LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: VIỆC LÀM VÀ KẾ HOẠCH VIỆC LÀM TRONG HỆ THỐNG
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 2
I. Việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm 2
1. Khái niệm về việc làm và các khái niệm có liên quan đến việc làm 2
1.1. Quan điểm của thế giới về lao động và việc làm 2
1.2. Quan niệm của Việt nam 3
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm 4
2.1. Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề giải quyết việc làm 4
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự điều chỉnh của cung cầu lao động và làm giảm sức ép việc làm. 7
3. Vai trò của giải quyết việc làm 8
II. Kế hoạch việc làm 9
1. Kế hoạch về việc làm 9
2. Vai trò và kế hoạch việc làm 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
THỜI KỲ KẾ HOẠCH 1996 - 2000 11
I. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề việc làm thời kỳ
kế hoạch 1996 - 2000 11
1. Quan điểm có tính chất mục tiêu và chiến lược 11
2. Giải quyết việc làm cho lao động xã hội 11
3. Quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của toàn Đảng, nhà nước và toàn dân 12
4. Giải quyết việc làm mang tính cấp bách trước mắt 13
II. Kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 1996 - 2000 13
1. Bối cảnh và thực trạng lực lượng lao động Việt nam thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000. 13
1.1. Bối cảnh 13
1.2. Thực trạng lao động Việt nam giai đoạn này 13
2. Kết quả thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm giai đoạn 1996 - 2000 15
III. Đánh giá tổng quan 16
1. Tác động của hệ thống chính sách về giải quyết việc làm 16
2. Những tồn tại cần được quan tâm trong thực hiện giải quyết việc làm của giai đoạn tiếp theo 17
CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRONG KẾ HOẠCH 2001 - 2005 19
I. Kế hoạch việc làm thời kỳ 2001 - 2005 19
1. Mục tiêu 19
1.1. Chiến lược việc làm thời kỳ 2001 - 2010 19
1.2. Mục tiêu của kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 2001 - 2005 21
2. Phương hướng phát triển việc làm thời kỳ kế hoạch 201 - 2005 22
2.1. Đối với khu vực thành thị 22
2.2. Đối với khu vực nông thôn 24
2.3. Xuất khẩu lao động và chuyên gia. 24
II. Giải pháp cơ bản thực hiện mục tiêu kế hoạch hoá giải quyết việc làm thời kỳ kế hoạch 2001 - 2005. 25
1. Thực hiện một số chương trình trọng điểm tạo việc làm và hỗ trợ giải quyết việc làm cho người thất nghiệp thiếu việc làm. 25
1.1. Chương trình hỗ trợ tự tạo việc làm trên cơ sở phát triển kinh tế ở nông thôn thông qua chương trình tín dụng nông thôn. 25
1.2. Chương trình xúc tiến việc làm trên cơ sở phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh cả khu vực thành thị và nông thôn. 26
1.3. Chương trình phối hợp khai thác tiềm năng các vùng thực hiện chủ trương gắn lao động với đất đai và tài nguyên đất nước. Tập trung xây dựng một số dự án trọng điểm. 26
1.4. Chương trình phát triển việc làm khu vực công cộng ở các đô thị, khu công nghiệp tập trung và khu du lịch, dịch vụ. 26
1.5. Chương trình dậy nghề, đào tạo lại và hoàn thiện kỹ năng cho người lao động. 27
1.6. Chương trình xúc tiến việc làm cho một số đối tượng đặc biệt 27
1.7. Chương trình mở rộng thị trường đưa lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 27
2. Tăng cường quản lý của nhà nước 27
2.1. Nâng cao vai trò của công tác kế hoạch việc làm 27
2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý quỹ quốc gia giải quyết việc làm 28
2.4. Phát triển hệ thống quản lý nhà nước và sự nghiệp việc làm để quản lý tốt các chương trình việc làm, cần phải tổ chức theo hệ thống sau: 29
3. Giải pháp chính sách 29
3.1. Chính sách kinh tế 29
3.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực. 30
3.3. Chính sách phát triển thị trường lao động 30
KẾT LUẬN 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển mà không chú ý đến việc sử dụng lao động kèm theo.
Trong giai đoạn tiếp theo ( những năm 1970 ) các nhà hoạch định nguồn nhân lực đã xây dựng các chiến lược về phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên lại chưa lồng ghép với kế hoạch phát triển nói chung. Chiến lược lao động việc làm vì vậy nhiều khi mang tính hình thức, thiếu khả năng khả thi.
Giai đoạn thứ ba, từ những năm 1980 đến nay, kế hoạch hoá lao động việc làm được đặc trưng bởi sự lồng ghép của các lao động kế hoạch việc làm với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, của vùng trên tầng trung mô và kế hoạch phát triển của doanh nghiệp trên tầm vi mô. Trong giai đoạn này chiến lược lao động việc làm được coi là bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế và là điều kiện tiên quyết của các chiến lược phát triển kinh tế.
Chương II
Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm
thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000
I. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề việc làm thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000
1. Quan điểm có tính chất mục tiêu và chiến lược
Theo quan điểm này, giải quyết việc làm là phải hướng vào phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, phải giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, tạo ra cơ cấu lao động ngày càng phù hợp với cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Trong chiến lược phát triển kinh tế 10 năm 2001 - 2010, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động hiện có phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế mới. Việc lựa chọn công nghệ, một mặt phải tập trung vào một số lĩnh vực mũi nhọn, sử dụng kỹ năng cao để tạo ra điều kiện và khả năng tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh, mặt khác lại phải chú trọng đến tầng lớp thấp nhưng lao động chiếm tỷ trọng lớn, thông qua áp dụng công nghệ thích hợp, công nghệ sử dụng nhiều lao động. Vấn đề cấp bách hiện nay là giải quyết việc làm cho thanh niên và thành thị. Song, để sử dụng hiệu quả nguồn lao động xã hội thì phải tập trung vào khu vực nông thôn, là địa bàn chiến lược cả nước. Từ đó việc giải phóng lao động và lực lượng sản xuất phải bắt đầu tư nông thôn.
2. Giải quyết việc làm cho lao động xã hội
Vấnn bao chùm của quan điểm này là phải bằng mọi biện pháp tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động trên cơ sở phát triển mạnh mẽ nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, với những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, phong phú, đan xen và hỗ trợ nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, hình thành thị trường lao động thống nhất và linh hoạt, không bị chia cắt về địa lý hành chính. Tự do hoá trong lao động là quan điểm cơ bản nhất để hình thành chính sách việc làm trong điều kiện mới. Quan điểm này phải được thể chế hoá thành luật pháp để đảm bảo cho người lao động tự do hành nghề, lập hội nghề nghiệp liên doanh liên kết; tự do hoá làm giầu chính đáng, coi một bộ phận dân cư giầu lên là cần thiết cho sự phát triển và tiến bộ chung; tự do thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước, xoá bỏ mọi ngăn cấm, chói buộc người lao động; phát huy đến mức cao nhất khả năng sáng tạo trong tự tạo việc làm, phát triển việc làm của công dân.
3. Quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của toàn Đảng, nhà nước và toàn dân
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cho dù nhà nước có chính sách phát triển kinh tế hoàn hảo đến mức độ nào đi nữa, thì trong xã hội bao giờ cũng có những người chưa có việc làm, thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Vì vậy tự giải quyết việc làm phải là trách nhiệm của toàn Đảng, nhà nước, của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội và của mỗi người lao động. Nhà nước một mặt phải khuyến khích phát triển thị trường lao động, làm cho nó hoạt động sôi động và có hiệu quả bằng các chính sách bảo vệ và khuyến khích các tổ chức đơn vị kinh tế các chủ doanh nghiệp, kể cả các chủ tư nhân, hộ gia đình và mọi người lao động ở mỗi thành phần kinh tế tạo được nhiều chỗ làm mới và thu hút được nhiều lao động. Mặt khác, nhà nước thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô để kiểm soát thị trường lao động, giảm hoặc khống chế tỷ lệ thất nghiệp ở mức cho phép, không để nó vượt quá mức gây nguy hiểm cho nền kinh tế và an toàn xã hội. Giải quyết việc làm trong điều kiện nước ta còn nghèo, chúng ta phải phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng trong nước, khai thác đến mức tối đa tiềm năng trong dân đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ nước ngoài vào các chương trình và dự án việc làm có mục tiêu. Muốn thực hiện được, nhà nước chủ yếu phải có chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đúng đắn hướng vào sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động xã hội, đồng thời tạo ra những điều kiện cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp để công dân tự do làm ăn theo pháp luật và hỗ trợ một phần tài chính để tạo "cú huých" để dân tự tạo việc làm, thu hút thêm lao động xã hội.
4. Giải quyết việc làm mang tính cấp bách trước mắt
Phải tập trung ưu tiên tạo thêm chỗ làm việc mới, giải quyết cho một số đối tượng bức bách nhất: lao động thôi việc trong khu vực nhà nước, thanh niên đến tuổi lao động ở thành thị, khu công nghiệp tập trung, bộ đội xuất ngũ, học sinh đã tốt nghiệp ở các trường lớp đào tạo, người đi lao động hợp tác trở về, người nghèo ở nông thôn, các đối tượng đặc thù, người xuất cảnh trái phép tự nguyện hồi hương, đối tượng tệ nạn xã hội. Giải quyết việc làm phải tiến hành có trọng tâm, trọng điểm như giải quyết việc làm ở các thành phố lớn, phải hình thành hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương và cơ sở bao gồm hệ thống quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp chăm lo giải quyết cho người lao động.
II. Kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 1996 - 2000
1. Bối cảnh và thực trạng lực lượng lao động Việt nam thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000.
1.1. Bối cảnh
Thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội (1996 - 2000) trong bối cảnh đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và chuyển sang thời kỷ đẩy mạnh công nghệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng từ giữa năm 1997 đến năm 1999, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, cùng với thiên tai nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã đặt nền kinh tế của đất nước trước những thử thách quyết liệt, đặc biệt là vấn đề việc làm cho người lao động.
1.2. Thực trạng lao động Việt nam giai đoạn này
* Quy mô lực lượng lao động tiếp tục gia tăng với tốc độ cao
Tính đến ngày 1/7/1000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7%/năm trong khi đó tốc độ tăng dân số bình quân của thời kỳ này là 1,5%/năm.
ở năm 1996 tỷ lệ lực lượng lao động chiếm trong tổng dân số nói chungl à 0,48; năm 2000 là 0,5, bình quân mỗi năm tỷ lệ này gia tăng 4%0.
* Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động được nâng cao.
- Năm 1996, lực lượng lao động khu vực thành thị chỉ chiếm 19,06% tổng lực lượng lao động trong cả nước, năm 2000 đã tăng lên 22,56%; trong khi tỷ lệ lực lượng lao động ở nông thôn giảm được từ 80,94% xuống còn 77,44%.
- Số người biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I chiếm trong tổng lực lượng lao động ngày càng giảm cả về số lượng và tỷ lệ. Năm 1996, tỷ lệ này là 26,67% đến năm 2000 giảm xuống còn 20,49% bình quân hàng năm làm được 338.021 người tốc độ giảm 3,86%.
- Số người tốt nghiệp cấp III tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ. Năm 1996 tỷ lệ này là 13,47%, đến năm 2000 tăng lên 17,23. Bình quân hàng năm tăng thêm 495.258 người với tốc độ tăng 9,22%/năm.
ở khu vực thành thị, nông thôn tình hình cũng diễn ra tương tự, tuy nhiên trình độ học vấn của lực lượng lao động ở thành thị vẫn vượt khá xa so với nông thôn.
- Lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/ học nghề trở lên tăng đáng kể cả về số lượng và tỷ lệ chiếm trong tổng lực lượng lao động. Năm 1996, tỷ lệ này là 11,81% đến năm 2000 tăng lên 15,51%. Bình quân hàng năm tăng thêm 472.083 người với tốc độ tăng 9,92%/ năm. Trong đó tăng nhiều nhất là lao động được đào tạo ở trình độ cao đẳng, đại học trở lên (174.343 người với tốc độ tăng 16,86%/năm), tiếp đến là lao động đã qua đào tạo nghề/ công nhân kỹ thuật (131.905 người với tốc độ tăng 7,58%); thấp nhất là trung học chuyên nghiệp cũng tăng thêm được hàng năm 131.905 người với tốc độ tăng 8,64%, ở các vùng lãnh thổ, khu vực thành thị, nông thôn các tỉnh trọng điểm và nhiều tỉnh trong cả nước cũng diễn ra xu hướng tương tự.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, đội ngũ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động giai đoạn này vẫn còn nhiều bất cập trong đó đáng chú ý là:
+ Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp trên học nghề trở lên cũng như từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp trên học nghề trở lên chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỷ lệ này chỉ có 40,96%.
+ Cấu trúc đào tạo của lực lượng lao động đã qua đào tạo vốn đã rất bất hợp lý, giai đoạn này lại càng bất hợp lý hơn. Năm 1996 cấu trúc đào tạo là 1 - 1,7 - 2,4 (tức ứng với một lao động có trình độ cao đẳng, Đại học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ Trung học chuyên nghiệp và 2,4 có trình độ sơ cấp/ học nghề/công nhân kỹ thuật); năm 2000 cấu trúc này là 1 -1,2 -1,7 trong khi mục tiêu của Nghị quyết trung ương là 1 - 4 - 10.
* Cơ cấu lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành
Năm 2000 sự chuyển dịch rõ rệt so với năm 1999 theo hướng; giảm cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành Công nghiệp, xây dựng và Dịch vụ. Năm 1996 có 23.601.918 người làm việc trong các ngành nông lâm, ngư, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người, chiếm 62,56%; trong khi đó, lao động việc làm trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 người (năm 1996) tăng lên 4.743.705 người năm 2000 và tỷ lệ so tổng số đã tăng lên từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ (từ 6.643.564 người lên 8791.950 người và từ 19,65% lên 24,29%).
2. Kết quả thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm giai đoạn 1996 - 2000
Trong thời gian 5 năm, số người có việc làm tăng từ 34,6 triệu người lên 40,7 triệu người, tức là tăng 6,1 triệu (17,6%) bình quân năm tăng khoảng 3,2%.
Khu vực nông - lâm - ngư nghiệp ổn định việc làm cho 23,5 triệu lao động và thu hút thêm gần 2 triệu lao động mới. Khu vực công nghiệp xây dựng thu hút thêm 2,2 triệu lao động. Khu vực dịch vụ có bước phát triển mạnh, tăng thêm từ 2,3 đến 2,4 triệu lao động. Cơ cấu lao động đã có bước chuyển dịch rõ dệt theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng từ 13% (năm 1996) lên 16,7% (năm 2000), lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,5% (năm 1996) lên 22% (năm 2000), lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp 67,5% (năm 1996) xuống còn 61,3% (năm 2000).
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị duy trì ở mức 6,5%, giảm từ 3,5% so với đầu thập kỷ; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên 74%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 10% (năm 1996) lên 22% (năm 2000), trong đó số qua đào tạo nghề khoảng 13,4%.
Do kết quả của cải cách hành chính và sắp xếp loại doanh nghiệp nhà nước, lao động khu vực nhà nước giảm xuống còn khoảng 9%, khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác thu hút 90% lao động xã hội. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy mới thu hút được 33 vạn lao động nhưng đã có vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu lao động.
Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm đóng góp rất tích cực: trong 5 năm, doanh số cho vay của quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm là trên 3 nghìn tỷ động, giải quyết việc làm cho 1,8 triệu người. Nếu không có các hoạt động hỗ trợ trực tiếp này, số chỗ làm việc chỉ đạt 75% đến 80% mức kế hoạch, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động chỉ đạt 60 - 65%.
Hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm đã được thừa nhận trong thị trường lao động và đã đạt kết quả rất đáng khích lệ: tư vấn về nghề nghiệp và đào tạo cho gần 2 triệu lượt người, dạy nghề gắn với việc làm và bổ túc nghề cho hơn 0,7 triệu người, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho gần 0,9 triệu người.
III. Đánh giá tổng quan
1. Tác động của hệ thống chính sách về giải quyết việc làm
- Có chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc hoạch định chính sách về việc làm, tạo ra những nhân tố mới làm thay đổi căn bản nhận thức về giải quyết việc làm. Người lao động đã có sự năng động và chủ động tạo việc làm cho mình và cho người khác.
- Xây dựng và ban hành các chính sách huy động đa dạng nguồn vốn đầu tư phát triển, gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn của các doanh nghiệp, vốn của nhân dân, vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
- Triển khai các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm đó là: Ngân sách nhà nước lập quỹ quốc gia giải quyết việc làm để cho vay vốn hỗ trợ các đối tượng chính sách, hình thành hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm và các cơ sở đào tạo nghề.
- Phát triển các hình thức, mô hình tổ chức giải quyết việc làm phong phú, đa dạng ở các địa phương, các ngành, các cấp, các đơn vị với sự tham gia tích cực của các tổ chức đoàn thể xã hội đã suất hiện những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra nhiều việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động như doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại....
- Xây dựng kịp thời các chính sách, cơ chế phù hợp về xuất khẩu lao động và chuyên gia nên đã bước đầu mở rộng được thị trường tăng quy mô xuất khẩu.
- Xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho phát triển việc làm, tạo điều kiện cho việc thê mướn lao động, thúc đẩy quan hệ lao động và thị trường lao động phát triển, mở ra khả năng mới 9/phòng tiềm năng lao động và mở việc làm.
2. Những tồn tại cần được quan tâm trong thực hiện giải quyết việc làm của giai đoạn tiếp theo
- Cần xem xét nguyên nhân dẫn đến chỉ tiêu thực hiện chưa đạt như kế hoạch đề ra, chất lượng lao động còn thấp, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, năng suất lao động chưa cao.
- Các chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động mọi nguồn lực, phát triển thị trường lao động.
- Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, tuy đã được triển khai có kết quả bước đầu nhưng ở một vài chỗ, vài nơi còn biểu hiện lùng tùng về mặt triển khai, điều hành, thực hiện. Cán bộ quản lý lao động và giải quyết việc làm chưa được tăng cường về số lượng và chất lượng, hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm còn nhiều bất cập, năng lực cán bộ còn hạn chế... hệ thống thông tin thị trường lao động, thông tin quản lý lao động, việc làm chưa đảm bảo cung cấp đầy đủ kịp thời, phục vụ cho công tác chỉ đạo điều hành cũng như các đối tượng tham gia thị trường.
- Những tồn tại của công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm
+ Kế hoạch lao động việc làm chưa thực sự trở thành bộ phận quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Các chỉ tiêu đang còn phụ thuộc, không có tính pháp lý, chung chung.
+ Quy trình xây dựng và mối quan tâm kế hoạch hoá lao động việc làm trên phạm vi cấp tỉnh rất khác nhau. Các kế hoạch lao động việc làm không có địa chỉ áp dụng, không đánh giá dựa trên tình hình sử dụng lao động. Các ban ngành chức năng khác không có trách nhiệm báo cáo và tổng kết.
+ Phương hướng tiếp cận xây dựng kế hoạch lao động việc làm xuất phát chủ yếu từ sức ép về cung lao động, mà không thể căn cứ vào nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở kinh tế. Do vậy các số liệu mới về việc làm còn sơ sài, chưa cân đối. Các kế hoạch còn rất nhiều khoảng trống, với rất nhiều câu hỏi còn bỏ ngơ.
+ Thiếu khâu nối, xây dựng chiến lược tổng hợp về lao động việc làm.
+ Công tác tổ chức thực hiện, giám sát và điều chỉnh kế hoạch lao động việc làm chưa được quan tâm. Trên thực tế cho thấy, chưa có cơ quan nào giám sát việc thực hiện kế hoạch tại cấp dưới.
+ Các điều kiện phục vụ công tác kế hoạch lao động việc làm còn thiếu.
Chương III
Các giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001 - 2005
I. Kế hoạch việc làm thời kỳ 2001 - 2005
1. Mục tiêu
1.1. Chiến lược việc làm thời kỳ 2001 - 2010
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, con người ( trong đó có người lao động) đã được đặt đúng vị trí trung tâm của sự phát triển. Mọi chính sách, mọi giải pháp phát triển kinh tế xã hội đều hướng vào mục tiêu phục vụ con người. Từ những định hướng này, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động đã được thay đổi cơ bản cả về nhận thức và quá trình thực hiện. Từ chỗ con người thụ động trong việc chông chờ sự sắp xếp việc làm của nhà nước đã chuyển sang người lao động tích cực chủ động tự tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội, thông qua việc làm đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ. Nhà nước tập trung ban hành chính sách về lao động, pháp luật, xây dựng các chương trình giải quyết việc làm... nhờ vậy toàn xã hội đã huy động được nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước góp phần đắc lực trong việc giải quyết việc làm (trong vòng 10 năm từ năm 1991 - 2000 tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 57 tỷ USD). Bên cạnh đó, nhà nước còn có các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người lao động để tạo việc làm tăng thu nhập thông qua quỹ giải quyết việc làm của chương trình quốc gia giải quyết việc làm.Từ năm 1992 đến 2000, quỹ đã có 2000 tỷ đồng, doanh số cho vay là 4 nghìn tỷ đồng, thu hút được 3 triệu lao động. Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm được hình thành và phát triển (đến năm 2000 có 143 trung tâm), hàng năm đã chi vốn việc làm và tư vấn nghề nghiệp cho hơn 20 vạn người, giới thiệu và cung ứng 8 vạn lao động cho các doanh nghiệp với những nỗ lực của nhà nước và xã hội, tư năm 1991 đến 2000, số người có việc làm đã tăng từ 30,9 triệu người lên 40,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm từ 10% vào năm 1991 xuống còn 6,5% vào năm 2000.
Người nông thôn đã sử dụng tốt thời gian lao động của mình.
Năm 2000 tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 74%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên đáng kể (năm 2000 là 20%). Cơ cấu lao động có sự dịch chuyển tích cực theo hướng tăng lao động cho công nghiệp và dịch vụ, giảm dần lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp. Đến năm 2000, tỷ lệ lao động ngành dịch vụ chiếm 22% trong tổng số lực lượng lao động. Cùng với tạo việc làm trong nước, xuất khẩu lao động không chỉ là biện pháp tích cực tạo việc làm mà thực sự đã trở thành một nganhf kinh tế đối ngoại quan trọng, mỗi năm đem lại hàng tỷ đô la cho đất nước. Có thể nói đường lối đổ mới của Đảng đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức trong phương thức tạo việc làm mới cho người lao động; đã huy động được mọi nguồn lực đầu tư phát triển và tạo việc làm. Các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người lao động đã được sự ủng hộ nhiệt tình của toàn xã hội nên đã góp phần quan trọng tạo việc làm cho lao động, góp phần tạo tỷ lệ thất nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lao động và nâng cao chất lượng lao động.
Tuy nhiên nhìn một cách tổng quan, chúng ta vẫn còn thiếu những chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động mọi nguồn lực để tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Vì vậy vẫn chưa khai thác hết tiềm năng xã hội trong việc giải quyết việc làm, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, việc chuyển dịch cơ cấu và chất lượng lao động còn chậm...
Từ những thành công và hạn chế trong việc giải quyết việc làm, chiến lược việc làm trong thời kỳ 2001 - 2010 nhằm đạt được mục tiêu là chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm cho phần lớn lao động nhu cầu việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Mục tiêu cụ thể từ năm 2001 đến 2010 là tạo việc làm cho khoảng 13,5 triệu người, bình quân mỗi năm 1,35 triệu người tích cực chuyển dịch cơ cấu lao động; phấn đấu lao động trong nông nghiệp đạt 50% công nghiệp, xây dựng 23% - dịch vụ 27%; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%; tăng tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn lên 80 - 85%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% năng suất lao động tăng 4 - 5%/năm...
1.2. Mục tiêu của kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 2001 - 2005
Bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên của thế kỷ mới (2001 - 2005) tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội đan xen với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Thế và lực nước ta mạnh hơn nhiều so với thời kỳ trước. Chính trị - xã hội tiếp tục ổn định; quan hệ sản xuất được đổi mới phù hợp hơn; thể chế kinh tế thị trường đã bắt đầu hình thành và vận hành có hiệu quả hệ thống pháp luật; cơ chế chính sách phù hợp đang phát huy trong phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
Năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tạo ra tiền đề cần thiết cho bước phát triển mới. Cơ cấu kinh tế có bước phát triển mới. Cơ cấu kinh tế có bước dịch chuyển tích cực, quan hệ kinh tế, ngoại giao của nước ta đã mở rộng trên thị trường quốc tế.
Năm 2000, nền kinh tế đã bắt đầu lấy lại được nhịp độ tăng trưởng tương đối khá, tạo đà phát triển trong những năm tiếp theo.
Tuy vậy, trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn thấp; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mô sản xuất còn nhỏ, các cân đối nguồn lực còn hạn hẹp, mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư thấp, chưa đủ tạo sức bật mới đối với sản xuất và phát triển thị trường. Lĩnh vực xã hội tồn tại nhiều vấn đề bức xúc, cải cách hành chính tiến hành còn chậm.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, xu thế toàn cầu hoá, khả năng ổn định và phục hồi của nền kinh tế khu vực thế giới trong thập kỷ mới có những tác động tích cực, tạo điều kiện cho nước ta mở ra khả năng hợp tác kinh tế, khai thác lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. Đồng thời cũng có những yếu tố không thuận lợi, tăng sức ép cạnh tranh đối với nền kinh tế nước ta.
Vấn đề đặt ra là phải phát huy cao độ mạnh của toàn dân tộc, đặc biệt là trí tuệ và kỹ năng lao động của người Việt nam, nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, khắc phục những khó khăn, yếu kém, tận dụng mọi thuận lợi và thời cơ để phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 đã chỉ rõ về phương hướng nhiệm vụ về giải quyết việc làm.
- Tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số, sớm ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý, khoảng 83 triệu người vào năm 2005, 88 triệu người vào năm 2001, giải quyết đồng bộ từng bước và có trọng điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư.
- Giải quyết việc làm là một chính sách ưu tiên trong toàn bộ chính sách kinh tế xã hội. Đến năm 2005, khoảng 40 triệu lao động có việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5 - 6%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80%.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế. Đến năm 2005, tỷ trọng nông nghiệp (bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp) trong tổng GDP của toàn nền kinh tế quốc dân là từ 20 - 21% thu hút 65 - 57% lao động xã hội đang làm việc, công nghiệp được xây dựng chiếm 38 - 39% GDP và thu hút 20% lao động xã hội đang làm việc; toàn bộ các ngành dịch vụ chiếm 41 - 42% GDP và thu hút khoảng 23 - 24% lao động xã hội đang làm việc.
Từ những chỉ số đã nêu ở trên, có thể xác định được một số lao động có việc làm thường xuyên (số chỗ làm việc ổn định) đến năm 2005 theo mục tiêu của chương trình phát triển kinh tế xã hội tạo mới việc làm ổn định cho 40.000 lao động. Trong đó có 226000 nghìn người trong khu vực sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; 8 nghìn người trong khu vực công nghiệp và xây dựng 9400 người trong khu vực. Thông qua xuất khẩu lao động và chuyển ra là 300 nghìn. Bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2005 xuất khẩu tăng thêm 20 nghìn người/năm, thông qua các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho 1550 nghìn người, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 300 người/ năm, tăng thêm so với kế hoạch thời kỳ 1996 - 2000 là 397 nghìn người/năm.
2. Phương hướng phát triển việc làm thời kỳ kế hoạch 2001 - 2005
2.1. Đối với khu vực thành thị
Thành thị bao gồm các thành phố, thị xã, các khu công nghiệp tập trung và du lịch... tuy có tỷ trọng về dân số và lao động không lớn so với khu vực nông thôn ( khoảng từ 20 đến 22% dân số cả nước) nhưng là địa bàn tập trung dân cư, lao động cao thường lao nơi chịu tác động mạnh của thị trường, dễ xảy ra nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, đặc biệt là vấn đề việc làm. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho thành thị vừa có tính chất lâu dài, vừa cấp bách trước mắt, đặc biệt là giải quyết việc làm cho lao động thiếu việc trong quá trình sắp xếp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0173.doc