không cần thiết phải có thêm loại tài khoản 7 và 8. Bản chất của loại tài khoản 7 cũng là tài khoản phản ánh doanh thu, nên đưa vào loại tài khoản 5 bỏ loại tài khoản 7 và loại tài khoản 5 có tên là Doanh thu và thu nhập khác. Cũng tương tự như vậy, bỏ loại tài khoản 8 và đưa vào loại tài khoản 6 và đổi tên loại tài khoản 6 thành Chi phí kinh doanh và chi phí khác. Như vậy, loại tài khoản 9 được xếp lại thành loại tài khoản 7. 2.2.4 Hoàn thiện hệ thống sổ kế toán Trong hệ thống kế toán doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam thì Chế độ sổ kế toán được coi là hoàn thiện hơn cả. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau: Theo quy định của chuẩn mực kế toán Việt Nam số 25 "Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán các khoản đầu tư vào công ty con" thì các tập đoàn kinh tế hoặc các tổng công ty phải hợp nhất báo cáo tài chính giữa công ty mẹ (tổng công ty) với các công ty con. Để hợp nhất các báo cáo tài chính, tại công ty mẹ cần thực hiện một loạt các bút toán điều chỉnh nên Bộ Tài chính cần yêu cầu các tổng công ty (tập đoàn kinh tế) phải mở một sổ kế toán chuyên dùng vào việc tính toán, ghi chép các bút toán điều chỉnh đó, hoặc là đưa ra các mẫu sổ kế toán chuyên dùng cho việc lập báo cáo tài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3330.doc
Tài liệu liên quan