Tiểu luận Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và thích nghi ở Kiên Giang

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .1

I. Khái Quát Chung Về BĐKH Ờ Việt Nam .2

II. Kiên Giang- Vùng Đất ĐBSCL Chịu Ảnh Hưởng BD9KH .3

II.1 Khái Quát Về Tỉnh Kiên Giang 5

II.2 Tác Động Của BĐKH Đến Kiên Giang- Vùng Đất ĐBSCL .9

II.3 Vấn Đề Về Lũ, Bảo, Hạn Hán, Nước Biển Dâng .11

II.4 Vấn Đề Về Nông Nghiệp .19

II.5 Vấn Đề Về Con Người .20

III. Vấn Đề Thích Nghi Và Biện Pháp Đối Phó Với BĐKH Ở Kiên Giang –ĐBSCL .21

III.1 Sơ Lược Về Thành Tựu Kinh Tế Kiên Giang .21

III.2 Các Biện Pháp Đối Phó Với BĐKH .25

Tài Liệu Tham Khảo .32

 

doc34 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 5489 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và thích nghi ở Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến Kiên Giang – Vùng Đất ĐBSCL ĐBSCL có địa hình bằng phẳng, phần lớn có cao độ trung bình từ 0,7-1,2 m, ngoại trừ một số đồi núi cao ở phía Bắc đồng bằng thuộc tỉnh An Giang. Dọc theo biên giới Campuchia có địa hình cao hơn cả, cao trình từ 2,0-4,0 m, sau đó thấp dần vào đến trung tâm đồng bằng ở cao trình 1,0-1,5 m, và chỉ còn 0,3-0,7 m ở khu vực giáp triều, ven biển. Vùng tả sông Tiền, địa hình dạng lòng máng trũng có hướng dốc từ Tây-Bắc xuống Đông-Nam. Vùng giữa hai sông Tiền-Hậu, phù sa sông cũng bồi đắp hình thành nên hai dãy bờ sông cao ven sông rồi thấp dần vào nội đồng tạo thành lòng máng trũng ở giữa. Vùng hữu sông Hậu nhìn chung có hướng dốc Đông-Tây, từ phía sông Hậu thấp dần về phía biển Tây. Ven bờ biển thường do hoạt động của hải lưu, gió và phù sa sông, tạo thành các giồng cát cao ven biển có hình cung lồi ra phía biển, nằm xen kẽ các vùng trũng thấp ngập triều. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất thấp ven biển của Việt Nam sẽ là khu vực bị tác hại nặng nề nhất do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra. Trong các tháng mùa khô , nhiều tỉnh vùng ĐBSCL đang bị nước biển xâm nhập mặn sâu làm thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, nhiều khu vực đã thiếu nước ngọt phục vụ sinh họat... ĐBSCL là vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Theo dự đoán của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), các tác động trên sẽ gây thiệt hại khoảng 17 tỉ đồng mỗi năm và khiến khoảng 17 triệu người không có nhà. Còn Văn phòng quản lý điều tra tài nguyên biển và môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường) dự báo: mực nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao từ 3- 15 cm vào năm 2010, dâng từ 15 - 90 cm vào năm 2070. Các vùng ảnh hưởng là Kiên Giang, Tiền Giang,huyện Kiên Lương; huyện Hòn Đất…..Là vùng đất thuần về nông nghiệp lại là vựa lúa lớn nhất nước nên vấn đề khí hậu , đất đai, hệ thống nước với vùng là hết sức quan trọng . Việc đánh giá tác động biến đổi khí hậu bao gồm các tác động sau: ài Bảng: thể hiện các lĩnh vực đáng giá biến đổi khí hậu II.3 Vấn Đề Về Lũ , Bão, Hạn Hán , Nước Biển Dâng Tác động của BĐKH đối với thiên tai, con người, cây trồng và vật nuôi, như làm tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, tố, lốc..., các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng hay hạn hán, xâm nhập mặn,, các dịch bệnh trên người, trên gia súc, gia cầm và trên cây trồng. Thay đổi, biến động ranh giới giữa các vùng mặn, lợ, ngọt sẽ tác động lớn đến hệ thống canh tác truyền thống, cơ sở hạ tầng và đời sống xã hội của người dân. Môi trường bị đảo lộn. Mặn xâm nhập sâu, thiếu nguồn nước ngọt trầm trọng. Các hiện tượng xói lở và xâm thực bờ biển, cửa sông sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn Ta có bảng so sánh các vùng chịu ảnh hưởng nặng do nước biển dâng như sau Từ bảng trên ta thấy diện tích Kiên Giang bị ngập cũng khá đáng kể ( chiếm 28.2%) tổng diện tích. Đồng bằng sông Cửu Long trước đây rất ít hứng chịu bão. Thế nhưng trong một thập kỷ, năm 1997 đã chịu cơn bảo Linda và năm 2006 đã bị đuôi bão Durion quét qua.Nhiều nghiên cứu gần đây tìm mối tương quan giữa việc bão ở Tây Thái Bình Dương có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn sau tháng 10 dương lích và đi về hướng đường xích đạo, với nhiệt độ nước biển trên bề mặt tăng, kết quả của dòng hải lưu bị thay đổi bởi biến đổi khí hậu toàn cầu. Hình 4: Cơn bảo NARGIS quét qua châu thổ IRRAWADDY (Myanmar) tháng 5/2008 Hình 5: cơn bão Dorion đã gây ra ở Đồng bằng sông Cửu Long Cơn bảo NARGIS quét qua châu thổ IRRAWADDY (Myanmar) tháng 5/2008 và hậu quả nặng nề mà cơn bảo đã gây ra là một cảnh báo đối với Đồng bằng sông Cửu Long. Tàn phá mà đuôi cơn bão Dorion đã gây ra ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ còn lớn lao hơn và khắc nghiệt hơn nhiều nếu mực nước biển dâng lên so với hiện nay . Tác động của BĐKH đối với tài nguyên nước, như chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô, gây khó khăn cho việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng nước.Ngành Khí tượng Thuỷ văn các tỉnh ĐBSCL còn cho biết: trong các đợt triều cường từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009 đã làm cho vùng ngoài đê bao 8 tỉnh, thành vùng lũ gồm: An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ bị ngập. Ngoài ra, triều cường làm nước sông dâng cao đã làm khoảng 70.000 ha vườn cây ăn trái, hàng trăm km đường nông thôn bị ngập sâu từ 10 – 30 cm. Quốc lộ 53 thuộc địa phận thị trấn huyện Long Hồ cũng bị ngập trên chiều dài 200 mét, sâu 15 cm. Hàng trăm nhà dân chưa kịp tôn nền cũng bị ngập. Trước đó, đợt triều cường kết hợp mưa nhiều thời điểm giữa tháng 12/2008 làm 100.000 ha nằm ngoài các đê bao tại ĐBSCL bị ngập từ 10 – 40 cm, chủ yếu là vườn cây ăn trái. Nước ngập xảy ra ngay trong mùa khô gây trở ngại trong sản xuất, sinh hoạt của người dân sống ngoài vùng đê bao.Vào mùa mưa, trong những năm qua thường đến sớm, kéo dài và kết thúc muộn, chứ không còn theo quy luật của mấy chục năm trước. Trong năm 2007, 2008, mùa mưa kéo dài mãi đến tháng 12 và tháng 1 năm sau, muộn hơn mấy năm trước hơn 1 tháng. Mùa lũ cũng có độ trễ, đỉnh lũ thường xuất hiện muộn. Hàng năm, đỉnh lũ xuất hiện vào cuối tháng 9 đầu tháng 10, thì từ năm 2006 tới giữa tháng 10 mới xuất hiện đỉnh lũ. Tình trạng mưa kéo dài, lũ về đạt đỉnh muộn và trùng vào lúc triều cường hàng tháng khiến cho vùng hạ lưu nhiều nơi bị ngập. Hình 5 : bảng đồ thể hiện mực nước ở ĐBSCL Theo dự báo, trong vài chục năm tới, ĐBSCL nước biển sẽ dâng cao làm ngập lụt phần lớn ĐBSCL vốn đã bị ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ 15.000 – 20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông Mê kông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang; thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa lũ cũng khó khăn. Suy giảm tài nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, nghề cá. Độ ngập(m) Hiện trạng Không có công trình Có công trình hiện trạng Nước biển dâng(NBD)0.69 NBD 1m Nước biển dâng(NBD)0.69 NBD 1m Diện tích Diện tích So với hiện trạng(HT) Diện tích HT Diện tích HT Diện tích HT H<0.5 1.049 289 -761 51 -998 202 -848 47 -1.002 0.5<H<=1 1.063 645 -418 629 -435 604 -459 496 -567 1<H<=1.5 724 998 274 451 -273 1.007 284 421 -302 1.5<H<=2 459 1.156 697 1.738 1.279 1.270 811 1.880 1.421 2<H<=2.5 288 410 121 568 280 414 126 592 304 2.5<H<=3 212 281 69 323 111 281 69 323 111 H>3 66 84 17 102 36 84 18 102 36 Tổng diện tích ngập >0,5 2.813 3.574 3.812 3.660 3.815 Bảng :thể hiện kết quả tính toán độ ngập và diện tích ngập lũ ở DBSCL Theo kỹ sư Nguyễn Văn Hạnh, dự tần suất bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) đổ vào Kiên Giang trung bình nhiều năm trước đây chỉ có 0,2 cơn/năm. Tuy nhiên xu thế BĐKH toàn cầu và hiện tượng ấm dần lên của trái đất trong những năm gần đây đã làm thay đổi điều đó. Trong 22 năm gần đây (1980-2001), có tất cả 35 cơn bão và ATNĐ ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực từ 13o vĩ Bắc đến khu vực mũi Cà Mau – Kiên Giang và vịnh Thái Lan (tỷ lệ tăng gấp 8 lần trước đây). Gây thiệt hại lớn nhất là cơn bão số 5 năm 1997 có tâm bão đi qua đảo Thổ Chu-Phú Quốc, Kiên Giang và vịnh Thái Lan, làm khoảng 3.000 người chết và mất tích. Kiên Giang đối mặt khô hạn trong “mùa mưa” Tình hình nắng hạn liên tục đã làm khoảng 9000ha của nông dân các vùng U Minh Thượng ( kiên giang) bị chết khô , trong đó có trên 1000ha lúa bị thiệt hại từ 50 – 100%. Kiên Giang thuộc tiểu vùng C nếu chia ĐBSCL chia làm ba tiểu vùng dựa vào kết quả điều tra cơ bản tổng hợp và đối chiếu với thực tế sản xuất, kinh tế-xã hội ta có thể dự báo định tính tác động của mực nước biển dâng lên ba tiểu vùng như sau. Hình 6 : tiểu vùng ĐBSCL dưói tác động của nước biển dâng - Tiểu vùng nơi ảnh hưởng nguồn chiếm ưu thế (A): Đó là các tỉnh giáp biên giới Cam-pu-chia, là nơi hai nhánh sông Mêkông và sông Bassac đi vào lãnh thổ Việt Nam và lũ sông Mê-kông tràn bờ và tràn đồng vào Đồng bằng sông Cửu Long.Tiểu vùng này chịu tác động về môi trường tự nhiên của mực nước biển dâng nhưng không mạnh như hai tiểu vùng B và C. Do quá trình biển mạnh lên do biển dâng, ranh dưới của tiểu vùng sẽ lùi về phía nguồn, độ sâu ngập vào mùa lũ sẽ sâu hơn và thời gian ngập cũng có thể kéo dài hơn. Bồi lở bờ sông, cồn bãi hoạt động mạnh hơn. - Tiểu vùng chịu ảnh hưởng hỗn hợp biển và nguồn (B): Đây là địa bàn thể hiện rõ rệt nhất sự giao thoa giữa hai quá trình sông và biển, với quá trình biển mạnh lên. Tiểu vùng chịu sự tác động về môi trường tự nhiên mạnh dần theo hướng từ nguồn ra biển. Diện tích của tiểu vùng bị thu hẹp lại. - Tiểu vùng nơi ảnh hưởng biển chiếm ưu thế (C): Kiên Giang và một số tỉnh trong tiểu vùng chịu ành hưởng mạnh của nước biển dâng.Đây là vùng duyên hải của các tỉnh giáp với Biển Đông và Vịnh Thái Lan.Tiểu vùng này chịu tác động về môi trường tự nhiên của mực nước biển dâng trực tiếp nhất. Hệ sinh thái bãi triều và rừng ngập mặn qua gánh chịu các tác động sẽ thể hiện vai trò “đệm” giảm sóng, phòng hộ và giữ đất. Tình hình xói lở đường bờ sẽ mạnh hơn. Tình hình bồi lắng ở các cửa sông sẽ thay đổi. Đường ranh với tiểu vùng (B) sẽ bị “đẩy lên” về phía nguồn. Quy hoạch thủy lợi, đê bao ven biển cần được tính toán lại với những tham số mới của phân vùng thủy văn thủy lực trong tiểu vùng. Về mặt kinh tế - xã hội, khu vực I tại đây, đã thích ứng từ trước với điều kiện ngập theo triều và nhiễm mặn hầu như quanh năm, sẽ thay đổi theo hướng “kinh tế nước mặn” là chính. Vùng sản xuất lúa sẽ bị co lai. Khu vực II, khu vực III và đời sống, sinh hoạt của người dân sẽ khó khăn hơn do độ ngập tăng và khan hiếm nguồn nước ngọt. Nguồn nước ngọt tại đây chỉ trông chờ vào nước mưa và nước ngầm. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng để tôn cao và bảo vệ công trình sẽ tốn kém không ít. Vì những lý do đó, một bộ phận dân cư có thể sẽ dịch chuyển ra ngoài tiểu vùng. Vấn đề lớn nhất của tiểu vùng là bảo vệ các thành quả của lao động quá khứ. II.4 Vấn Đề Về Nông Nghiệp Tác động của BĐKH đối với nông nghiệp và an ninh lương thực, như tác động đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng, ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm, gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp . Chuyện đất nóng lên tại Kiên Giang đã được một chuyên gia khí tượng , khí hậu địa phương đưa ra số liệu để chứng minh. “Qua số liệu quan trắc của trạm khí tượng hải văn Phú Quốc – Kiên Giang từ năm 1956 đến năm 1977 (22 năm) so sánh với quãng thời gian 27 nam sau đó (1977 -2003) thì nhiệt độ trung bình tăng lên 0.4 độ C , kỹ sư Nguyễn Văn Hạnh. Sẽ có từ 15.000-20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông Mê Công giảm từ 2-24% trong mùa khô, tăng từ 7- 5% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang; thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay.nước mặn từ 6 cửa sông nói trên và cửa Cổ Chiên (thuộc hệ thống sông Mê kông); từ cửa sông Ông Đốc, Cái Lớn đã xâm nhập sâu từ 10 – 60 km đến địa bàn 53 xã thuộc các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, Hậu Giang. Hiện một số địa phuơng trong vùng ĐBSCL đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác động xấu khi chế độ nước ngập sâu bị thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình xâm nhập mặn ở mức độ cao có thể hủy diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tràm ở Cà Mau, Kiên Giang... Trong tương lai, tổng lượng mưa Hè thu từ 15-5 đến 15-6 sẽ giảm, hạn đầu vụ sẽ gay gắt hơn, lượng mưa giảm dưới từ 5% đến trên 35% và phân bố bất lợi cho sản xuất. Vùng ven biển mưa giảm, khả năng mặn xâm nhập gia tăng. Vùng có nhiệt độ trên 370C trở lên mở rộng. Số ngày nóng trên 400C vào mùa hè nhiều hơn. Diện tích ngập lũ sẽ mở rộng vào năm 2030, nhưng số ngày ngập lũ ở vùng đầu nguồn sẽ giảm và tăng ở khu vực hạ lưu. Tác động này sẽ gây ảnh hưởng tới vùng nuôi tôm ở Bạc Liêu, Cà Mau. Trước sự thay đổi thời tiết khí hậu như trên, những vấn đề về sâu bệnh nhiều dịch bệnh nguy hiểm đã xuất hiện và diễn biến phức tạp trên cây trồng, vật nuôi, thủy sản và cả con người: bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi; bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên cây lúa; bệnh cúm trên gia cầm; bệnh tai xanh trên heo; bệnh đốm trắng ở tôm; bệnh sốt xuất huyết và bệnh tay chân miệng trên người. Tác động của BĐKH đối với lâm nghiệp như hệ sinh thái ven biển ĐBSCL bị ảnh hưởng do làm giảm diện tích rừng ngập mặn, tác động xấu đến rừng tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn...; Nhiệt độ và mức độ khô hạn gia tăng cũng làm tăng nguy cơ cháy rừng, phát triển sâu bệnh, dịch bệnh. Tác động của BĐKH đối với thuỷ sản như nước mặn lấn sâu vào nội địa, làm mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thuỷ sản nước ngọt; Cường độ và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong một thời gian dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò,...) bị chết do không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Mùa mô phỏng Mùa kiệt 2004 Mùa lũ Trường hợp hiện trang Không có cống ngăn mặn hiện trạng Không có cống ngăn mặn nước biển dâng (m) 0.69 0.69 0.69 0.69 1 1 1 1 Bảng : bài toán mô phỏng xâm nhập mặn và ngập lụt ở DBSCL Tác động của BĐKH đối với giao thông vận tải như làm tăng nguy cơ ngập nước các tuyến giao thông quan trọng, tăng xói lở mặt và nền đường bộ, tăng nguy cơ xói lở và cạn kiệt các luồng đường thuỷ . II.5 Vấn Đề Về Sức Khoẻ Con Người Sự thay đổi về khí hậu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ theo nhiều phương diện khác nhau ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây ra những vấn đề về sức khoẻ là các bệnh tật xảy ra do các động vật truyền nhiễm ví dụ như bệnh sốt rét do muỗi truyềnnhiễm. Nếu do sự thay đổi của nhiệt độ trung bình tại những vùng mà muỗi thường sinh sống, sẽ dấn đến sự thay đổ về nơi cư trú của những con vật này, và bệnh sốt rét có thể sẽ xuất hiện ở những vùng mà trước đây chưa từng có, do đó người dân thường không quen với loại bệnh này.Tác động của BĐKH đối với sức khoẻ con người như nhiệt độ tăng, tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh; Làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới như sốt rét, sốt xuất huyết, số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan. Làm tăng số người chết do thiên tai; Tăng nghèo đói do giảm thu nhập mất nhà cửa. Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, người già, trẻ em và phụ nữ . III. Vấn Đề Thích Nghi Và Biện Pháp Đối Phó Ở Kiên Giang – ĐBSCL III.1 Sơ Lược Về Thành Tựu Kinh Tế Kiên Giang Kiên Giang tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2008 (tính theo giá so sánh 1994) ước tính đạt trên 15.185 tỷ đồng, tăng 12,60% so với năm 200 Trong đó: Khu vực I (Nông - lâm nghiệp, thủy sản) đạt gần 6.628 tỷ đồng, tăng 11,11%, đóng góp cho mức tăng trưởng chung 4,92 điểm phần trăm; Khu vực II (Công nghiệp, xây dựng) đạt gần 4.713 tỷ đồng, tăng 11,41%, đóng góp cho mức tăng trưởng chung 3,58 điểm phần trăm; Khu vực III (Dịch vụ) đạt gần 3.845 tỷ đồng, tăng 16,84%, đóng góp cho mức tăng trưởng chung 4,10 điểm phần trăm. GDP bình quân đầu người tăng từ 7.907 ngàn đồng năm 2007 lên 8.798 ngàn đồng năm 2008, tăng 891 ngàn đồng (11,27%), tính theo theo đô la Mỹ thì GDP bình quân đầu người đạt 802USD. Trước những thành tựu đó , là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nên biện pháp giúp con người thích nghi với điều kiện khí hậu thay đổi để bảo vệ tốc độ tăng kinh tế ,đảm bảo đời sống nhân dân thì cần có giải pháp thích nghi hợp lý với biến đổi và vấn đề đặt ra là : Làm thế nào để thích ứng với biến đổi khí hậu? Thích ứng với biến đổi khí hậu là điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm sự tổn thương đối với dao động và biến đổi khí hậu hiện hữu hoặc tiềm năng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể đã tiên lượng được, những tác động của nó trong tương lai là một trong những vấn đề phải tiên đoán. Hơn nữa,những tiên đoán hiện này thường được xem là những thay đổi có phạm vi rộng (Toàn cầu/khu vực/quốc gia), không đi sâu xuống cấp cộng đồng.Điều này làm cho việc phòng ngừa trở nên khó khăn. Ví dụ Thích ứng đến biến đổi khí hậu có thể bao gồm nhiều phản hồi, chẳng hạn như thay đổi a) quản lý thực tế mùa vụ (ví dụ như chọn các cánh đồng, lịch thời vụ, mật độ canh tác, các giống cây trồng, vv...), b) quản lý chăn nuôi thực tế (ví dụ như thức ăn và chăm sóc thú y, thời gian và các địa điểm di cư, vv), c) sử dụng đất đai và quản lý đất đai (ví dụ như diện tích mặt cỏ, trồng cây hoặc bảo vệ, khai thác công trình thủy lợi và nước, bảo tồn đất và nước , thực hành làm đất, quản lý độ phì đất đai, vv .), d) các chiến lược sinh kế (ví dụ như kết hợp với các cây trồng hoặc sản xuất chăn nuôi, kết hợp hoạt động giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp, di dân tạm thời hoặc vĩnh viễn,. Nghiên cứu về tương tác giữa biến đổi khí hậu-sản xuất nông nghiệp đã phát triển từ cách tiếp cận "từ trên xuống" đến cách tiếp cận "từ dưới lên". Chế độ “từ trên xuống” bắt đầu với kịch bản biến đổi khí hậu, và ước tính tác động thông qua phân tích các kịch bản, trên cơ sở đó có thể xác định được sự thực tế của thích ứng. Phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” mang đến một viễn cảnh về tổn thương, nơi chiến lược thích ứng được coi là một quá trình liên quan đến việc hoạch định chính sách kinh tế xã hội và môi trường, nhận thức của các nhà sản xuất, và các thành phần ra quyết định (Bryant et al. 2000; Wall và Smit 2005 và Belliveau et al. 2006). Trong phương pháp tiếp cận dựa trên kịch bản, thích ứng được giả định và được xử không thay đổi như là các điều chỉnh ký thuật cơ bản (ví dụ, để thay đổi các cây trồng khác nhau, áp dụng hiệu quả .hệ thống thủy lợi, hoặc thay đổi hệ thống sản xuất) để xác định những tác động. Hầu hết các thích ứng đại điện có thể có hoặc có tiềm năng áp dụng các biện pháp, chứ không phải là các biện pháp đã thực sự được áp dụng. Thật vậy, không có bằng chứng rằng các lựa chọn thích ứng là khả thi, thực tế hoặc thậm chí khả năng có thể xảy ra. Hơn nữa, chúng cũng chỉ có thể có được đầy đủ và chính xác với những kiến thức về tương lai của điều kiện khí hậu, đó là lý do tại sao họ áp dụng tên cho kịch bản là " người nông dân thông thái " (Risbey et al. 1999 trích dẫn của Belliveau et al. 2006). Cách tiếp cận này có thể được tìm thấy trong phân tích không gian, mô hình khí hậu tác động. Kiên Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung thì khi nghiên cứu về khí hậu tác động bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận “từ trên xuống” dự báo các tác động trên các lĩnh vực nông nghiệp. Phân tích “Từ trên xuống” tác động biến đổi khí hậu có thể được kết hợp với kịch bản của thích ứng với biến đổi khí hậu. Chiến lược thích ứng và giảm thiểu được xác định dựa trên : a) phân tích tác động biến đổi khí hậu, b) và nghiên cứu có sự tham gia ở qui mô các hộ gia đình và cộng đồng ; c) kết quả đầu ra từ các diễn đàn người có liên quan, nhóm các chuyên gia tư vấn bởi các nhà hoạch định chính sách, các quan chức chính phủ, tổ chức có liên quan có thể được mô phỏng qua mô hình để đánh giá các chi phí và lợi ích của việc thay thế thích ứng chiến lược, bao gồm cả các cải tiến trong sản xuất nông nghiệp, thay đổi trong thực tiễn quản lý, và đầu tư vào thuỷ lợi, đường giao thông, thuỷ điện và các ngành phụ trợ. Đánh đổi giữa giảm thiểu, thích ứng, môi trường và mục tiêu năng suất cần phải được thẩm định cẩn thận trong điều kiện tiền tệ. * Sau đây là một số ví dụ như: - Các biện pháp giảm thiểu rủi ro chung và cụ thể Do hiện tượng thời tiết khắc nghiệt ngày càng trở nên khó tiên đoán được, nên cần phải có cả những biện pháp giảm thiểu rủi ro chung và cụ thể. Ví dụ: biện pháp giảm thiểu rủi ro cụ thể do lụt gây ra là làm con đập. Nhưng con đập chỉ là biện pháp để giảm thiểu rủi ro của một loại thiên tai nhưng lại không thể giảm thiểu rủi ro của loại thiên tai khác, như hạn hán chẳng hạn. Trong tình huống, các thiên tai xảy ra trong tương lai có thể khác với quá khứ, quan trọng là, phải có những biện pháp góp phần đem lại sự an toàn cho con người trước mọi loại hình thiên tai. Ví dụ: thành lập và đào tạo một đội ứng phó cứu hộ cứu nạn khẩn cấp, hoặc đa dạng hoá nguồn thu nhập/sinh kế. - Kết hợp các công cụ hiện có với kiến thức và biên pháp mới Ở một quốc gia như Việt Nam, người dân đã quen với những thiên tai thường xuyên xảy ra, người dân cũng đã thường có kiến thức và kinh nghiệm của địa phương để tiên đoán và đương đầu với thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên, do sự biến đổi của khí hậu sẽ có thể sẽ gây ra những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, nên kiến thức hiện có của người dân địa phương có thể sẽ không còn phù hợp nữa. Những thích ứng của địa phương cần phải được bổ xung bằng những biện pháp mới, như thiết lập hệ thống cảnh báo sớm dựa trên những dự đoán của các trạm/Viện Khí tượng Thuỷ văn . - Các biện pháp thích ứng có thể rất đơn giản Mặc dù biến đối khí hậu là ‘mới’, những các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu vẫn đang hiện có, là những biện pháp khá đơn giản:Tại một ngôi làng ở Băng la đet, nuôi gà mang lại nguồn thu nhập quan trọng. Tuy nhiên, trong hơn mấy thập kỷ qua, ngôi làng đã phải hứng chịu nhiều trận lụt và cứ mỗi lần như thế nhiều con gà đã bị chết. Sau đó, một người phụ nũ đã tìm ra giải pháp và làm gương cho dân làng noi theo để khiến lụt lội không làm ảnh hưởng đến kế sinh nhai của họ nữa: thay vì nuôi gà, bà bắt đấu nuôi vịt. Biện pháp nảy có thể có ích cho vùng Kiên Giang nước ta khi mà nơi người dân đã sống quen với khí hậu và có kinh nghiệm lâu năm. Và đặc trưng của vùng sông nước nên việc xây dựng nhà cửa cũng có chi phí không đáng kể .Rút kinh nghiệm những mùa nước nổi , hạn bố trí cây trồng , canh tác hoa màu phù hợp giúp giảm nhẹ thiệt hại do khí hậu mang lại.. Ngoài ra xuồng ghe là phương tiện không thể thích trong mùa mưa lũ ở vùng này ,nên việc trang bị nó là không thể thiếu khi nước lũ đến. - Bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp ĐBSCL là vùng đất thấp nên hằng năm vào mùa nắng đều có nước mặn xâm nhập vào sâu trong nội đồng. Người dân sống ở vùng ven biển đã có kinh nghiệm bố trí cây trồng, vật nuôi trong những hệ thống canh tác phù hợp với điều kiện đất đai chỉ có nước ngọt trong mùa mưa, bị mặn xâm nhập vào mùa nắng. Một số hệ thống canh tác mà nông dân ở vùng này đang sử dụng như: ngăn mặn triệt để, không cho nước mặn vào ruộng trong mùa nắng để trồng lúa, rau, màu... trong mùa mưa; đào mương, lên liếp trữ nước mưa trong mương vườn vào mùa nắng để trồng cây ăn trái, cây công nghiệp quanh năm; cho nước mặn vào ruộng để nuôi tôm cá nước mặn trong mùa nắng sau đó rửa mặn để trồng lúa trong mùa mưa. Chiến lược thích ứng đã thành công tại Việt Nam gồm: quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng; các giống lúa ngắn ngày ở đồng bằng sông Cửu Long; thành công ở qui mô trang trại trong đa dạng hóa nông nghiệp chuyển đổi lúa-tôm ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, hỗ trợ một cách linh hoạt các công trình cho phép kiểm soát cả nước ngọt và nước lợ; bảo vệ rừng phòng hộ ngập mặn ven biển đồng bằng sông Cửu Long; và "cuộc cách mạng về bơm nước ngầm" ở Việt Nam, cho phép kịp thời phân phối nước cho cây trồng. III.2 Biện Pháp Đối Phó Với Biến Đổi Khí Hậu Ứng phó với mực nước biển dâng là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng... chẳng những của ĐBSCL mà còn của cả nước. Các địa phương phải tranh thủ điều tra, nghiên cứu trên từng địa bàn bị đe dọa để chuẩn bị phương án ứng phó tốt nhất”. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trân gợi ý các nhiệm vụ cần triển khai như: nâng cao nhận thức của người dân về ứng phó với biến đổi khí hậu; xác định và tiến hành sớm những nội dung nghiên cứu cần thiết; Nhà nước cần chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu, đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các đề tài khoa học... Theo Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đức Ngữ, Giám đốc Trung tâm Khí tượng Thủy văn và Môi trường, để giảm nhẹ khả năng bị tổn hại do BĐKH gây ra, cần có sự điều chỉnh ở các hoạt động kinh tế, xã hội... Các hoạt động ứng ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của biến đổi khí hậu và thích nghi ở kiên giang.doc