Trần Đăng Khoa đã đóng góp những bài thơ vào cuộc đời và đóng góp cái thế giới tầm hồn trẻ con vào thơ. “Thơ Khoa cất lên, cả thế giới đón lấy thơ em - một hồn thơ sáng tươi, hồn nhiên, yêu đời. Khoa có một hồn thơ sớm nhạy cảm. Cao hơn cả nhạy cảm, Khoa còn có xúc cảm thơ, nghĩa là xúc cảm thành sáng tạo thơ, thành hình tượng thơ”(Xuân Diệu).
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7097 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của các yếu tố thi pháp đồng dao đối với thơ Trần Đăng Khoa tuổi ấu thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu này tồn tại không phổ biến trong đồng dao. Lời thoại ngắn gọn chặt chẽ, trong sáng, giàu hình tượng, làm phong phú thêm tâm hồn trẻ thơ.
* Ngôn ngữ và một số hình ảnh nghệ thuật khác:
- Tính chất kể của ngôn ngữ thơ thiếu nhi:
Dạng 1: Kể với ý nghĩa kể vật, kể việc, liệt kê sự kiện, hành động mà không có cốt truyện, nhân vật.
Dạng 2: Thuật lại một câu chuyện có đầu, có cuối, có nội dung cốt truyện
Hiện tượng mượn lời và cải lời:
+ Mượn lời: Sử dụng nguyên phần lời có sẵn hoặc lấy cảm hứng từ phần lời của một bài đồng dao trong quá trình sáng tạo thơ thiếu nhi.
+ Cải lời: Trên cơ sở một bài đồng dao nguyên mẫu, tước bỏ phần lời, chỉ sử dụng lại hình thức kết cấu của nó; hoặc sửa đổi một phần lời cho phù hợp với việc diễn tả nội dung mới. Thường là giữ nguyên câu mở đầu của bài đồng dao, phần còn lại thường là cải lời.
Một số hình ảnh nghệ thuật:
Hình ảnh con cò: Trong đồng dao, con cò là một hình ảnh đẹp đẽ và sinh động, đáng yêu.Con cò đến với trẻ thơ qua lời ru của mẹ.Không chỉ có ý nghĩa về đời sống tinh thần, về tác động tâm lí thông qua lời ru mà nó đi vào thơ ca hiện đại của thiếu nhi với những bài học có tinh thần giáo dục cao:
Con cò trắng bạch như bông
Mỗi ngày nó đứng rỉa lông mấy lần
Rỉa xong lại xắn cao quần
Tìm nơi trong sạch rửa chân kĩ càng
Hình ảnh con cò không còn là hình ảnh thực nữa mà trở thành hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho sự thanh cao, trong trắng, sự hi sinh.
Hình ảnh con trâu, con nghé: Hình ảnh con trâu, con nghé luôn gắn với công việc hàng ngày chăn trâu giữ nghé đã trở thành người bạn chí cốt gắn bó với đời sống trẻ thơ.Các em gọi nghé, gọi trâu với những tình cảm thân thương, trìu mến. Thường mở đầu bằng những câu gọi đáng yêu thân thương:
Nghé ọ nghé ơi...
Nghé ăn rơm tươi
Nghé ăn cỏ tốt
Nghé ơi...nghé à
Mày đi theo ta
Đừng theo kẻ trộm
Ngoài ra còn có những bài thúc dục, cổ vũ trâu bò hai bên đánh nhau ( Dục trâu báng chắc) để vui chơi.
Hình ảnh trăng sao: Chỉ riêng hình ảnh trăng sao mới thực sự là người bạn của các em trong các cuộc vui chơi ca hát. Trăng sao là những hiện tượng thiên nhiên của vũ trụ bí ẩn. Nó xa vời và cách biệt với cuộc sống trần thế của con người, thuộc về một thế giới khác- thế giới của huyền thoại.
Trăng, sao trong đồng dao được các em âu yếm gọi là “ông” nhưng tính cách thì chẳng khác gì trẻ con:
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc
Ông khóc ông cười
Ông lười đi trâu
Mẹ ông đánh đau
Ông ngồi ông khóc
Ông phóc xuông đây
Ông nắm lấy dây
Dung dăng dung dẻ.
( Lời đồng dao )
Ông sảo ông sao
Bụng đói như cào
Đòi ăn bánh đúc
Cùi dừa bún ốc
Đòi ổi đòi ngô
Chẳng có ai cho
Ông ngồi ông khóc
( Thơ thiếu nhi )
Trăng sao trong đồng dao đã trở thành những người bạn không thể thiếu trong các cuộc vui chơi ca hát của các em, có lẽ vì thế mà các bài đồng dao về trăng sao thường mở đầu bằng lời mời gọi trăng sao cùng xuống chơi:
Ông sảo ông sao
Xuống chơi với tôi
Có bầu có bạn
Có ván cơm xôi
Có nồi cơm nếp
Có nệp bánh chưng
( Lời đồng dao )
Ông trăng ông xuống
Chơi với cậu tôi
Cậu tôi cho mõ
Xuống chơi nồi chõ
Nồi chõ cho vung
( Lời đồng dao )
Ông trăng ơi
Mời ông xuống chơi
Phá cỗ
( Thơ thiếu nhi )
Nhân cách hóa trong đồng dao – phương tiện tu từ ngữ nghĩa đặc sắc:
Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, lấy những từ ngữ biểu đạt thuộc tính dấu hiệu con người, làm cho đồi tương miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.
Biểu hiện:
+ Dùng những từ chỉ tình cảm, hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt động của đối tượng không phải con người.
+ Coi đối tượng không phải là con người như con người và tâm tình trò chuyện với nhau. Điển hình là các bài về trăng , sao, nghé...Đây là hình thức nhân hóa phổ biến trong đồng dao:
Ông sảo ông sao
Ông vào cửa sổ
Ông ở với tôi
Ông ngồi lên chiếu
Tôi biếu củ khoai
Ông nhai tóp tép
Ông ghép với rau
Ăn mau chóng lớn
Ông ngồi dậy
Ông về trời.
Nghé ơi...nghé à
Mày đi theo ta
Đừng theo kẻ trộm
Nó cắt mất rốn
Nó xẻo mất đuôi
Biêt lấy chi mà đuổi ruồi
Biết lấy chi mà đập bọ
Nghé ơ...nghé ọ
Nhân cách hóa trong đồng dao gắn liền với đặc trưng thể loại, trở thành nguyên tắc sáng tạo đồng dao, phản ánh tư duy trẻ thơ. Nhân hóa còn thực hiện chức năng diễn xướng:
Sên sển sền sên
Mày lên công chúa
Mày múa tao xem
Đến mai tao may áo đỏ quần đen cho mày
Nhân cách hóa là một biện pháp tu từ ngôn ngữ đặc sắc trong đồng dao cũng như trong sáng tác thơ cho thiếu nhi.
Nhìn chung các tác giả thơ thiếu nhi đều kế thừa cái hay cái đẹp của đồng dao để đưa vào thơ làm cho hồn thơ mang đậm chất dân gian. Có hai xu hướng sáng tác:
Xu hướng tiếp nhận phong cách dân gian nhưng sự đổi mới không cao, xu hướng này lệ thuộc quá nhiều vào đồng dao, nội dung chủ yếu là để giáo dục tư tưởng đạo đức cho các em.
Xu hướng kết hợp hài hòa giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, kế thừa có chọn lọc trên cơ sở nâng cao tạo nên nhiều phong cách thơ độc đáo, Chuyển tải được những vấn đề của cuộc sống mới, thời đại mới đến với các em một cách hấp dẫn. Trần Đăng Khoa đã tiếp nhận phong cách đồng dao theo xu hướng này và đã làm nên một hồn thơ Trần Đăng Khoa.
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ THI PHÁP ĐỒNG DAO ĐỐI VỚI THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA TUỔI ẤU THƠ
Vài nét về thi sĩ nhỏ tuổi với tập thơ Góc sân và khoảng trời:
Trần Đăng Khoa sinh tháng 4 năm 1957, tại xã Quốc Tuấn – huyện Nam Sách – tỉnh Hải Hưng. Khoa bắt đầu làm thơ lúc lên tám tuổi. Một hôm, khi đang ngồi đun bếp nấu cơm, Khoa nhìn thấy con bướm bay ngoài vườn, em buột miệng đọc thành bài thơ Con bướm vàng, đó là bài thơ đầu tay của Khoa:
Con bướm vàng
Con bướm vàng
Bay nhẹ nhàng
Trên bờ cỏ
Em thích quá
Em đuổi theo
Con bướm vàng
Nó vỗ cánh
Vút lên cao
Em nhìn theo...
Từ đó Trần Đăng Khoa làm thơ và chép thành một tập, tự lấy tên là Từ góc sân nhà em. Sau này tập thơ được in với tên Góc sân và khoảng trời.
Cái thế giới đầu tiên trong thơ Trần Đăng Khoa là cái góc sân nhà mình ra đó chạy chơi, từ đó mà khám phá rộng ra cả vườn, cả xóm, cả làng, cả nước:
Góc sân nho nhỏ mới xây Chiều chiều em đứng nơi này em trông Thấy trời xanh biếc mênh mông Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy...
Sau khi thăm góc sân nhỏ này, Nhà thơ Xuân Diệu nói: Tôi đã đến thăm cái sân ấy. Nó nhỏ lắm. Nhưng nó đã là cái thế giới đầu tiên của bé Khoa, từ lúc bé chập chững tập đi, cho tới lúc bé tám tuổi, làm những câu thơ đầu tiên. Cái vũ trụ tí hon ấy quan trọng như lòng đỏ của quả trứng gà. Tôi đã nhìn thấy, quanh sân, những “nhân vật” đã đi vào trong những bài thơ thứ nhất của bé Khoa; những nhân vật rất thông thường, nhưng đượm sắc thần tiên của hồn con trẻ, và đượm tình mến yêu của trái tim thơ ấu; đây “Ngọn mồng tơi - Nhảy múa”, xa hơn một chút, đây “Muôn nghìn cây mía - Múa gươm”, xa hơn chút nhữa, đây mấy cây bưởi vạn đời, mà lần đầu tiên mới có những con mắt thấy ra là “Hàng bưởi đu đưa - Bế lũ con - Đầu tròn trọc lóc”, đúng thế thật! Xa hơn chút nữa, kia là “Cây dừa - Sải tay - Bơi”, xa xa hơn, kia là “Bụi tre tần ngần - Gỡ tóc". Tại đây "Sấm ghé xuống sân - Khanh khách - Cười”; tại đây “Mưa chéo mặt sân - Sủi bọt”; cũng trên mảnh sân này “Cóc nhảy chồm chồm” sau khi trời đã mưa xuống rồi. Sân này là sân khấu của bài "Mưa", bài thơ vào loại hay nhất của Khoa.
Vì thế mà khi đọc Góc sân và Khoảng trời, chúng ta thấy hiện lên cả một thế giới con người và sự vật mà trong đó con người nào cũng đều để lại một dấu ấn tốt đẹp trong con mắt của thi sĩ tí hon Trần Đăng Khoa; còn sự vật thì hầu như tất cả đều đã được nhân cách hóa, trở thành những bạn bè thân thiết, không thể xa rời. Đó là con bướm vàng, cái sân, dòng sông Kinh Thầy, con chim, con gà, vườn cải, cây đa, con trâu, cây trầu... và nhất là ánh trăng của làng quê. Đó là thế giới của một tuổi thơ làng quê.
Trần Đăng Khoa đã đóng góp những bài thơ vào cuộc đời và đóng góp cái thế giới tầm hồn trẻ con vào thơ. “Thơ Khoa cất lên, cả thế giới đón lấy thơ em - một hồn thơ sáng tươi, hồn nhiên, yêu đời. Khoa có một hồn thơ sớm nhạy cảm. Cao hơn cả nhạy cảm, Khoa còn có xúc cảm thơ, nghĩa là xúc cảm thành sáng tạo thơ, thành hình tượng thơ”(Xuân Diệu).
Thi pháp đồng dao trong thơ Trần Đăng Khoa:
Thể thơ, vần và nhịp:
Qua khảo sát 78 bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời có 33 bài viết ở thể lục bát, 20 bài là thể 5 chữ, 8 bài là thể 4 chữ, còn 17 bài là thể tự do và các thể thơ khác.
Tám bài ở thể 4 chữ đều ngắt nhịp 2/2, đó là các bài: Tiếng võng kêu; Thả diều; Đánh tam cúc; Kể cho bé nghe; Hạt gạo làng ta; Mặt bão.
Cách gieo vần cũng mang đậm chất đồng dao, bài gieo vần chân điển hình nhất là bài Kể cho bé nghe:
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa
Mồm thở ra gió
Là cái quạt hòm
Không thèm cỏ non
Là con trâu sắt
Rồng phun nước bạc
Là chiếc máy bơm
Dùng miệng nấu cơm
Là cua là cáy
Chẳng vui cũng nhảy
Là chú cào cào
Đêm ngồi đếm sao
Là ông cóc tía
Ríu ran cành khế
Là cậu chích chòe
Hay múa xập xòe
Là cô chim trĩ...
Cách gieo vần chân cũng có trong một số bài khác:
...Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy...
(Hạt gạo làng ta)
Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò cầy
Xanh đẹp là cây
Bão vặt trụi hết...
(Mặt bão)
Và đây là các bài được gieo vần lưng và vần chân:
...Bốn bề lên hương
Dịu mát bờ sương
Thoảng hơi gió nhẹ
Vầng trăng mới hé
Làn mây trong ngần
...
Trời đất đêm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đông...
( Hương đồng)
...Nón che kín đầu
Cháu thành con ốc
Khăn bay mái tóc
Cháu hóa bướm hồng
Díp hoa quay tít
Cháu thành con ong
Nằm giữa lòng ông
Cháu là hạt thóc...
Chú khum bàn tay
Miệng thay máy “Tạch!”
(chụp ảnh)
Đặc biệt có một số bài không phân thành khổ thơ, đúng với nét đặc trưng của đồng dao: Kể cho bé nghe; Hương đồng; mặt bão; Chụp ảnh...
Còn 33 bài ở thể lục bát đều là lục bát chính thể: Số âm tiết của mỗi dòng không thay đổi, vị trí gieo vần cố định (âm tiết cuối của câu lục vần với âm tiết thứ 6 của câu bát; âm tiết cuối của câu bát này lại bắt vần với âm tiết cuối của câu lục tiếp theo, rồi cứ thế tiếp tục. Nhịp phổ biến là nhịp chẵn 2/2/2, một số câu có ngắt nhịp 3/3, 4/4, 2/4, 2/6:
Quả dừa/ đàn lợn con nằm trên cao.
( Cây dừa)
Lá trầu/ khô giữa cơi trầu...
Người cho trứng,/ người cho cam
Và anh y sĩ/ đã mang thuốc vào
( Mẹ ốm)
Kết cấu:
* Kết cấu trùng điệp: Ta thấy phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa là kiểu kết cấu trùng điệp. Kiểu kết cấu này được Trần Đăng Khoa sử dụng rất linh hoạt, diễn tả một cách sâu sắc nội dung của bài thơ. Đây là một hàng loạt bài sử dụng hình thức kết cấu lặp cú pháp:
Trăng ơi ...từ đâu đến?
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
Trăng ơi...từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kì
Trăng tròn như mắt cá
Không bao giờ chớp mi
Trăng ơi...từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
bạn nào đá lên trời
Trăng ơi...từ đâu đến?
Hay từ lời mẹ ru
Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!
Trăng ơi...từ đâu đến?
Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân
Trăng từ đâu...từ đâu...
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em...
Ánh trăng của tuổi thơ đã có mặt khắp mọi miền của đất nước, chúng ta thấy rõ hơn điều đó do tác giả cố ý lặp lại câu thơ Trăng ơi...từ đâu đến?
Với việc lặp đi lặp lại câu thơ Cánh diều no gió, người đọc cảm nhận được sự tung bay phơi phới của cánh diều cũng như lòng yêu đời, yêu tự do của nhà thơ, diễn tả được một xã hội sáng tươi mặc dù còn chiến tranh:
Thả diều
Cánh diều no gió
Sáo nó thổi vang
Sao trời trôi qua
Diều thành trăng vàng
Cánh diều no gió
Tiếng nó trong ngần
Diều như chiếc thuyền
Trôi trên sông ngân
Cánh diều no gió
Tiếng nó chơi vơi
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời
...
Cánh diều no gió
Nhạc trời réo vang
Tiếng diều xanh lúa
Uốn cong tre làng
Còn việc điệp cú pháp ở bài thơ sau như là để tạo điểm nhấn khiến người đọc phải trăn trở và mong có lời giải đáp, để rồi đến cuối bài thơ là câu trả lời đồng thời là lời lên án tội ác của giặc Mĩ xâm lược.
Nói với con gà mái
Mày nhìn tao, con mắt lạc hẳn đi
Tròng mắt vằn những tia máu đỏ
Cái nhìn cháy như hai hòn lửa
Có phải tại tao đâu!
...
Mày nhìn tao, đôi cánh xù lông
Đập rối loạn như điên, như dại
Lông bù xù mỏ sao không chải
Có phải tại tao đâu!
...
Mày nhìn tao, lảo đảo không hồn
Lối rộng không đi cứ lao vào vách đất
Tiếng mày gọi con, tiếng còn tiếng mất
Có phải tại tao đâu!
Cũng nhằm nhấn mạnh tội ác của giặc Mĩ, việc điệp cú pháp ở bài thơ sau lần nữa khẳng định bản chất độc ác được ẩn sau giọt nước mắt giả dối của Nich-xơn:
Lời một bạn gái 12 tuổi
Các bạn ơi!
Tên phát xít Ních-xơn đã cúi mặt viếng tôi
Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn
Ý nghĩ hắn chạy từ đầu đến chân
Từ chân ngấm xuống đất sâu, nên tôi nghe hết:
“Nếu mày sống thì ông cũng giết!”
...
Tôi nhìn thấy răng hắn thì nhọn hoắt
Kẽ răng còn vương vài sợi thịt trẻ con
Ý nghĩ hắn chạy từ đầu đến chân
Từ chân ngấm xuống đất sâu, nên tôi nghe hết:
“Nếu mày sống thì ông cũng giết!”
...
Hôm nay Nich-xơn đến khóc
Cách hắn giả vờ thật là ngu ngốc
Ý nghĩ hắn chạy từ đầu đến chân
Từ chân ngấm xuống đất sâu, nên tôi được biết:
“Nếu ông là Hít-le
Ông sẽ thiêu mày không còn gì mà!”
...
Không chỉ dừng lại ở lặp cú pháp, Trần Đăng Khoa còn rất thành công khi sử dụng hình thức kết cấu lặp đầu cuối, tạo được điểm nhấn cho mỗi bài thơ:
Hạt gạo làng ta
Hạt gạo làng ta.Có vị phù sa,Của sông Kinh Thầy.Có hương sen thơm,Trong hồ nước đầy.Có lời Mẹ hát,Ngọt ngào hôm nay.Hạt gạo làng ta.Có bão tháng bảy,Có mưa tháng ba.Hạt mồ hôi sa,Những trưa tháng sáu.Nước như ai nấu,Chết cả cá cờ.Cua ngoi lên bờ,Mẹ em xuống cấy.Hạt gạo làng ta.Những năm bom Mĩ,Trút trên mái nhà.Những năm khẩu súng,Theo người đi xa.Những năm băng đạn,Vàng hơn lúa đồng.Bát cơm mùa gặt,Thơm hào giao thông.Hạt gạo làng ta.Chở ra tiền tuyến,Chở về phương xa.Em vui em hát,Hạt vàng làng ta.Em vui em hát,Hạt vàng làng ta...
Câu đầu bài thơ là Hạt gạo làng ta còn câu cuối bài là Hạt vàng làng ta...
đã nhấn mạnh được sự quý giá của từng hạt gạo.
Còn cách lặp đầu cuối ở hai bài thơ sau có phần giống nhau, đều mô phỏng âm thanh: bốn bề bát ngát tiếng gà đánh tan cái không khí nặng nề để báo hiệu sự tươi sáng, mới mẻ, mở ra sức sống mới:
Ò ó o.
Ò...ó...oÒ...ó...o
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt
Giục buồng chuối
Tthơm lừng
Trứng cuốc
Giục hạt đậu
Nảy mầm
Giục bông lúa
Uốn câu
Giục con trâu
Ra đồng
Giục đàn sao
Trên trời
Chạy trốn.
Gọi ông trời
Nhô lên
Rửa mặt
Ôi bốn bề
Bát ngát
Tiếng gàÒ...ó...oÒ...ó...o
Ba gian nhà nhỏ tràn đầy tiếng võng thì lại gợi lên những gì thân thiết nhất, tình nhà cửa, anh em thật thắm thiết:
Tiếng võng kêu
Kẽo cà kẽo kẹt
Tay em đưa đều
Ba gian nhà nhỏ
Đầy tiếng võng kêu
Kẽo cà kẽo kẹt
Mênh mang trưa hè
Chim co chân ngủ
Lim dim cành tre
Kẽo cà kẽo kẹt
Cây na thiu thiu
Mắt na hé mở
Nhìn trời trong veo
Võng em chao đều
...
Ba gian nhà nhỏ
Đầy tiếng võng kêu
Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà...
... kẽo kẹt...
* Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của trẻ: tò mò,ham hiểu biết, trẻ muốn tự bộc lộ mình, thể hiện mình...Vì thế trong đồng dao có kiểu kết cấu hỏi đáp nhằm tập phong cách trò chuyện trao đổi, thực hiện chức năng giao tiếp cho trẻ. Chúng ta cũng bắt gặp hình thức kết cấu hỏi đáp này trong thơ Trần Đăng Khoa:
Lời của than
Than ơi!
Bạn từ đâu ra
Mà bạn đen thế?
Tôi từ đáy bể
Mắt tôi có ngọc trai
Nên sáng như gương
Tôi biết con thuồng luồng
Có đôi tay múa dẻo
...
Than ơi!
Thế bạn yêu ai nhất?
Tôi yêu bác thợ
Có cây đèn sáng xanh ở sườn
...
Than ơi!
Bạn muốn nói gì thêm nữa?
Tôi muốn làm thơ
Ca ngợi Vịnh Hạ Long
Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền
Con sóng vẫn reo trên xác giặc
Ca ngợi bác công nhân
Sớm sớm lên tầng...
* Chỉ trong đồng dao mới có kiểu kết cấu vòng tròn, có thể đọc mãi mà không hết bài, thi sĩ nhỏ thật là thông minh khi chọn hình thức kết cấu vòng tròn này để Kể cho bé nghe, và cũng thật khó phân biệt đâu là đồng dao, đâu là thơ Trần Đăng Khoa:
Làng chim
Hay chạy lon ton
Là gà mới nở
Cái mặt hay đỏ
Là con gà mào
Hay bơi dưới ao
Mẹ con nhà vịt
Hay la hay hát
Là con bồ chao
Hay bay bổ nhào
Là con bói cá
hay đi thong thả
Là bác cò ngàng
Hay đi rồng ràng
Là ông cụ diệc
Hay ăn thịt chết
Là thằng quạ đen
Tinh mắt hay ghen
Là con chim gáy
Vừa đi vừa nhảy
Là con sáo xinh
Hay nói linh tinh
Là con liếu điếu
...
Kể cho bé nghe
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa
Mồm thở ra gió
Là cái quạt hòm
Không thèm cỏ non
Là con trâu sắt
Rồng phun nước bạc
Là chiếc máy bơm
Dùng miệng nấu cơm
Là cua là cáy
Chẳng vui cũng nhảy
Là chú cào cào
Đêm ngồi đếm sao
Là ông cóc tía
Ríu ran cành khế
Là cậu chích chòe
Hay múa xập xòe
Là cô chim trĩ...
...
Hay nói ầm ĩ...
Ngôn ngữ và một số hình ảnh nghệ thuật khác:
Ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Khoa rất hồn nhiên- cái hồn nhiên của một tâm hồn trẻ thơ:
Mụ gà cục tác như điên
Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi
hay:
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế?
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe có mặt tròn
...
Nải chuối tiêu thơm mát
Ông trăng nhìn thấy xôi
Là ông nhoẻn miệng cười
Áng chừng ông thích lắm
Lại có lúc bút pháp của thơ Trần Đăng Khoa tỏ ra rất người lớn, rất nghệ sĩ:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
Hoặc:
Mái gianh ơi hỡi mái gianh Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
Tính chất kể trong ngôn ngữ thơ Trần Đăng Khoa cũng được thể hiện rất rõ, có bài là kể vật, kể việc, liệt kê cốt truyện mà không có cốt truyện nhân vật(Kể cho bé nghe); có bài là kể chuyện bằng thơ tức là thuật lại câu chuyện có đầu có cuối, có nội dung cốt truyện: Họp báo “chim họa mi”; Đánh tam cúc; Cháu về; Nói với con gà mái;Em kể chuyện này...
Sáng nay bọn em đi đánh giậm
Ở ao ven làng bên ruộng lúa xanh non
Những chị lúa phất phơ bím tóc,
Những cậu tre bá vai nhau rì rầm đứng học
Đàn cò trắng khiêng nắng qua sông...
Chúng em rất vui
Vì đánh được nhiều cá
Này chị cua càng giơ tay chào biển lúa
Này thằng dói nhớ ai
Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa
Này lão trê nhảy võ ở đâu
Mà ngã bẹp đầu...
Mừng vui vì câu được nhiều cá nhưng trên đường về nhà lại gặp các bạn gái, Các bạn gái nói rằng:
Đêm qua
giặc Mĩ bị bắn rơi xuống cánh đồng ta
Các chú dân quân dong nó đi xa
Nay còn dấu chân in trên cát
Những dấu chân trông vào nhức mắt
Các bạn đào đổ uống ao sâu
Đến đây bài thơ chuyển một cách không ai ngờ đến, hay nói cách khác câu chuyện có một kết thúc thật bất ngờ:
Chúng em lặng nhìn nhau:
Chao ôi!
Những lão trê nhảy võ bẹp đầu,
Những chị cua càng giơ tay chào biển lúa
Những chàng dói mắt đỏ ngầu như lửa
Đã ăn dấu chân này
Bẩn thỉu biết bao!
Chẳng ai bảo ai chúng em đổ cá xuống ao
Trở về với chiếc giỏ không
Và hát nghêu ngao
-Những chị chim sâu trên cành
Nhìn chúng em cười tích tích
Đây là một trong những bài thơ kể chuyện rất thành công của Trần Đăng Khoa. Ở đây Trần Đăng Khoa đã lĩnh hội được cái tinh thần cao sạch ngang nhiên trong các câu câu chuyện xưa để thể hiện thái độ căm ghét giặc Mĩ với một giọng thơ sảng khoái, hào hùng.
Không chỉ làm thơ giỏi, Khoa còn biết dựa trên kết cấu của các bài đồng dao để cải lời và đọc cho bé Giang nghe :
Kể cho bé nghe
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa
Mồm thở ra gió
Là cái quạt hòm
Không thèm cỏ non
Là con trâu sắt
Rồng phun nước bạc
Là chiếc máy bơm
Dùng miệng nấu cơm
Là cua là cáy
Chẳng vui cũng nhảy
Là chú cào cào
Đêm ngồi đếm sao
Là ông cóc tía
Ríu ran cành khế
Là cậu chích chòe
Hay múa xập xòe
Là cô chim trĩ...
Chúng ta thường bắt gặp kiểu kết cấu này trong các bài đồng dao như: Họ nhà quả; Họ nhà chim; Họ nhà cá; Họ nhà rau; Họ nhà hoa...Ví dụ như bài:
Con cá cơm
No lòng phỉ dạ
Là con cá cơm
Không ướp mà thơm
Là con cá ngát
Liệng bay thoăn thoắt
Là con cá chim
Hụt cẳng chết chìm
Là con cá đuối
Nhiều năm nhiều tuổi
Là cá bạc đầu
Đủ chữ đủ câu
Là con cá đối
Nở mai tàn lối
Là con cá hoa
Trắng muốt làn da
Là cá út thịt
Dài lưng kẹp nách
Là cá lòng tong
Ốm yếu hình dung
Là con cá nhái.
Trần Đăng Khoa luôn “nhặt” đựợc những từ “thần”, những tứ thơ độc đáo làm nên giá trị của mỗi bài thơ; biết kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại, kế thừa có chọn lọc cái tinh túy của đồng dao, nâng cao lên tạo thành một phong cách thơ độc đáo. Chúng ta hãy đọc bài đồng dao: Con cò chết rũ
Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở lịch xem ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la đà
Chim ri ríu rít chạy ra chia phần
Chào mào thì đánh trống quân
Chim chích cởi trần vác mõ đi rao.
Rồi đọc sang bài : Đám ma bác giun
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần
Rõ ràng là Khoa đã lấy cảm hứng sáng tác từ phần lời của bài đồng dao trên để vẽ nên một bức tranh dân gian Đám ma bác Giun nghe rất “cổ” nhưng nội dung lại rất khoa học nhờ kết hợp với sự quan sát tỉ mỉ đặc điểm từng loại kiến.
Những ngày còn tấm bé,Trần Đăng Khoa đã nhận được tình yêu thương, âu yếm từ bà ngoại cùng với những câu chuyện lời ru của bà. Bà ngoại từng dặn nếu hái trầu vào ban đêm thì hãy đánh thức trầu bằng mấy câu sau rồi hãy hái:
Trẩu trẩu trầu trầu Mày làm chúa tao Tao làm chúa mày Tao không hái ngày Thì tao hái đêm Chính mấy lời đồng dao này là nguồn cảm hứng cho bài thơ Đánh thức trầu:
Đã ngủ rồi hả trầu? Tao đã đi ngủ đâu Mà trầu mày đã ngủ Bà tao vừa đến đó Muốn có mấy lá trầu Tao không phải ai đâu Đánh thức mày để hái! Trầu ơi, hãy tỉnh lại Mở mắt xanh ra nào Lá nào muốn cho tao Thì mày chìa ra nhé Tay tao hái rất nhẹ Không làm mày đau đâu… Đã dậy chưa hả trầu? Tao hái vài lá nhé Cho bà và cho mẹ Đừng lụi đi trầu ơi!
Bài thơ thể hiện sự yêu mến, nâng niu, tình nghĩa với cây trầu một cách nhẹ nhàng, đầy sáng tạo và chỉ có ở trong thơ Trần Đăng Khoa.
Thơ của Trần Đăng Khoa tự nhiên, tự nhiên như cuộc sống vốn thế, là tất cả những gì diễn ra hàng ngày dưới con mắt của một cậu bé, rất gần gũi, dung dị nhưng cũng rất tinh tế...Có lẽ bài thơ hay nhất xưa nay về hạt gạo trong thơ ca Việt Nam chính là bài hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa:
Hạt gạo làng ta.Có vị phù sa,Của sông Kinh Thầy.Có hương sen thơm,Trong hồ nước đầy.Có lời Mẹ hát,Ngọt bùi hôm nay. ...
Hạt gạo làng ta.Có bão tháng bảy,Có mưa tháng ba.Hạt mồ hôi sa,Những trưa tháng sáu.Nước như ai nấu,Chết cả cá cờ.Cua ngoi lên bờ,Mẹ em xuống cấy.
Hạt gạo không chỉ có vị phù sa, có hương sen, có lời mẹ hát ...mà còn có cả gió, bão, mưa dầm, có cả nỗi nhọc nhằn cay đắng của kiếp người..." Những trưa tháng sáu, nước như ai nấu, chết cả cá cờ, Mẹ con xuống cấy..." Mấy câu thơ này nhắc chúng ta nhớ đến câu ca dao xưa: " Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"
Cách mượn lời đồng dao của Trần Đăng Khoa không hề rập khuôn máy móc mà đầy tính sáng tạo, lời đồng dao là điểm tựa , là nguồn cảm hứng cho hồn thơ ấy thăng hoa. Nếu không được Trần Đăng Khoa “bật mí” thì chúng ta khó nhận ra được cái chất liệu nào khởi nguồn cho bài Mưa- một bài thơ hay nhất của Trần Đăng Khoa:
Sắp mưaSắp mưaNhững con mốiBay raMối trẻBay caoMối giàBay thấpGà conRối rít tìm nơiẨn nấpÔng trờiMặc áo giáp đenRa trậnMuôn nghìn cây míaMúa gươmKiếnHành quânĐầy đườngLá khôGió cuốnBụi bayCuồn cuộnCỏ gà rung taiNgheBụi treTần ngầnGỡ tócHàng bưởiĐu đưaBế lũ conĐầu trònTrọc lócChớpRạch ngang trờiKhô khốcSấmGhé xuống sânKhanh kháchCườiCây dừaSải tayBơiNgọn mùng tơiNhảy múaMưaMưaÙ ù như xay lúaLộp bộpLộp bộp...RơiRơi...Đất trờiMù trắng nướcMưa chéo mặt sânSủi bọtCóc nhảy chồm chồmChó sủaCây lá hả hêBố em đi cày vềĐội sấmĐội chớpĐội cả trời mưa...
Thì ra trước khi làm bài thơ này, thi sĩ nhỏ tuổi đã được tiếp xúc với lời đồng dao:
Trời mưa.
Quả dưa vẹo vọ.
Con ốc nằm co.
Con tôm đánh đáo.
Con cò kiếm ăn.
Hình ảnh con cò, con trâu, con nghé, trăng sao trong đồng dao là những hình ảnh đẹp đẽ, sinh động và đáng yêu, chúng trở nên thân quen, gần gũi, thân thiết với cuộc sống của trẻ thơ. Trần Đăng Khoa không phải là một ngoại lệ, nhất là khi Khoa được số
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieuluancohathanh.doc