Đàm phán thương mại là quá trình mặc cả và thuyết phục giữa bên mua và bên bán về một loạt các nội dung liên quan đến giao dịch mua bán. Đây là một khâu vô cùng quan trọng trong quy trình nhập khẩu và có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động nhập khẩu. Do vậy, đảm nhiệm công việc này phải là người có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn để có thể giành thế chủ động trong đàm phán. Trưởng phòng xuất nhập khẩu thường là người phụ trách bước này.
Thông thường Công ty thường đàm phán với đối tác qua email và điện thoại. Các nội dung mà hai bên thường xuyên phải thương lượng với nhau là giá cả, chất lượng, giao hàng và thanh toán. Khi hai bên đã có một sự thống nhất với nhau thì Công ty sẽ yêu cầu người xuất khẩu soạn thảo hợp đồng, ký vào đó và gửi sang cho mình hoặc các nhân viên trong phòng sẽ soạn thảo hợp đồng và gửi sang cho họ. Sau khi xem xét hợp đồng, nếu đồng ý với nội dung của hợp đồng đó thì Giám đốc hoặc người có thẩm quyền sẽ ký vào hợp đồng và fax lại cho bên xuất khẩu và mỗi bên giữ một bản. Khi hợp đồng đã được kí kết, các bên không có quyền từ chối quyền và nghĩa vụ của mình đối với bên kia.
34 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2079 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu của công ty Yamaha Motor Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm việc như ở nhà.
Hàng năm Công ty đều tổ chức ngày hội "Yamaha family day” cho toàn cán bộ công nhân viên và gia đình của họ, đây là sự kiện rất có ý nghĩa của Công ty không chỉ quan tâm tới cán bộ công nhân viên Yamaha mà còn quan tâm đến đời sống gia đình của tất cả các cán bộ trong công ty. Hoạt động này còn là dịp để mọi người gần gũi nhau hơn. Qua ngày hội này thì toàn bộ công nhân viên đều có cơ hội gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ và hiểu biết nhiều hơn về công ty Yamaha và ngày càng thúc đẩy tình đoàn kết trong nội bộ công ty.
Công ty Yamaha là công ty lớn và hoạt động trong lĩnh vực xe máy nên qua bảng bên ( bảng 1) chúng ta có thể thấy nam chiếm tỉ lệ lớn (69%) so với nữ (31%). Nhìn vào bảng biểu chugns ta thấy rằng nguồn lao động có trình độ PTTH chiếm nhiều nhất (76% ) tổng số lao động công ty, lực lượng này có trình độ không cao nên ý thức và kỷ luật còn kém và đây lại là người trực tiếp làm ra sản phẩm để cung cấp cho thị trường nên nếu không được quản lý tốt và có chương trình đào tạo và giám sát chặt chẽ thì sẽ gây ảnh hưởng lớn trong quá trình sản xuất. Để ngăn chặn điều này thì công ty đã tiến hành lựa chọn những biện pháp để tuyển được những người có trình độ khá như khi muốn trở thành thành viên chính thức thì phải qua hai vòng thị: trắc nghiệm và phỏng vấn. Sau khi trúng tuyển công nhân sẽ được tham gia vào khóa đào tạo về lịch sử công ty. Chính sách của công ty, an toàn, 5S(sạch sẽ, sàng lọc, sắp xếp, săn sóc, sẵn sàng)...và sau đó sẽ tham gia vào khóa đào tạo với sự hướng dẫn và giám sát của chuyên gia Nhật và các quản đốc có uy tín.
Đội ngũ nhân viên chỉ chiếm 11% nhưng đây là chìa khóa chính cho sự thành công của công ty nên công ty rất chú ý để đào tạo và duy trì vì đây là đội ngũ phụ trách chính về kỹ thuật và quản lý
Bảng 1: Cơ cấu lao động công ty Yamaha Việt Nam (2007-2009)
Trình độ
Tổng số
Phân theo giới tính
Phân theo tính chất lao động
Số lượng
Tỉ trọng
Nam
Nữ
Trực tiếp
Gián tiếp
Đại học
325
11%
201
124
0
325
Cao đẳng
242
8%
201
41
200
42
Trung cấp
152
5%
95
57
152
0
PTTH
2304
76%
1605
699
2154
150
Tổng
3023
100
2102
921
2506
517
(Nguồn: Phòng nhân sự công ty Yamaha Việt Nam.)
2. Nguồn lực tài chính của công ty Yamaha Motor Việt Nam
Qua số liệu trang bên (bảng 2) công ty Yamaha có thể tăng vốn kinh doanh của công ty qua các năm, đặc biệt năm 2008 tổng vốn kinh doanh của công ty đã tăng 114% so với năm 2007. Tuy nhiên, năm 2009 do 6 tháng cuối năm nhu cầu mua sắm giảm nên nhu cầu vốn của công ty cũng giảm xuống còn 1%.
Trong các năm qua, vồn chủ sở hữu của công ty tăng nhiều: Năm 2008 thì vốn chủ sở hữu của công ty đã tăng nhiều nhất, nhiều hơn mức tăng 100% so với năm 2007. Tuy nhiên năm 2009 thì công ty đã giảm số lượng vốn chủ sở hữu với mức giảm là 12% so với năm 2007 vì nhu cầu mua sắm giảm nên sản phẩm xe máy của công ty bị tồn ứ trong kho. Hơn nữa, công ty rút vốn chuyển sang kinh doanh một số mặt hàng khác như: đàn Yamaha, cano....
Các khoản nợ phải trả trong năm 2008 là rất lớn với mức tăng 151% so với năm 2007 nguyên nhân là lúc này công ty phải sản xuất nhiều hàng xe máy để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng nên công ty phải nhập nhiều hàng về và tăng diện tích kho để giữ nguyên vật liệu và xe thành phẩm. Tuy nhiên trong năm 2009 thì công ty đã giảm đi được nhiều so với năm 2008 với mức tăng chỉ 28% so với năm 2008.
Vốn cố định của công ty tăng nhiều vào năm 2008 với mức tăng 102% so với năm 2007 vì lúc này công ty phải mở rộng dây chuyền sản xuất nên nhập khẩu nhiều máy móc về. Tuy nhiên trong năm 2009 thì đã giảm đi 5% so với năm 2008.
Bảng 2: Bảng nguồn vốn của công ty Yamaha Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD/(%)
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
2008 – 2007
2009 - 2008
Số lượng
Tỉ trọng
Số lượng
Tỉ trọng
Số lượng
Tỉ trọng
Tuyệt đối
Tuyệt đối (%)
Tuyệt đối
Tuyệt đối (%)
1.Phân theo nguồn vốn
1a.Vốn chủ sở hữu
110
72%
220
67%
194
58%
110
100%
-26
-12%
1b. Nợ phải trả
43
28%
108
33%
138
42%
65
151%
30
28%
2.Phân theo tính chất vốn
2a. Vốn cố định
103
67%
208
63%
197
59%
105
102%
-11
-5%
2b. Vốn lưu động
50
33%
120
37%
135
41%
70
140%
15
13%
Tổng vốn
153
328
332
175
114%
4
1%
3. Kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm ( 2007 – 2009 )
Nhìn vào trang bên (sơ đồ 2) chúng ta thấy tốc độ tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận trong những năm vừa qua cho thấy tình hình kinh doanh của công ty tăng trưởng tốt mặc dù trong năm 2008 có cuộc khủng hoảng kinh tế, cụ thể:
Năm 2009 doanh thu của công ty đạt được: 560 triệu đô tăng 43 % so với năm 2008. Nguyên nhân tăng trưởng là do công ty đã mở rộng hệ thống bán hàng và sản phẩm đã được khách hàng đánh giá cao và sản phẩm mới ngày càng đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Năm 2008 vì mặt hàng xe máy của công ty có giá trị cao, giá tối thiểu là 16,5 triệu VND và tối đa là 32,5 triệu VND nên ảnh hưởng sức tiêu thụ trên thị trường. Do vậy tình hình doanh thu của công ty đã chịu tác động của lý do này. Doanh thu trong năm 2008 chỉ đạt được 446 triệu USD, giảm đi 114 triệu USD ( tương ứng giảm đi 25% ) sơ với năm 2007.
Lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2007 đạt được 260,25 triệu USD tăng hơn năm 2006 là 137% đây là năm thành công nhất của công ty Yamaha từ khi bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1998.
Trong năm 2008 mặc dù gặp khó khăn về kinh tế toàn cầu và Việt Nam cũng bị ảnh hưởng do vậy lợi nhuận sau thuế của công ty chỉ đạt được 180,75 triệu USD, giảm đi 79,5 triệu USD ( giảm đi 31% ) so với năm 2007.
Nhìn vào tốc độ tăng quỹ lương thì hàng năm công ty đều có chính sách tăng lương ( năm 2007 tăng 132% so với năm 2006 và năm 2008 mặc dù có khó khăn về hoạt động kinh doanh thì công ty cũng tăng lương 6% so với năm 2007) cho cán bộ công nhân viên nhằm đảm bảo cuộc sống cho họ để họ yên tâm công tác. Đây là kết quả tích cực trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái.
Tỉ suất lợi nhuận của công ty tăng 72% năm 2006 lên 79% của năm 2007 nhưng lại giảm xuống còn 75% trong năm.
Trong năm 2008 thì công ty có đầu tư để xây dựng dây chuyền sơn mới để nâng cao chất lượng sơn nhựa và sơn sắt hiện nay để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của công ty ngày càng tăng điều này thể hiện trình độ quản lý về tài chính của công ty rất tốt. Năm 2007 tăng 18% so với năm 2006. Tuy nhiên trong năm 2008 thì tỉ suất này đã giảm đi 25%. Do vậy trong năm 2009 công ty cần nghiên cứu để tăng doanh thu và tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu của công ty tăng mạnh đặc biệt là năm 2007 tăng 46% so với năm 2006 và năm 2008 cũng đạt được mốc như năm 2007 với mức tăng 46%.
Sơ đồ 2: Doanh thu của công ty trong 3 năm (2007-2009)
Đơn vị: Triệu đô
(Nguồn: Phòng tài chính kế toán)
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ VÀ NGUYÊN VẬT LIỆU CỦA CÔNG TY YAMAHA
I.Tình hình nhập khẩu.
1.Quy trình nhập khẩu
Trên thực tế, quy trình nhập khẩu của Yamaha bao gồm các bước sau:
Nghiên cứu thị trường trong hoạt động nhập khẩu là một loạt các thủ tục và kỹ thuật đưa ra để giúp các nhà nhập khẩu có đầy đủ thông tin cần thiết để từ đó đưa ra các quyết định chính xác.
Hiện nay, công tác nghiên cứu thị trường thuộc nhiệm vụ của phòng xuất nhập khẩu thiết bị của Công ty. Tiến hành nghiên cứu thị trường gồm có 20 nhân viên phòng kinh doanh thiết bị và xuất nhập khẩu, các nhân viên này vừa tiến hành kinh doanh vừa tiến hành các hoạt động tìm kiếm nhà cung ứng đầu vào, đối tác, vừa tìm kiếm nhu cầu thị trường, thị trường tiêu thụ. Đây coi như là hoạt động Marketing kiêm nhiệm. Các thông tin thu thập được, được tập hợp tại phòng xuất nhập khẩu thiết bị. Kết hợp với các thông tin về nhu cầu vật tư, thiết bị qua các đơn đặt hàng, các thông báo và yêu cầu đặt hàng, phòng xuất nhập khẩu thiết bị sẽ tiến hành nhập khẩu vật tư, thiết bị. Mặt khác, tuỳ thuộc vào phương thức kinh doanh nhập khẩu thiết bị mà việc nghiên cứu thị trường được tiến hành ở thị trường nước ngoài hoặc thị trường trong nước hoặc với cả hai thị trường.
Với phương thức kinh doanh nhập khẩu uỷ thác, việc nghiên cứu thị trường chỉ tiến hành ở thị trường nước ngoài. Trong trường hợp khách hàng uỷ thác tự tìm được nhà cung cấp đầu vào, Công ty không cần phải nghiên cứu thị trường này, đây là trường hợp đơn giản nhất trong kinh doanh nhập khẩu đem lại lợi nhuận cao- Công ty không phải tìm cả hai thị trường đầu vào và đầu ra. Tuy nhiên, Công ty cần phải thực hiện đúng những quy định trong hợp đồng, nếu có thay đổi phải báo với đối tác kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa uy tín lâu dài của Công ty trong kinh doanh uỷ thác.
Sau khi nghiên cứu thị trường, các nhân viên trong phòng sẽ đưa ra danh sách một loạt nhà cung cấp, đặt ra các câu hỏi và các yêu cầu của Công ty xem các nhà cung cấp nào có khả năng đáp ứng tốt nhất. Căn cứ vào các thông tin có được từ công tác nghiên cứu thị trường, phòng xuất nhập khẩu sẽ tiến hành gửi yêu cầu báo giá cho một số nhà cung ứng. Sau khi tổng hợp các báo giá phù hợp, phòng xuất nhập sẽ tiến hành phân tích, đánh giá và lựa chọn nhà cung ứng có khả năng nhất trên các tiêu chuẩn sau:
Khả năng đảm bảo về số lượng và chủng loại vật tư, thiết bị cho Công ty. Nhật Bản là thị trường thường có nhiều loại vật tư, thiết bị đủ cung cấp cho Công ty.
Khả năng cung cấp vật tư, thiết bị đúng tiêu chuẩn chất lượng. Do Công ty kinh doanh các loại vật tư, thiết bị, phụ tùng, linh kiện cho việc lắp ráp và sản xuất sản phẩm với yêu cầu của khách hàng nên lựa chọn nhà cung cấp nào có khả năng về chất lượng cũng như các thông số kỹ thuật.
Các điều kiện về phương thức thanh toán, thời gian vận chuyển, cự li vận chuyển…
Tuỳ vào từng mặt hàng vật tư, thiết bị mà thứ tự ưu tiên, xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể thích hợp đối với người sẽ cấp hàng cho Công ty. Chẳng hạn, đối với loại vật tư, thiết bị như: lò trung tần, máy công cụ, máy cắt, máy đúc nóng buồng, súng phun bi… đòi hỏi yêu cầu thông số kỹ thuật cao thì tiêu chuẩn thông số kỹ thuật được ưu tiên hàng đầu. Đối với các loại thiết bị toàn bộ: Xe máy Novou 135, xe máy Jupiter 110, Mino 115, Serious 110… đòi hỏi về chất lượng nên tiêu chuẩn về chất lượng được ưu tiên.
Đàm phán thương mại là quá trình mặc cả và thuyết phục giữa bên mua và bên bán về một loạt các nội dung liên quan đến giao dịch mua bán. Đây là một khâu vô cùng quan trọng trong quy trình nhập khẩu và có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động nhập khẩu. Do vậy, đảm nhiệm công việc này phải là người có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn để có thể giành thế chủ động trong đàm phán. Trưởng phòng xuất nhập khẩu thường là người phụ trách bước này.
Thông thường Công ty thường đàm phán với đối tác qua email và điện thoại. Các nội dung mà hai bên thường xuyên phải thương lượng với nhau là giá cả, chất lượng, giao hàng và thanh toán. Khi hai bên đã có một sự thống nhất với nhau thì Công ty sẽ yêu cầu người xuất khẩu soạn thảo hợp đồng, ký vào đó và gửi sang cho mình hoặc các nhân viên trong phòng sẽ soạn thảo hợp đồng và gửi sang cho họ. Sau khi xem xét hợp đồng, nếu đồng ý với nội dung của hợp đồng đó thì Giám đốc hoặc người có thẩm quyền sẽ ký vào hợp đồng và fax lại cho bên xuất khẩu và mỗi bên giữ một bản. Khi hợp đồng đã được kí kết, các bên không có quyền từ chối quyền và nghĩa vụ của mình đối với bên kia.
Sau khi trưởng phòng đàm phán thành công và kí được hợp đồng, công việc thực hiện hợp đồng sẽ được giao lại cho các nhân viên trong phòng. Quy trình thực hiện hợp đồng gồm các bước sau:
Më L/c
Xin giÊy phÐp NK
Giôc NB giao hµng
Thuª tµu
KiÓm tra hµng
NhËn hµng
Lµm thñ tôc HQ
Mua b¶o hiÓm
Thanh to¸n
KhiÕu n¹i nÕu cã
Bảng3: Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Thực tế quy trình nhập khẩu nội bộ của Yamaha cũng giống như các công ty khác. Quy trình gồm các bước sau.
Các phòng ban muốn mua vật tư, thiết bị, linh kiện và các nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất thì phải điền vào một phiếu yêu cầu mua hàng đưa trưởng phòng phê duyệt rồi gửi sang phòng xuất nhập khẩu.
Phòng xuất nhập khẩu chia thành hai nhóm: một nhóm chuyên về hàng tiêu hao, nhóm còn lại chuyên về hàng xuất nhập khẩu.
Phòng xuất nhập khẩu sau khi nhận được đơn xin mua hàng từ các phòng ban khác, họ sẽ tiến hành các thủ tục xin phê duyệt từ trưởng phòng của họ đến giám đốc, phó tổng giám đốc và cuối cùng đến tổng giám đốc. Tuy nhiên, đối với những mặt hàng dưới 200$ thì chỉ cần có sự chấp thuận từ trưởng phòng đến giám đốc. Còn các mặt hàng có giá trị trên 200$ trở lên phải có sự chấp thuận đầy đủ từ giám đốc tới tổng giám đốc.
Cuối cùng đối với hàng nhập khẩu của công ty, Yamaha mở L/C vì công ty nhập hàng từ chính các công ty Yamaha ở các nước Nhật Bản và Indonesia. Các thủ tục còn lại như: thuê tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục hải quan, nhận hàng, kiểm tra hàng đều do một bên là Forwader thực hiện. Sau khi công ty Yamaha nhận được bộ chứng từ gốc chuyển lên bộ phận Kế Toán- Tài Chính để tiến hành thủ tục thanh khoản. Khiếu nại nếu hàng không đáp ứng đủ tiêu chuẩn về chất lượng
2. Kim ngạch nhập khẩu
Nền kinh tế nước ta đã và đang từng bước phát triển, do vậy nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng hay nhập khẩu hàng hóa phục vụ đời sống nhân dân ngày càng cao. Nhận thức được điều đó, Công ty Yamaha đã đi đúng hướng trong việc gia tăng nhập khẩu hàng hóa, vừa thu được lợi nhuận cho bản thân Công ty, vừa đóng góp cho nền kinh tế quốc.
Biểu đồ 2: Kim ngạch nhập khẩu của Yamaha
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của Yamaha)
Nhìn vào ( biểu đồ 2) ta thấy mặt hàng đai ốc bằng thép có kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm và là mặt hàng tăng mạnh nhất, đạt 40560 USD tương đương với 31.74% tỷ trọng của năm. Tiếp theo là mặt hàng đai ốc bằng thép cũng tăng dần đều qua các năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn này đạt 318.211 USD.
3.Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu.
Bang 3: Kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2007-2009
Đơn vị: USD/(%)
Từ những số liệu ở (bảng 3) ta có thể thấy kim ngạch nhập khẩu của công ty thường xuyên năm sau cao hơn năm trước và luôn vượt kế hoạch được giao. Đặc biệt là năm 2008, kim ngạch nhập khẩu đạt 107.754 USD, đạt 135% kế hoạch được giao. Tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu trong ba năm từ năm 2007 đến năm 2009 là 318.211 USD.
Có được sự tăng đều kim ngạch nhập khẩu này là do trong giai đoạn này các sản phẩm xe máy của công ty đã được người dân đánh giá cao, cùng với nó là sức tiêu thụ lớn trên thị trường Việt Nam. Vì vậy như cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện lắp ráp xe máy tăng đều góp phần trong việc tăng kim ngạch nhập khẩu của công ty.
Có thể khảng định rằng với tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu từng năm rất ổn định và có chiều hướng tăng dần cho thấy từ khâu quản lý đến khâu tiêu thụ sản phẩm có hệ thống đã giúp cho Yamaha ngày càng không ngừng phát triển.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Yamaha là đai ôc bằng thép, vít bằng thép, vòng đệm bằng thép, bu gi, đai ốc mũ, bu lông bằng thép và các mặt hàng khác như: ống lọc sơn, đầu chụp, bộ kim cối, khăn lau tem, giây tĩnh điện... Trong những năm gần đây, mặc dù giá xăng dầu và kim loại trên thế giới liên tục biến động và luôn ở mức cao, gây ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu và kinh doanh mặt hàng xe máy, kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng đều qua các năm.
Từ số liệu bảng 4 trên ta thấy, mặt hàng bu lông bằng thép và đai ốc bằng thép đều chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty.
Năm 2008 ta thấy kim ngạch nhập khẩu cảu các mặt hàng đều tăng đáng kể. Trong đó kim ngạch của hai mặt hàng bu lông bằng thép và đai ốc bằng thép là tăng nhiều nhất (bu lông bằng thép tăng 30100.00 USD tương đương 27.93%, đai ốc bằng thép tăng 35186.00 tương đương 32.65%. Tiếp đó là kim ngạch của các mặt hàng vít bằng thép và các phụ kiện khác. Chính vì thế tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty năm 2008 tăng lên 250.66 USD tương đương tăng 18.83% so với năm 2007.
Sang năm 2009 cả kim ngạch nhập khẩu và tỷ trọng các mặt hàng đều có nhiều thay đổi. Cụ thể là mặt hàng bu lông bằng thép và đai ốc bằng thép là hai mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất trong công ty. Đặc biệt mặt hàng bu lông bằng thép tăng 40.560.00 USD tương đương tăng 31.74%, đai ốc bằng thép tăng 39.970.00 USD tương đương 31.28%. Nhìn chung năm 2009 kim ngạch nhập khẩu tăng một cách mạnh mẽ 127.769.00 USD tương đương 99.99%.
4. Cơ cấu thị trường nhập khẩu.
Trong cơ chế kinh doanh cạnh tranh hết sức khốc liệt như hiện nay thì công tác thị trường đóng một vai trò không nhỏ góp phần đem lại hiệu quả hoạt động kinh doanh cho mỗi công ty. Nhận thức được điều nay, trong mấy năm gần đây Công ty đã đặc biệt chú ý đến và bước đầu tổ chức thực hiện tốt một số công việc của công tác này.
Công ty đã nghiên cứu, khai thác và đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên các thị trường mới, mở rộng thị trường nhập khẩu của mình. Đồng thời Công ty cũng tổ chức nắm bắt tốt các thông tin về thị trường, có những hình thức nhập khẩu và thanh toán phù hợp với điều kiện kinh doanh linh hoạt trên thế giới
Bảng 4: Kim ngạch nhập khẩu hàng theo thị trường
Đơn vị tính: USD/(%)
( Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của Yamaha )
Nhìn vào bảng 4 ta thấy, thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty là thị trường Nhật Bản, Trong 3 năm gần đây khu vực thị trường này luôn chiếm một tỷ trong lớn nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty (chiếm trên 50%) và luôn tăng lên. Đứng thứ hai là thị trường Indonesia, kim ngạch và tỷ trọng nhập khẩu từ thị trường này cũng tương đối lớn và năm sau tăng cao hơn năm trước.
Năm 2007, hầu hết các thị trường nhập khẩu của công ty đều tăng trưởng. Riêng chỉ có kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường khác như Thái Lan, Malaysia là tăng nhẹ, tương ứng với 62.305 USD vào năm 2007.
Qua sự phân tích ở trên ta thấy rằng thị trường Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty và có sự tăng trưởng đều về kim ngạch nhập khẩu trên thị trường này. Đồng thời thấy được các thị trường khác Thái Lan, Malaysia là các thị trường tiềm năng để chúng ta có thể so sánh lựa chọn giá cả tốt nhất, phương thức ưu đãi tốt nhất, vì hai thị trường này nằm trong khu vực Đông Nam Á nên có sẽ có được nhiều ưu đãi.
III. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của công ty.
1. Thuận lợi và khó khăn.
Trong mấy năm gần đây, Ban lãnh đạo và các cán bộ công nhân viên trong Công ty đã làm việc nỗ lực với một tinh thần trách nhiệm cao đã đem lại nhiều thành tựu góp phần làm phát triển Công ty như ngày nay:
Doanh số hoạt động nội thương cũng tăng nhanh tạo công ăn việc làm cho người lao động cả về thu nhập.
Bổ sung thêm được tài sản cố định, tài sản lưu động và phương tiện, công cụ làm việc kết nối mạng với Quốc tế. Trang bị ô tô, mua sắm bàn ghế, máy thiết bị văn phòng.
Duy trì và mở rộng các quan hệ kinh tế đối nội và đối ngoại trên cơ sở lấy yếu tố an toàn, hiệu quả, hợp tác cùng có lợi. Đồng thời công ty còn thường xuyên tham gia các hoạt động tiếp thị, hội chợ, triển lãm quảng cáo trong và ngoài nước và đạt kết quả khả quan.
Tuy nhiên, công ty vẫn gặp một số khó khăn trong vấn đề tìm kiếm thị trường.
Trong cơ chế kinh doanh cạnh tranh hết sức khốc liệt như hiện nay thì công tác thị trường đóng một vai trò không nhỏ góp phần đem lại hiệu quả hoạt động kinh doanh cho mỗi công ty. Nhận thức được điều nay, trong mấy năm gần đây Công ty đã đặc biệt chú ý đến và bước đầu tổ chức thực hiện tốt một số công việc của công tác này.
Công ty đã nghiên cứu, khai thác và đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên các thị trường mới, mở rộng thị trường nhập khẩu của mình. Đồng thời Công ty cũng tổ chức nắm bắt tốt các thông tin về thị trường, có những hình thức nhập khẩu và thanh toán phù hợp với điều kiện kinh doanh linh hoạt trên thế giới.
Nhập khẩu hàng hóa luôn gắn liền với việc bán hàng nhập khẩu ở thị trường trong nước. Nhập khẩu tăng đồng nghĩa với việc thị trường cả trong nước và nước ngoài được mở rộng, vốn lưu động gia tăng, tiêu thụ sản phẩm tăng. Trong thời gian qua, mặc dù thị trường có những biến động lớn về giá cả nhưng với sự chỉ đạo và phối hợp đồng bộ, biết tận dụng những điều kiện thuận lợi, nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty vẫn tăng đều qua các năm. Do đặc thù kinh doanh của công ty, kim ngạch nhập khẩu vật tư thiết bị sản xuất luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với các mặt hàng khác, thường từ 80 đến 90% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ban lãnh đạo cùng cán bộ công ty đã góp công sức tính toán nhập khẩu ở mức hợp lý, dự báo tại thời điểm giá cả có thể biến động để quyết định tăng hoặc giảm khối lượng từng mặt hàng nhập khẩu.
Có thể khẳng định rằng hoạt động nhập khẩu của công ty đã đưa thương hiệu Yamaha trở thành một thương hiệu có uy tín hiện nay ở thị trường trong nước. Những sản phẩm mà công ty nhập khẩu về đã và đang có mặt ở khắp thị trường nội địa. Điều này khẳng định vị trí mặt hàng nhập khẩu của công ty trên thị trường và được nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng tin tưởng.
Để có đủ hàng hóa cung ứng cho nhu cầu lắp ráp và sản xuất xe máy trong giai đoạn phát triển tương đối mạnh mẽ về kim ngạch cũng như thị trường nhập khẩu, Công ty đã không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường nguồn hàng. Nguồn hàng của Công ty một phần là tự sản xuất, còn phần lớn là lấy từ các công ty con Yamaha toàn cầu có lợi thế đặc trưng riêng chẳng hạn như thủ tục đặt hàng, thanh toán đơn giản và nhanh gọn, chất lượng hàng tốt,
Tại công ty, do tính hoạt động tương đối phụ thuộc lẫn nhau nên các phòng ban khác muốn tìm kiếm nguồn hàng thì phải phụ thuộc vào phòng xuất nhập khẩu. Phòng xuất nhập khẩu thương cử cán bộ xuống tận các cơ sở theo địa chỉ được giới thiệu hoặc tìm kiếm để khảo sát, xem xét hình thức, qui mô sản xuất, khả năng tài chính, kho bãi, năng suất và chất lượng sản phẩm. Từ đó khi có nhu cầu, mỗi phòng sẽ gửi phiếu yêu cầu mua hàng đến phòng xuất nhập khẩu. Dựa vào phiếu này, phòng xuất nhập khẩu se tiến hành ký kết hợp đồng cung ứng với các đối tác.
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Tuy nhiên, dù Công ty đã cố gắng trong khâu tìm kiếm thêm đối tác kinh doanh, mở rộng thị trường nhưng vẫn còn hạn chế và phụ thuộc nhiều vào các đối tác có quan hệ từ trước ở các thị trường chính như Thái Lan, Nhật Bản, Indonesia. Do vậy, Công ty không tránh khỏi bị động về mặt thời gian và giá cả khi tiến hành nhập khẩu. Bên cạnh đó, Công ty vẫn chưa tận dụng tốt những điều kiện ưu đãi về thuế quan sau khi Việt Nam gia nhập AFTA, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Asean còn rất hạn chế.
Một hạn chế nữa là đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ kĩ thuật của Công ty còn thiếu, nhất là cán bộ có nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Do vậy trong giao dịch, đàm phán và kí kết hợp đồng, khách hàng nước ngoài thường giành thế chủ động.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY YAMAHA.
I. Phương hướng nhập khẩu của công ty trong thời gian tới.
Những năm gần đây, công ty Yamaha luôn hoàn thành kế hoạch đã định. Công ty đã cố gắng tận dụng những điều kiện lợi thế, khắc phục mọi khó khăn, tìm kiếm và khai thác thị trường để kinh doanh có hiệu quả.
Với mục tiêu tối đa hóa cơ hội tăng trưởng trong kinh doanh, Yamaha đã thực sự đạt được thành công trong việc mở rộng thị trường ở các nước Đông Nam Á như Indonesia và Việt Nam, cũng như kết quả ở Brazil và Nga đã vượt qua sự mong đợi. Với sự mở rộng này Yamaha đầu từ mạnh mẽ vào các thị trường đang phát triển, không chỉ trong lĩnh vực xe máy, mà còn lĩnh vực động cơ thủy, rô bốt công nghiệp và khoa học đời sống.
Mục tiêu của Công ty là tiếp tục kiện toàn tổ chức và nhân sự. Nâng cao năng lực cán bộ, nhất là cán bộ trong bộ máy lãnh đạo nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả trong công tác kinh doanh và quản lý; Xây dựng và hoàn thiện các quy chế để ban hành thực hiện trong Công ty; Phục vụ kịp thời các nhu cầu sử dụng mặt bằng, kho tàng, nhà xưởng phù hợp với điều kiện hiện có cho sản xuất và kinh doanh.
II. Các giải pháp.
1. Giải pháp hoạt động nhập khẩu.
Để có được một kết quả tốt trong bất cứ thương vụ nhập khẩu nào thì điều đầu tiên phải cân nhắc tới đó là quy trình nhập khẩu, đặc biệt là khâu nghiên cứu thị trường. Đây là khâu đầu tiên của quy trình nhập khẩu và là khâu quan trọng nhất. Đối với mặt hàng nhập khẩu vật tư, thiết bị của Công ty, do giá cả thị trường luôn biến động, thời điểm bắt đầu và kết thúc của một hợp đồng thường kéo dài từ 2 đến 3 tháng ( kể từ khi lên kế hoạch đặt hàng cho đến khi hàng được đưa về kho), trọng lượng và tổng số tiền mỗi hợp đồng rất lớn nên cần phải có những dự báo về mặt thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài để quyết định nhập khẩu một cách sát thực nhất.
Công ty cần thực hiện việc theo dõi, đánh giá các đối tác kinh doanh qua quá trình thực hiện, tổng hợp các báo cáo theo từng thương vụ và thời kỳ đối với từng đối tác để từ đó đánh giá chính xác khả năng giao hàng và uy tín của từng nhà cung cấp hàng hóa cũng như chất lượng hàng hóa.
Về khâu tổ chức, thực hiện hợp đồng, tuy Công ty không phải xin giấy phép và thủ tục mở L/C cũng không mấy phức tạp nhưng cần phải đa dạng hóa điều khoản giao hàng, tiết kiệm chi phí và giảm thiểu thất thoát nguồn lực sẵn có của đất nước như công tác giao nhận, vận tải; cần đa dạng hóa phương thức thanh toán nhằm giảm thời gian đọng vốn, tiết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu của công ty Yamaha Motor Việt Nam.doc