MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.1
NỘI DUNG.3
Chương 1 : Thực trạng ô nhiễm môi trường
1.1: Khái niệm ô nhiễm môi trường . .5
1.2: Các dạng ô nhiễm môi trường 5
1.3: Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay . 6
1.4: Hậu quả của ô nhiễm môi trường . .7
Chương 2: Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường
2.1: Nguyên nhân con người . .9
2.2: Nguyên nhân xã hội . .9
Chương 3: Tác động của ô nhiễm môi trường đối với quan hệ quốc tế
3.1: Ô nhiễm môi trường gây ra xung đột trong quan hệ quốc tế và bất ổn cho nền chính trị quốc tế . . . . 12
3.2: Đặt ra thách thức mới cho hệ thống pháp luật quốc tế và cơ chế an ninh sinh thái . .23
3.3: Ô nhiễm môi trường góp phần thúc đẩy tư duy toàn cầu và tăng cường cơ chế hợp tác quốc tế 27
Chương 4 : Giải pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường
4.1: Các biện pháp cá nhân .29
4.2: Các biện pháp quốc tế .31
4.3: Các biện pháp đối với mỗi chính phủ .32
KẾT LUẬN . . .35
TÀI LIỆU THAM KHẢO . .36
PHỤ LỤC . .37
MỤC LỤC . 40
44 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 13241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường với nhân loại và biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hại nặng nề và kìm hãm sự phát triển của cả một đất nước.
Các thảm hoạ tự nhiên như bão, lũ lụt, hạn hán, sa mạc hoá một phần là do tất yếu trong quá trình vận động của thiên nhiên. Nhưng mặt khác cũng do hoạt động sản xuất và khai thác tự nhiên bừa bãi của con người gây ra. Trong tác phẩm kinh điển “Collapse”, tác giả Jared Diamond đã chỉ ra rằng: “khi xét tính bền vững, điều quan trọng không phải là bao nhiêu người đang sống trên hành tinh này, mà là những ảnh hưởng của họ gây nên đối với môi trường”
. Và con người đã phải trả giá cho hành động của mình. Thiên tai gây ra những thiệt hại to lớn về người và của cho mọi quốc gia, bất kể là siêu cường như Mĩ hay đang phát triển như Indonesia. Một trận bão Katrina có thể khiến toàn bộ nền kinh tế Mĩ trì trệ và thiệt hại lên đến hơn 100 tỷ Đô la, tàn phá trung tâm sản xuất dầu khí quan trọng của Mĩ. Cơn bão đi qua làm ngưng trệ sản xuất của các nhà máy lọc dầu và khai thác dầu dẫn tới việc giá xăng dầu không ngừng tăng lên. Ngành sản xuất ngũ cốc lương thực cũng bị thiệt hại do khu vực cơn bão tàn phá là nơi chung chuyển ngũ cốc lớn nhất của Mĩ. Còn trận sóng thần tấn công vào Indonesia và một số quốc gia Đông Nam Á làm hơn 50 người thiệt mạng và hàng trăm người bị cuốn phăng ra biển. Ngành du lịch không chỉ của Thái Lan, Indonesia mà còn của hầu hết các nước châu Á đều bị tổn thất. Thiệt hại kinh tế cùng nỗi kinh hoàng của người dân phải mất rất nhiều thời gian mới khắc phục được. Rõ ràng, kinh tế xã hội của một quốc gia sẽ bị kìm hãm nếu các thảm hoạ tự nhiên cứ liên tục xảy ra với mức độ tấn công ngày một tăng; và “rất có thể chỉ những người đương đại khi bị những tổn thất về kinh tế di môi trường bị phá hoại gây ra mới ý thức được phần nào hành động sai trái của mình, nhưng đến lúc đó mọi sự đã rồi, có ân hận cũng đã quá muộn”.
3.1.1.2. Đe doạ sự phát triển nguồn nhân lực
Về khía cạnh con người, môi trường sinh thái bị tàn phá cùng lúc tàn phá luôn sức khoẻ của con người. Khi bầu không khí tràn ngập khói bụi, khí thải công nghiệp độc hại; nguồn nước cũng chứa các chất hoá học; đất đai chứa hàm lượng chì hay lưu huỳnh thì chắc chắn con người sẽ bị mắc các loại bệnh nguy hiểm mà đáng sợ nhất là bệnh ung thư. Sức khoẻ suy giảm còn chất lượng cuộc sống thì bị giảm sút. Chính tại các thành phố lớn, nơi mà công nghệ hiện đại với đời sống cao song môi trưòng lại bị ô nhiễm nặng. Phương tiện giao thông đông đúc cùng với mật độ đi lại dày đặc, một ngày lượng khí thải gây ô nhiễm khó có thể tính được. Còn khi bão lũ, hạn hán hoành hành thì người nông dân phải gánh chịu hậu quả đầu tiên. Đời sống sản xuất bị trì trệ cùng với phương tiện sản xuất là đất đai thì ngày càng cằn cỗi. Vậy hãy nhìn vào vấn đề nhân lực ở đây: con người là lực lượng sản xuất, là linh hồn của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng khi chính linh hồn đó đang ở trong tình trạng nguy cấp như vậy thì làm sao có thể phát triển đất nước, nói chi là phát triển bền vững.
3.1.1.3.Thách thức chủ quyền quốc gia
Vấn đề phát triển kinh tế xã hội và nguồn nhân lực của một đất nước đã được đề cập ở trên. Nghiêm trọng hơn, ngay cả chủ quyền quốc gia dân tộc cũng bị đe doạ khi mà xảy ra ô nhiễm môi trường. Do biên giới quốc gia luôn gắn liền với biên giới sinh thái, tất cả các quốc gia đều cùng chung sự sở hữu bầu khí quyển, nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên đất và tài nguyên nước …Tuy nhiên, có những quốc gia đã lợi dụng sự sở hữu chung này để xâm phạm chủ quyền quốc gia khác. Họ giương cao ngọn cờ bảo vệ môi trường, ngăn chặn sự suy thoái của sinh thái trên Trái đất hòng can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Xin được đưa ví dụ về vấn đề tranh chấp rừng Amazone làm dẫn chứng. “Các quốc gia phát triển lấy cớ phải bảo vệ rừng và khí quyển nên đã đề ra những yêu cầu về chủ quyền đối với rừng Amazone của Brazil”
. Phó tổng thống Mĩ đã từng nói: “Vùng Amazone không phải là của họ mà thuộc về tất cả chúng ta”. Cựu tổng thống Pháp Mitteran cũng tuyên bố: “Brazil chỉ có chủ quyền tương đối với khu vực rừng Amazone”. Các nước này giương cao ngọn cờ bảo vệ môi trường sinh tồn của loài người, ra sức tuyên truyền rằng tài nguyên rừng trên Trái đất này là thuộc về cả loài người, nó không có biên giới nên không thuộc về riêng một quốc gia nào cả. Họ ra sức gây dư luận “quốc tế hoá” khu vực Amazone, có ý đồ can thiệp chủ quyền của Brazil. Thậm chí Mĩ còn đòi thành lập hẳn lực lượng “quân đội xanh” để bảo vệ rừng Amazone. Như vậy, môi trường sinh thái là cái cớ xem ra có vẻ rất có lý để nước này đặt ra yêu sách với nước kia. Giả thiết rằng nếu Brazil chấp nhận lực lược quân đội xanh vào bảo vệ rừng Amazone, ai dám chắc rằng lực lượng này sẽ chỉ ở trong rừng Amazone mà không can thiệp vào bất cứ chuyện gì của Brazil. Chủ quyền lãnh thổ sẽ bị thách thức khi mà môi trường sinh thái là không biên giới. Nếu chủ quyền quốc gia bị đe doạ, chính phủ của quốc gia đó trước hết sẽ phải tập trung giải quyết vấn đề này. Vậy thì mối quan tâm giành cho phát triển kinh tế xã hội sẽ phải tạm ngưng lại. Còn nếu chủ quyền quốc gia không giữ được, nước đó sẽ phải phụ thuộc vào nước khác hay nói cách khác là “mất nước”. Lúc ấy thì việc có phát triển bền vững được nước mình hay không không còn nằm trong tay chính phủ của họ nữa.
3.1.1.4.Tiểu kết luận:
Môi trường và tài nguyên thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, tạo nên cơ sở vật chất để phát triển kinh tế, văn hoá xã hội; tạo cho con người phương tiện sinh sống và phát triển bền vững. Khi môi trường bị suy thoái, mọi lĩnh vực trong đời sống của con người sẽ bị ảnh hưởng rồi tới mọi lĩnh vực của một quốc gia bị đe doạ. Tình hình bất ổn sẽ xuất hiện làm một quốc gia không thể toàn tâm toàn ý thực hiện chiến lược phát triển của mình. Những khó khăn thách thức do vấn nạn ô nhiễm môi trường gây ra khiến một đất nước bất ổn. Khi nhân tố quốc gia trong ngôi nhà chung toàn nhân loại gặp khó khăn, chắc chắn ngôi nhà đó cũng không thể an toàn. Ô nhiễm môi trường là một vấn đề nan giải đặt ra cho tất cả mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển và đang phát triển.
3.1.2. Trong quan hệ giữa các quốc gia
Môi trường sinh thái bị tàn phá có thể làm cho một quốc gia bất ổn. Hệ lụy của tình trạng này là sẽ có nhiều quốc gia khác bị tác động gián tiếp theo. Đó không chỉ là các nước láng giềng lân cận mà thậm chí những nước ở cách nhau nửa vòng trái đất vẫn cùng chung hậu quả từ nạn suy thoái môi trường. Khi mà tác động xấu cứ ngày một tăng dần lên, cuốn tất cả các nước vào trong một vòng xoáy thì tất nhiên sẽ nảy sinh mâu thuẫn và xung đột. Có hai hậu quả nghiêm trọng mà ô nhiễm môi trường gây ra cho quan hệ giữa các nước:
3.1.2.1. Các “lò lửa xung đột” trên toàn thế giới
Trong một bản báo cáo của Cục khai thác quốc tế Mĩ phân tích về môi trường có nói rõ: “Trong nguyên nhân căn bản gây nên xung đột hiện nay, nhân tố môi trường và nhân tố chính trị quan trọng ngang nhau”. Như vậy có nghĩa là nhân tố môi trường đã được đặt ngang hàng với yếu tố chính trị trong các cuộc xung đột. Chiến tranh lạnh kết thúc cũng là lúc mà loài người bắt đầu coi trọng các vấn đề an ninh phi truyền thống. Trong đó an ninh sinh thái luôn được đặt lên hàng đầu. Một phần là do loài người ý thức được tầm quan trọng của hệ sinh thái, một phần là do hiểu được nếu an ninh sinh thái bị đe doạ sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng như nguy cơ từ an ninh truyền thống. Cụ thể là nó dẫn tới các cuộc xung đột. Hai loại xung đột tiêu biểu nhất bắt nguồn từ vấn nạn ô nhiễm môi trường là xung đột về tài nguyên và xung đột ô nhiễm môi trường.
“Xung đột tài nguyên là xung đột xảy ra do tranh giành những tài nguyên tự nhiên như nước ngọt, đất đai, dầu lửa hay khoáng sản …”
. Các biểu hiện cụ thể của ô nhiễm môi trường như mưa acid, khí hậu toàn cầu nóng dần lên, tầng ozone bị thủng đã làm cho sự tái tạo của tài nguyên trên trái đất bị giảm đi trong khi nhu cầu và lượng sử dụng tài nguyên tự nhiên của các nước không ngừng gia tăng. Bởi vậy quan hệ giữa các nước trở nên căng thẳng do tranh giành, nắm giữ và sử dụng các nguồn tài nguyên đang trở nên cạn kiệt. Ví dụ như sự tranh giành nguồn tài nguyên nước kéo dài nhiều năm giữa Ấn Độ với Băngladesh, giữa Syria với Israel và Jordani ở vùng Trung Đông. Mỹ với nước láng giềng Mexico không giữ được quan hệ hữu hảo cũng chỉ vì những tranh giành tài nguyên nghề cá. Nauy đương đầu với cả cộng đồng Liên minh châu ÂU EU hay hai nước lớn là Nga và Nhật cũng xảy ra xung đột xung quanh việc tranh chấp tài nguyên nghề cá. Nhưng các xung đột khu vực này sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu các nước không biết kiềm chế và cùng nhau giải quyết, đó là chiến tranh bùng nổ. Vẫn là việc giành giật quyền kiểm soát sông Nile để chiếm được nguồn nước từ con sông dài nhất thế giới, quan hệ giữa Ai Cập, Xudan và Ethiopia đã luôn hết sức căng thẳng. Không chỉ ở châu Phi, tại điểm nóng Trung Đông cũng xảy ra chiến tranh và xung đột kéo dài hàng thế kỷ. Chiến tranh Trung Đông lần thứ 3 năm 1967 nguyên nhân sâu xa là vì tranh chấp nguồn nước ở sông Jordan và một số con sông lân cận. Đấu tranh giành nguồn nước khô cằn ở vùng Trung Đông đã có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và ổn định. Cựu thủ tướng Israel đã từng nói: “Lịch sử đấu tranh giành nguồn nước của sông Jordan dài hơn cả lịch sử”. Như vậy, xung đột tài nguyên biểu hiện ban đầu ở sự tranh giành giữa các nước; sau đó dẫn tới xung đột và đỉnh điểm là dẫn tới chiến tranh.
Ô nhiễm môi trường là một vấn nạn về sinh thái nhưng bản thân nó cũng là một dạng xung đột. Mọi quốc gia trên Trái đất này đều cùng chung sở hữu đối với môi trường sinh thái. Khi môi trường tại một quốc gia bị phá huỷ, tình trạng ô nhiễm sẽ chuyển dịch qua biên giới quốc gia và lan sang các nước lân cận. Đó là khi vật thể bị ô nhiễm tự do di chuyển trong khí quyển, vùng nước và thực vật. Đó là khi quốc gia ở thượng nguồn thải chất bẩn làm ô nhiễm nước ăn của các quốc gia ở miền hạ du, các khói bụi công nghiệp của các nước ở đầu hướng gió bay sang các nước ở cuối hướng gió gây ra mưa acid, nước này chặt phá rừng làm xói mòn đất, ảnh hưởng đến nông nghiệp của nước láng giềng. Xin được đưa ra các ví dụ sinh động sau:
Nạn ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc – quốc gia được coi là “hiện tượng” của thế kỷ XXI với tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ. Nhưng cùng với nền kinh tế “phi như mã” đó là môi trường sinh thái ở Trung Quốc đang bị ô nhiễm nặng. “Theo Ngân hàng thế giới, 16 trong số 20 thnàh phố ô nhiễm nhất thế giới nằm ở Trung Quốc; sự ô nhiễm và xuống cấp môi trường đó mỗi năm làm Trung Quốc tiêu tốn mất 170 tỉ Đôla”
. Tuy nhiên, môi trường ô nhiễm ở Trung Quốc còn gây tổn hại cho một loạt các nước láng giềng. Những luồng gió cát bẩn từ lục địa Trung Quốc tràn sang khiến người dân Seoul không phơi được quần áo ngoài trời, không khí ở thủ đổ Seoul Hàn Quốc bị ô nhiễm nặng. Gió mùa từ Trung Quốc thổi vào thành phố Kita Kiusu của Nhật Bản mang theo nhiều oxit lưu huỳnh gây ra hiện tượng mưa acid. Chỉ riêng năm 1991, Trung Quốc thải vào bầu khí quyển của Đông Nam Á 160 ngàn tấn Axit Sunphuric gây ô nhiễm không khí cho nhiều nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Cháy rừng ở Indonesia - một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á với Việt Nam. Trong lịch sự, vụ cháy rừng ở Indo năm 1997 đã phá huỷ hơn 10 triệu hecta hoa màu của Malaysia và khiến hầu hết các khu vực trong Đông Nam Á chìm trong khói. Tổng thiệt hại về kinh tế trong năm đó lên tới 9,3 triệu Đôla Mĩ. Gần đây, cháy rừng vẫn tiếp tục xảy ra và gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới Malaysia. Gió thổi khó bụi bay sang và vây kín đường phố thủ đô Kuala Lampua, khiến nhiều trường học và sân bay phải đóng cửa. Chính quyền Malaysia đã phải ban hành tình trạng khẩn cấp. Nghiêm trọng hơn là việc Đảng đối lập ở Malaysia (ADP) do quá phẫn nộ đã tiến hành biểu tình trên đường phố và trước Đại sứ quán Indonesia. Động thái này đe doạ đến mối quan hệ vốn đã rất mong manh giữa hai quốc gia này.
Xung đột Nga - Nhật năm 1993: tháng 10 năm 1993, Nga đã đổ ra vùng biển của Nhật hơn 900 tấn rác thải phóng xạ, làm chết hàng trăm loài cá và các sinh vật biển trong vùng; phá huỷ môi trường biển nơi đây. Đồng thời sự ô nhiễm môi trường biển này cũng gây tổn thất lớn cho ngành đán bắt cá của Nhật Bản. Nhật ngay lập tức đã lên tiếng cảnh báo và yêu cầu Nga chấm dứt ngay lập tức, cả Mĩ cũng dính líu vào vụ việc này. Một loạt các quốc gia ven biển Đông cũng tham gia vì các rác thải phóng xạ đó lan ra gây hại đến sức khỏe của người dân nước họ. Vậy là không chỉ có Nga và Nhật mà ngay cả Mĩ và một loạt các quốc gia khác cũng bị lôi vào cuộc xung đột. Quan hệ giữa Nga và Nhật vốn đã không mặn mà do những tranh chấp quanh tài nguyên nghề cá nay lại càng thêm căng thẳng do việc Nga phá hoại môi trường biển Nhật Bản.
3.1.2.2.Làm tăng số người tị nạn môi trường
Bên cạnh việc tạo ra các “lò lửa xung đột”, ô nhiễm môi trường còn dẫn tới tình trạng di cư ồ ạt và tỉ lệ người tị nạn môi trường tăng lên. Khi khí hậu nóng lên cùng với đất đai bị sa mạc hoá sẽ tạo ra sự thiếu hụt về tài nguyên. Chính sức ép từ sự thiếu hụt này đã gây ra hiện tượng di cư ồ ạt và tăng mạnh số người tị nạn môi trường. Tình trạng này vừa gây ra những mâu thuẫn bất đồng giữa các nước. Đồng thời tạo ra thiệt hại cho cả hai bên. Tại những nước xảy ra ô nhiễm môi trường, người dân di cư sang nước khác để lại một sự thiếu hụt lớn về lao động. Mà phần lớn các nước này thường nằm trong nhóm kém hoặc đang phát triển. Lực lượng lao động mà không đủ thì càng khó khăn hơn cho họ trong phát triển kinh tế. Các nước có người nhập cư và tị nạn môi trường sẽ phải đương đầu với một loạt các vấn đề gây bất ổn xã hội như: tỉ lệ người thất nghiệp tăng cao, dịch bệnh lan tràn hay tệ nạn xã hội gia tăng đột biến …Cùng lúc đó tỉ lệ người nghèo sẽ gia tăng, sản lượng lương thực giảm sút khiến cho kinh tế sa sút. Cả xã hội bị chao đảo và cục diện chính trị trong nước bất ổn định. Từ đó, xung đột sẽ nảy sinh giữa các nước với nhau. Ví dụ: Từ năm 1984 đến 1985, có 10 triệu dân tị nạn châu Phai rời khỏi quê hương, ước tính chiếm 2/3 tổng số dân tị nạn trên thế giới. Họ bỏ quê hương ra đi không phải chuyện lạ, vì châu lục này có 35 người bị đói và rét do hạn hán thiên tai xảy ra triền miên. Trong quá khứ mà con số tị nạn môi trường này đã lên tới 10 triệu. Vậy thì trong thế giới hiện đại ngày này, con số ấy phải vượt mức 20 triệu và gây nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa các nước.
Tóm lại, dù là nước công nghiệp phát triển hay đang phát triển, dù là bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp thì ô nhiễm môi trường luôn là “mối hoạ” cho mọi quốc gia. Chính vấn đề này đã gây ra rạn nứt trong quan hệ giữa các nước và từ đó tạo thành các xung đột lớn và thậm chí là chiến tranh. Do đó, ô nhiễm môi trường kìm hãm sự phát triển của toàn nhân loại.
3.1.3. Trong đời sống chính trị quốc tế, ô nhiễm môi trường gây ra nhiều bất ổn
Quan hệ giữa các nước là tổng thể các mối quan hệ kinh tế, thương mại, văn hoá, xã hội, ngoại giao và đặc biệt là quan hệ về chính trị. Khi mà ô nhiễm môi trường làm căng thẳng và rạn nứt quan hệ quốc tế thì nó tất nhiên sẽ gây tác động xấu tới mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia. Cụ thể, vấn nạn này gây ra những xáo trộn và làm cho tình hình chính trị quốc tế luôn tiềm ẩn những bất ổn.
3.1.3.1.Giảm hiệu quả của hệ thống PL quốc tế và các cơ chế an ninh quốc tế
Khi nảy sinh mâu thuẫn hay tranh chấp giữa các nước, chúng ta cần đến hệ thống pháp luật quốc tế hay các cơ chế an ninh chung để giải quyết. Song hậu quả của ô nhiễm môi trường là làm cho một số luật quốc tế và các cơ chế an ninh quốc tế trong lĩnh vực sinh thái giảm hiệu quả và thậm chí là uy tín của mình. Xin đi sâu phân tích điều này qua Nghị định thư Kyoto. Đây là một công ước quốc tế quy định lượng cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính đối với các quốc gia trên thế giới. Mục tiêu của nghị định thư này là nhằm bảo vệ bầu khí quyển, ngăn chặn hiện tượng hiệu ứng nhà kính và lỗ thủng tầng ozone. Nhưng trong khi đặt ra các quy định và con số cụ thể yêu cầu các nước công nghiệp phát triển cắt giảm thì Nghị định thư này lại miễn giảm cho một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil. Điều này đã gây ra mâu thuẫn lớn giữa một bên là Mĩ, Nhật Bản, Canada và Australia. Họ cho rằng sẽ là không công bằng nếu miễn giảm cho Trung Quốc, Ấn Độ hay Brazil vì chính những nền công nghiệp này cũng đang thải ra lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính khổng lồ. Từ đó, Mĩ – quốc gia có lượng khí thải lớn nhất thế giới lại không chịu thực thi Nghị định thư này. Kéo theo hậu quả là bất cứ nước nào khi bị buộc cam kết thực thi đều viện lí do là Mĩ còn không thực thi. Vậy là Nghị định thư Kyoto không thực sự hiệu quả và uy tín quốc tế của nó trong những năm qua không thực sự cao.
Ngoài ra còn phải kể tới các công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ môi trường và hoạt động của các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ như Oxfam, Hoà bình xanh … Tuy nhiên, tất cả những thứ đó dường như vẫn chưa đủ hiệu quả để giải quyết nạn ô nhiễm môi trường trên toàn thế giới đặc biệt là ở các nước thế giới thứ ba.
3.1.3.2.Ô nhiễm môi trường trở thành một con bài để mặc cả về chính trị
Có những quốc gia rất tích cực trong công cuộc bảo vệ môi trường sinh thái trên toàn thế giới. Hành động của họ xuất phát từ mục đích bảo vệ an ninh sinh thái không chỉ của riêng họ mà còn vì hoà bình chung cho nhân loại. Song cũng có trường hợp một số quốc gia đã lấy vấn đề an ninh sinh thái ra làm một con bài để mặc cả về chính trị. Họ lấy sức ép từ ô nhiễm môi trường để thoả thuận, đàm phán và giao kèo với một số nước hòng đạt được những mục đích nhất định. Trở lại với ví dụ về xung đột Nga - Nhật năm 1993. Sau khi xảy ra vụ việc, thủ tướng Nga lúc đó đã lên tiếng nói rõ cho Nhật biết rằng nếu Nhật không tăng cường viện trợ kinh tế cho Nga thì vấn đề sẽ không thể sớm được giải quyết. Năm 1993 là thời điểm mà chiến tranh lạnh vừa kết thúc, Liên Xô tan rã và nước Nga ra đời trong những điều kiện hết sức khó khăn về kinh tế cũng như chính trị. Do đó Nga rất cần viện trợ từ bên ngoài để khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế. Nga đã lấy việc đổ rác thải phóng xạ làm con bài mặc cả với Nhật và các nước. Nếu viện trợ không đến tay Nga, không đầy đủ nhanh chóng hoặc không hiệu quả thì Nga sẽ không dừng lại hành động của mình, bất chấp sự phản đối kịch liệt của cộng đồng quốc tế trong đó có cả Mĩ.
3.1.3.3. Ô nhiễm môi trường làm sâu sắc thêm mâu thuẫn Bắc – Nam
Mâu thuẫn Bắc – Nam là mâu thuẫn vốn tồn tại muôn thủa giữa một bên là các nước phát triển và một bên là các nước thuộc thế giới thứ ba. Ngày nay, chính các nước phát triển nhất lại là những nước sử dụng nhiều năng lượng nhất, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất này. Không công bằng là ở chỗ chính họ lại không bị trả giá cho những hành động vô ý thức của mình mà lại là những nước kém phát triển nhất. Thiên tai bão lũ hay sóng thần cứ ập vào làm các nước vốn nghèo nay lại càng ở trong tình trạng nguy ngập hơn. “Chỉ cần một người phương Tây bật bếp gas đun sôi một ấm nước thôi cũng có thể gây ra một trận lụt ở Băngladesh”. Sự bất bình đẳng trong tiêu thụ và sử dụng năng lượng giữa bối cảnh thiếu hụt tài nguyên và năng lượng trầm trọng như vậy đã làm cho mâu thuẫn Bắc Nam càng sâu sắc hơn bao giờ hết
3.1.3.4. Tiểu kết luận
Có thể đưa ra một phản ứng hoá học như sau cho quan hệ quốc tế:
Khi giữa các nước vốn tiềm ẩn những mâu thuẫn và bất đồng, mỗi nước lại có những tính toán riêng cho mình (muốn đòi viện trợ kinh tế hay xâm phạm chủ quyền quốc gia khác), cơ chế luật quốc tế lại lỏng lẻo và thiếu hiệu quả. Đó là ba thành phần chính trong phản ứng này. ÔNMT xuất hiện như một chất xúc tác với những hậu quả của nó như thiếu hụt năng lượng, cạn kiệt tài nguyên hay hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozone. Chất xúc tác này sẽ làm phản ứng xảy ra nhanh hơn, mạnh hơn và cho ra kết quả không tốt chút nào. Đó là chính trị quốc tế bất ổn.
3.2. Đặt ra thách thức mới cho hệ thống pháp luật quốc tế và cơ chế an ninh sinh thái
Ngoài việc gây ra những xung đột và bất ổn định trong nền chính trị quốc tế, ô nhiễm môi trường còn là một tác nhân dẫn đến sự thay đổi trong các cơ chế pháp luật quốc tế đang tồn tại cũng như thúc đẩy sự hình thành các hệ thống luật mới và cơ chế an ninh sinh thái trên thế giới.
Thách thức đặt ra cho hệ thống pháp luật quốc tế chính là do mối quan hệ tương tác giữa các nhân tố mà nó điều chỉnh. Một số quy pham pháp luật được dùng để điều chỉnh về môi trường và các phạm trù xung quanh nó, tuy nhiên một khi môi trường có sự biến đổi thì lẽ dĩ nhiên là không thể làm ngơ với cái được gọi là “bất phù hợp” của các quy phạm này. Những ảnh hưởng tiêu cực của ô nhiễm môi trường đang làm thay đổi dần cả thế giới và không có gì khác ngoài việc con người phải tập thích nghi với nó để dung hoà những gì mà họ đang nắm trong tay. Đương nhiên hành động của con người phải đi theo những nguyên tắc chung nhất định, trong khuôn khổ của các quy pham pháp luật, do đó loài người không thể tách rời hệ thống pháp luật với các động thái tới thiên nhiên của mình. Kể từ khi hình thành và phát triển, cùng với mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên và nhận thức được tầm quan trọng của nó đến cuộc sống con người, loài người đã có những ý thức nhất định trong việc bảo vệ môi trường. Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh, vấn nạn ô nhiễm môi trường đặt ra những yêu cầu lớn cần được điều chỉnh, do đó đã hình thành nên các cơ chế luật để điều chỉnh nó. Các văn bản pháp luật này, dù là song phương hay đa phương đều có những quy phạm cụ thể và nguyên tắc chung thống nhất có tính pháp lý cao nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc cưỡng chế thực hiện. Có thể thấy vai trò của chúng là cực kì quan trọng và đã được kiểm định qua thời gian dài. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy là môi trường ngày nay không còn được như trước nữa. Sự hư hỏng, ô nhiễm, cạn kiệt đang dần bao phủ lấy nguồn tài nguyên vô tận này. Những biến đổi đó vô tình tạo nên bức màn ngăn cách giữa thực tế những gì đang diễn ra và những gì đã từng được nhắc đến trong hệ thống pháp luật quốc tế. Đơn giản rằng nó không còn phù hợp hay đúng hơn là chưa cập nhật được những thay đổi này do vậy cũng đã xảy ra không ít mâu thuẫn giữa các quốc gia chỉ vì sự khập khiễng giữa thực tế và “lý thuyết”. Nhằm tạo được sự công bằng, đúng đắn cho các mối quan hệ đó, pháp luật dĩ nhiên phải được thay đổi để theo kịp tốc độ ô nhiễm đang diễn biến ngày càng phức tạp đó. Một số ví dụ cụ thể cho thách thức này đó là Luật biển quốc tế, các Công ước về biển hay Nghị định thư Kyoto.
Luật biển quốc tế và các Công ước về biển là những quy phạm luật quốc tế có ý nghĩa cực kì quan trọng và đã được sự tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Phạm vi điều chỉnh của nó là khá rộng vì bao hàm hết các bộ phận, khu vực và các sinh thể thuộc biển và đại dương. Ra đời từ khá lâu, các công ước này ít nhiều đã góp phần phân định ranh giới rõ ràng, đặt ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho mỗi quốc gia trong phạm vi trách nhiệm của mình. Tuy nhiên những biến đổi trong tự nhiên ngày nay đã cho thấy những bất cập cần được xem xét và sửa đổi của hệ thống luật này. Một điển hình cụ thể là việc nóng dần lên của Trái đất đã làm tan băng ở hai cực từ đó làm dâng cao mực nước biển. Nhìn một cách đơn giản, chỉ có thể nhận ra ảnh hưởng của nó ở tầm thấp đó là việc ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng ở khía cạnh khác, nó sẽ làm nảy sinh các mâu thuẫn vốn liên quan đến các tranh chấp xung quanh vấn đề biển và đại dương giữa các quốc gia. Một mặt, con người sẽ phải hứng chịu những hệ luỵ này, nhưng mặt khác, tất lẽ dĩ ngẫu sẽ bắt buộc phải đưa ra các điều khoản mới trong việc phân định các ranh giới và giải quyết các xung đột này.
Ví dụ thứ hai là về Nghị định thư Kyoto. Nghị định này được đưa ra năm 1997, cho đến hiện tại đã nhận được sự chấp thuận chính thức của 140 quốc gia. Nghị định thư Kyoto là bản thoả thuận của các quốc gia về việc cắt giảm lượng khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính ở các quốc gia phát triển xuống còn 8%. Bề ngoài, nó là một phương án khá hữu hiệu và nhận được sự đồng tình của nhiều quốc gia nhưng thực ra vẫn còn khá nhiều bất đồng xung quanh vấn đề này và có các yêu cầu đưa ra rằng nên chỉnh sửa nó cho phù hợp hơn với thực tế ngày nay. Luận điểm này được đưa ra bởi Hoa Kỳ và một số nước Công nghiệp phát triển khác như Canada, Australia. Theo ý kiến của các quốc gia này thì mặc dù các nước này có ngành công nghiệp phát triển lớn mạnh nhưng cần nhìn nhận rằng chính các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc hay Ấn Độ - những nước tự cho rằng mình có cái quyền miễn trừ trách nhiệm đối với vấn đề này mới chính là “ông trùm” của lượng khí thải độc hại đang được thải ra với mức kỉ lục hiện nay. Chính sự bất bình này đã gây ra dư luận phản đối đối với điều khoản miễn trừ tham gia Nghị định cho các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh đó, việc Mỹ từ chối tham gia nghị định đã đẩy Nga làm con bài thay thế. Sau hơn 7 năm kiên quyết đứng ngoài cuộc, cuối tháng 11 vừa qua Nga đã phải chấp nhận là đại diện duy nhất cho Hội đồng bảo an tham gia vào nghị định này, chính thức đặt mốc cho hiệu lực của nghị định. Như vậy, dù là sớm hay muộn thì việc bầu sinh quyển đang chết dần chết mò
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan o nhiem moi truong.doc
- Trang bia.doc