MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PREBIOTIC 2
1.1. Khái niệm 2
1.2. Thành phần, đặc điểm, tác dụng của các chất tạo nên Prebiotic. 3
1.2.1. Galactooligosaccharide (GOS) 3
1.2.2. Fructooligosaccharide (FOS) 3
1.2.3. Lactosucrose 4
1.2.4. Lactulose 5
1.2.5. Isomaltooligosaccharide (IMO) 5
1.2.6. Glucooligosaccharide 5
1.2.7. Xylooligosaccharide (XOS) 6
1.2.8. Transgalactooligosaccharide (TOS) 6
1.2.9. Oligosaccarit đậu tương 6
1.2.10. Xylo – oligosaccarit 7
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PREBIOTIC ĐỐI VỚI SỨC KHỎE 8
2.1. Tính đặc trưng và các hiệu ứng sinh lý của Prebiotics 8
2.1.1. Mucosal Structure – Cơ cấu, tổ chức niên mạc. 8
2.1.2. Intestinal Mucus - Chất nhầy trong đường ruột 8
2.1.3. Phytic Acid and Mineral Bioavailability – acid phytic và những lợi ích đạt được 8
2.2. Modulation of the Gut Microbiota – sự điều biến của các vi sinh vật Gut. 9
2. 3. Immune System – Hệ miễn dịch 10
2.4. Lipid Metabolism - Quá trình chuyển hóa lipid 10
2.5. Mineral Absorption – Hấp thu chất khoáng 11
2.6. Trẻ sơ sinh 13
2.6.1. Bệnh dị ứng 14
2.6.2. Viêm ruột hoại tử 15
2.6.3. Phòng và chống bệnh nhiễm trùng 16
2.7. Tác dụng đối với đường tiêu hóa 16
2.7.1. Hội chứng kích thích ruột 16
2.7.2. Táo bón 17
2.7.3. Các bệnh truyền nhiễm và tiêu chảy có liên quan đến khánh sinh 18
2.7.4. Bệnh viêm ruột 19
2.8. Người cao tuổi 20
2.9. Tái tạo sự cân bằng của hệ vi khuẩn đường ruột 20
2.10. Tác động tốt đến đại tràng 24
2.11. Những lợi ích khác 26
2.12. Những tác động tiêu cực của prebiotic 27
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2825 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của prebiotic đến sức khỏe, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g xuyên thể hiện ở vật chủ. Một số loài cũng có thể để lên men prebiotics SCFA như acetate và butyrate, là nguồn năng lượng quan trọng cho vật chủ. Trong khi bifidobacteria không sản xuất butyrate, chúng đã được hiển thị để kích thích sản xuất butyrate loài vi khuẩn chẳng hạn như eubacteria trong ruột (Belenguer et al, 2006). SCFA cũng đóng một vai trò trong việc điều tiết tăng trưởng và sự khác biệt tế bào, quá trình vận chuyển tế bào biểu mô ruột, gan và kiểm soát chuyển hóa lipid và carbohydrate. Một trong những lợi thế mà prebiotics có trong chế phẩm sinh học là các vi khuẩn đã hiện diện trong vật chủ, tuy nhiên, cần lưu ý rằng các sinh vật cần thiết để thúc đẩy sức khỏe không phải là đã hiện diện trong ruột, do bệnh, ví dụ, các prebiotic có thể biểu hiện không có tác dụng hữu ích.[1]
Ngoài ra, nó có thể hữu ích để xem xét những ảnh hưởng của prebiotics không chỉ trên các quần thể phân, nhưng microbiotas trên niêm mạc ruột. Gần đây, một sự kết hợp hàng ngày là 7,5 g inulin và 7,5 g FOS được sử dụng để tăng mức độ bifidobacteria và eubacteria niêm mạc. Điều này có thể hữu ích trong việc điều trị các bệnh tiêu hóa như viêm loét đại tràng, mức giảm của bifidobacteria và dysbiosis chung trong các quần thể vi khuẩn niêm mạc đã được chứng minh là tồn tại.[1]
2. 3. Immune System – Hệ miễn dịch
Ngày càng có nhiều quan tâm trong việc điều chế các các prebiotics hệ miễn dịch, có thể đặc biệt hữu ích trong điều kiện viêm nhiễm, hoặc ở trẻ em và người già. Bằng chứng đến nay cho thấy prebiotics có thể có tác động đáng kể đến hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, kết quả không rõ nếu đây là những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự kích thích miễn dịch, hoặc sản xuất SCFA, được biết là có tính chất điều hòa miễn dịch, và có thể liên kết với SCFA thụ thể protein G kết trên các tế bào miễn dịch trong ruột liên quan mô bạch huyết.[1]
Bổ sung FOS và lactulose trong chế độ ăn uống sẽ tăng sản xuất globulin miễn dịch niêm mạc, hạch bạch huyết mạc treo. Điều tra về tác động của prebiotics trên hệ thống miễn dịch đòi hỏi phải đánh giá cẩn thận về sự lựa chọn của các dấu hiệu, sẽ thay đổi, và phụ thuộc vào điều kiện nghiên cứu.[1]
Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các con chuột được nuôi với FOS và Inulin có một cải thiện phản ứng với thuốc chủng salmonella. Sau 1 tuần tiêm chủng, nuôi cấy tế bào lách được hiển thị để gia tăng sản xuất các cytokine như INF-g, IL-12 và TNF-a cũng như salmonella cụ thể IgG, IgA. Nhìn chung, ý nghĩa là kết hợp FOS / Inulin vật chủ miễn dịch kích thích niêm mạc để sản xuất một phản ứng lớn hơn với vắc xin salmonella.[1]
2.4. Lipid Metabolism - Quá trình chuyển hóa lipid
Điều tra thử nghiệm trên động vật, và một vài nghiên cứu ở người, đã cho thấy điều thú vị là cholesterol và chất béo trung tính trong cơ thể giảm, và lợi ích tim mạch liên quan với mức tiêu thụ prebiotic.[1]
Những con chuột được bổ sung oligofructose có phos-pholipid và mức triacylglycerol thấp hơn đáng kể trong huyết thanh, và đặc biệt, giảm đáng kể mật độ lipoprotein huyết thanh rất thấp (VLDL), được sản xuất trong gan bởi assem-bling lipid và apoproteins.[1]
Ở chuột được cho ăn một lượng chất béo cao, bổ sung oligofructose trong chế độ ăn uống, sau khi ăn thì lượng trigly-ceridaemia được giảm đi một nửa, không tăng nồng độ cholesterol trong huyết tương, mà thường sẽ có tác dụng tốt sau một bữa ăn chất béo cao. Những phát hiện này lôi kéo một hiệu ứng ngoài gan của quá trình chuyển hóa lipid, được nêu ra không hoàn toàn hiểu rõ. Tuy nhiên, nó được mặc nhiên công nhận rằng có một liên kết với các hiệu ứng tiền sinh insulin, các hiệu ứng biểu hiện gen. Một cơ chế khác có thể là sản xuất propionate trong quá trình lên men đã được hiển thị để ức chế tổng hợp axit béo trong cơ thể. Khi acetate vào các tế bào gan, nó được kích hoạt bởi các enzyme và sau đó đi vào con đường lipogenesis, nhưng propionate cạnh tranh với các loại protein thúc đẩy nhập acetate các tế bào gan. Do đó, đề xuất một cơ chế của hành động là khả năng làm thay đổi acetate tỷ lệ propionate hình thành sự sống trong tế bào.[1]
Ở động vật béo phì khi áp dụng một chế độ ăn uống bổ sung fructan, thì hiệu lực không được nhìn thấy trên triglyceridaemia sau ăn, nhưng giảm việc gan nhiễm mỡ.
Giảm khối lượng chất béo và trọng lượng cơ thể cũng đã được quan sát thấy, và được xem là làm giảm các axit béo từ mô mỡ. Tỷ lệ tiêu hóa chất béo được giảm đáng kể ở chó khi cho sử dụng một chế độ ăn uống có oligosaccharide, có thể là một cơ chế vật chủ khác, làm giảm lượng lipid, và ảnh hưởng được thấy rõ trong các nghiên cứu khác.[1]
2.5. Mineral Absorption – Hấp thu chất khoáng
Một trong những chức năng quan trọng của prebiotic đối với động vật có vú nói chung là cải thiện lượng hấp thụ canxi, magie, sắt và kẽm. Ngoài ra nó còn tăng cường trao đổi khoáng chuyển thành xương và có thể được nhìn thấy trong hình 2.1, , một số cơ chế hoạt động của prebiotic đã được đề xuất cho hấp thu khoáng chất. Mặc dù ngiên cứu về tác dụng của prebiotic đối với con người vẫn hạn chế và qui mô còn nhỏ. Nhưng prebiotic có thể có lợi trong việc ngăn ngừa loãng xương, đó là một bệnh khá phổ biến và thường gây đau đớn cho người bệnh. Cũng như phòng tránh bệnh thiếu máu liên quan đến chế độ ăn uống và tăng cường sự hấp thụ vi chất dinh dưỡng để tránh tình trạng suy dinh dưỡng.[1]
Qua quá trình khảo sát ở động vật và con người lượng canxi được hấp thu ở đường ruột tăng lên 20% , và lượng canxi tăng lên này vẫn được duy trì thể hiện qua các phép đo trong cơ thể (Coudray 1997; Griffin 2002). Ở người, lượng canxi chủ yếu được hấp thụ trong ruột non, các nhà khoa học đã nghiên cứu bằng cách mở thông ruột hồi sau đó cho ăn prebiotic thì nhận thấy sự hấp thu canxi trong ruột non không tăng lên, do đó cho thấy rằng các prebiotic đã ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi ở ruột già. Trong khảo sát điều tra đã phát hiện rằng canxi được hấp thu từ ruột kết, và qua quá trình trao đổi chất prebiotic làm tăng sự hấp thu canxi lớn ở ruột này.[1]
Hình 2.1: Cơ chế bổ sung khoáng chất từ prebiotic
Ở đây một số xảy ra theo cơ chế lên men. Prebiotic lên men, cũng như quá trình thảo luận trước đó, nó làm giảm pH trong ruột già, qua đó nâng cao khả năng hòa tan canxi và sinh khả dụng cho sự hấp thụ. Lượng canxi được di chuyển qua biểu mô thông qua các kênh và bằng cách sinh ra ATP. Tăng khả năng hòa tan canxi làm tăng gradient trên biểu mô và thúc đẩy sự hấp thu thụ động, trong các hầu hết các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hấp thụ canxi chỉ xảy ra khi có sự chênh lệch nồng độ. Tuy nhiên, dùng chuột để thí nghiệm chi tiết để xem xét sự giảm pH là có hay là không có sử dụng các SCFA, và kết quả cho thấy rằng lượng canxi qua biểu mô tăng lên trong thí nghiệm SCFA, nó cũng có liên quan đến các cơ chế tiềm năng khác của vận chuyển ion hóa trị hai. Các nhà khoa học đã sử dụng các đoạn tế bào nhỏ và giảm sức chịu đựng về điện của chúng. Sau đó họ kết luận rằng một số prebiotic tương tác với các mối nối tế bào biểu mô chặt chẽ, và do đó làm tăng tính bán thấm về khoáng chất của các tế bào này.[1]
Các cơ chế về tiềm năng khác đã được công nhận là tăng cường sự hấp thụ ion kim loại hóa trị hai dựa trên nghiên cứu từ dạ cỏ cừu trong ống nghiệm. Các nhà khoa học đề xuất ý kiến hấp thu trực tiếp canxi với sự hấp thu tràng SCFA và quá trình lên men, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến biểu hiện gen của các protein có liên quan đến cô lập và liên kết niêm mạc. Điều này đã được chứng minh bởi các thí nghiệm đo nồng độ mRNA của gen mục tiêu niêm mạc, phiên mã tăng lượng trao đổi Na+ và Ca2+ và gắn kết với nhau, mà nó cũng làm tăng sự liên kết các canxi trong tế bào.[1]
Nghiên cứu cũng xem xét các tác động khác nhau đến các chuỗi có chiều dài khác nhau, và các loại inulin mạch nhánh, các nghiên cứu đã không tìm thấy sự khác biệt đáng kể trong việc hấp thụ canxi và magie, với ngoại lệ là sự kết hợp của các oligofructose và HP-inulin xuất hiện rất nhiều để làm tăng hấp thu canxi. Một chế độ ăn gồm inulin và FOS ở chuột cho thấy lượng canxi được hấp thu tương đối cao hơn nhiều so với không sử dụng. Tuy nhiên cơ chế này còn chưa rõ ràng và yêu cầu điều tra thêm.[1]
Sự hấp thụ magie đã được chứng minh cụ thể có liên quan đến lactate trong ruột với độ pH thấp nhưng không liên quan đến SCFA. Acid lactic có tính acid cao hơn SCFA với ngụ ý rằng cơ chế này là hoạt động làm giảm độ pH trực tiếp do hấp thu. Mặc dù vậy, mặc nhiên người ta vẫn công nhận rằng các cơ chế tăng cường sự hấp thu magie với prebiotic là một đóng góp trực tiếp của SCFA thông qua một cơ chế trao đổi cation, các ion magie dược kích thích SCFA bằng cách kích hoạt Mg2+/2H+ trao đổi. Điều này chỉ được chứng minh trong các nghiên cứu trong ống nghiệm, bằng cách sử dụng các phân đoạn ruột sau của chuột. Butirat được cho là SCFA hiệu quả nhất trong việc kích thích hấp thu magie trong niêm mạc. Hấp thu chất sắt từ ruột cũng được cho là tương quan với sự hiện diện của SCFA và tăng trọng lượng của các bức tường ruột thịt nhưng về kỹ thuật này làm tăng cường hấp thu sắt thì cần phải được làm rõ.[1]
Giả sử ở người lớn các cơ chế này làm tăng hấp thụ canxi, thì việc tiêu thụ prebiotic có thể xem là một tá dược có hiệu quả trong việc cải thiện lượng canxi cho người bị thiếu canxi và loãng xương bằng con đường uống, hoặc họ có thể dùng trước để ngăn ngừa trước khi bắt đầu bị mất khoáng, đã được quan sát trong chuột.[1]
2.6. Đối với trẻ sơ sinh
Các oligosaccharide là yếu tố tiền sinh trong sữa của con người và nó làm tăng mức độ sử dụng của bifidobacteira của trẻ sơ sinh khi bú sữa mẹ so với trẻ sơ sinh bú chai. Giả định GOS giống như glycoconjugate là các thụ thể của bề mặt tế bào thì nó bảo vệ cơ thể trẻ chống lại các vi sinh vật gây bệnh. Prebiotic đã được con người ứng dụng để cung cấp cho trẻ sơ sinh từ lâu như ở tại nhật bản trong vòng 2 thập kỷ qua và ở châu âu trong 5 năm qua. Có rất nhiều cuộc thử nghiệm đã được tến hành ở trẻ sơ sinh với phần lớn cuộc thử nghiệm nhằm xác định khả năng của các prebiotic trong việc làm tăng bifidobacteria. Sau khi cuộc thử nghiệm đươc lặp đi lặp lại nhiều lần ở trẻ sơ sinh thì các ủy ban về khoa học thực phẩm của châu âu đã đồng ý cho thêm một hỗn hợp FOS trong công thức gồm 10% mạch ngắn và 90% mạch dài thêm vào sữa bột của trẻ em cho trẻ sơ sinh sử dụng là an toàn.[1]
Oligosaccharide là một trong những thành phần chính của sữa mẹ, trung bình bao gồm:
+ 10g Oligosaccharide trung tính/ 1 lít sữa mẹ
+ 1g Oligosaccharide mang tính axit/ 1 lít sữa mẹ
Nồng độ của 2 chất này trong sữa mẹ thay đổi phụ thuộc vào những thời kỳ cho con bú khác nhau (các giai đoạn sau sinh), cao hơn trong sữa non (thường là tuần đầu sau sinh) và giảm dần vào các giai đoạn sau.[2]
Thành phần oligosaccharide trong sữa mẹ rất phức tạp, trong đó khoa học mới chỉ khám phá ra khoảng hơn 100 loại chất có cấu trúc tương tự như oligosaccharide. Các oligosaccharide rất cần thiết trong vai trò thúc đẩy sự phát triển của hệ vi khuẩn có lợi bifidobacteria và tạo ra tính đề kháng bệnh tật của sữa mẹ.[2]
Hệ vi khuẩn đường ruột gần như không tồn tại ở thời điểm trẻ mới chào đời, và gia tăng về số lượng trong các giai đoạn sau sinh. Hệ vi khuẩn đường ruột trong trẻ sơ sinh thường giống với hệ vi khuẩn đường ruột trong cơ thể người mẹ. Hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ dùng sữa mẹ có 2 loại vi khuẩn bifidobacteria và lactobacilli phát triển và chiếm ưu thế; ở trẻ dùng nguồn dinh dưỡng công thức bổ sung, các loại vi khuẩn phát triển chiếm ưu thế lại là những vi khuẩn bất lợi cho hệ tiêu hóa như Enterobacteria và các vi khuẩn gram âm. Hiện tượng phát triển chiếm ưu thế của vi khuẩn bifidobacteria trong đường ruột trẻ dùng sữa mẹ được coi là góp phần vào tác dụng giảm thiểu các nguy cơ nhiễm khuẩn cho cơ thể. Các oligosaccharide có thể tham gia vào quá trình chống nhiễm khuẩn theo 2 cách sau:
+ Trực tiếp: Hoạt động tương tự như một đơn vị bám dính cho các vi khuẩn gây hại, tức là như một cái bẫy lôi kéo các vi khuẩn có hại tạo liên kết, qua đó kiềm chế sự phát triển của hệ các vi khuẩn này do chúng không sống cộng sinh lên thành ruột nữa. Bên cạnh đó, các oligosaccharide còn tương tác với các tế bào miễn dịch.[2]
+ Gián tiếp: Thúc đẩy mối quan hệ hội sinh (2 bên cùng có lợi) giữa các vi khuẩn có lợi, giúp hệ vi khuẩn này phát triển, đồng thời qua đó ức chế sự phát triển (về mặt dinh dưỡng và đất sống) của những vi khuẩn có hại.[2]
Theo nghiên cứu, trong đó galacto oligosaccharides (GOS – dẫn xuất từ lactose) và fructo oligosaccharides (FOS – dẫn xuất từ chicory) dạng chuỗi dài được sử dụng chung dạng hỗn hợp. Sau 28 ngày bổ sung hỗn hợp GOS/FOS ở nồng độ 0,4g/100ml hay 0,8g/100ml cho trẻ nhỏ, kết quả cho thấy có sự phụ thuộc của tác động kích thích sự phát triển của hệ vi khuẩn bifidobacteria và lactobacilli ở đường ruột vào liều lượng bổ sung hỗn hợp GOS và FOS nói trên. Ngoài ra, hỗn hợp này còn giúp trẻ đi ngoài đều đặn, giảm táo bón.[2]
2.6.1. Bệnh dị ứng
Khi sinh, trẻ ở tháng thứ 2 đã có mức cytokine cao từ người mẹ truyền qua. Bệnh dị ứng ở trẻ sơ sinh là do các chứng dị ứng IgE trung gian và khi trẻ qua tháng thứ 2 thường xảy ra dị ứng do cytokine thấp do đó lượng bifidobacteria tìm thấy trong phân của trẻ bị dị ứng thấp. Trên cơ sở này prebiotic hoạt động có tác dụng làm tăng họ bifidobacteria và làm miễn dịch trung gian. Ý tưởng này đã được các ban hành quản lý khuyến khích và hỗ trợ dựa trên raffinose và các oligosaccharide alginate cho trẻ sơ sinh bị dị ứng, tạo ra sự giảm dị ứng ờ trẻ sơ sinh tháng thứ 2, có lẽ bằng cách này kích thích miễn dịch ở Th1 và tái cân bằng tăng khả ngă miễn dịch do tang cytokine chống viêm như Il-10 và TGF-β.[1]
Prebiotic đã được nghiên cứu chứng minh là giảm đáng kể tỷ lệ mắc viêm da dị ứng ở trẻ sơ sinh bị dị ứng, điều này có liên quan đến sự gia tăng bifidobacteria được xét nghiệm trong phân trẻ, mặc dù phân đã được đông lạnh trước khi đi phân tích có thể sẽ ảnh hưởng đến sự sống sót phục hồi của vi khuẩn.[1]
Một phần trong hệ thống miễn dịch của niêm mạc ruột (MALT) nó bao gồm một số lượng lớn sIgA để bảo vệ chống lại vi khuẩn và vi rút gây bệnh hoặc xâm nhập vào niêm mạc ruột. IgA được tiết ra một phần bị phân hủy bởi vi khuẩn đường ruột, nhưng phân hủy đến một mức độ nào đó thì các kháng thể sinh vật sẽ ngăn chặn để chống lại sự phân hủy này. Em bé được bú sữa mẹ ít bị các bệnh về dị ứng hơn so với em bé uống sữa ngoài và họ cũng cho biết là nồng độ IgA cũng thấp hơn. Em bé được bú sữ mẹ thì có các chỉ số có thể được tăng là lượng bifidobacteria và lactobacilli, FOS. Một nghiên cứu của Scholtens (năm 2008) được nghiên cứu trên 215 trẻ em khỏe mạnh trong 26 tuần đầu tiên khi chào đời, trẻ được chọn ngẫu nhiên để thực hiện GOS và FOS hoặc giả dược, và sự dụng phương pháp ELISA để đo sIgA trong phân kết quả cho thấy sIgA trong nhóm được dùng orebiotic cao hơn đáng kể là 719mg/g so với 263mg/g trong nhóm dùng giả dược (P < 0.001), lượng bifidobacteria trong phân cũng cao hơn (P < 0.04, Scholtens năm 2008), và nó cũng có lượng clostridia thấp hơn trong nhóm dùng prebiotic (P = 0.006). Nó được hiểu như là một bằng chứng cho khả năng miễn dịch của niêm mạc. Cơ thể có thể hỗ trỡ các tiền sinh từ immunomodulate như đã mô tả ở trên và INF-γ được biết đến là thành phần tiết của tế bào mô tạo IgA. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu ở chuột khi cho ăn tiền sinh thì mối tương quan giữa nồng độ sIgA caecal trong sản xuất interferon thay đổi, lập luận này chống lại vai trò tiềm năng của các cytokine.[1]
2.6.2. Viêm ruột hoại tử
Ở trẻ sơ sinh đẻ non, các bifidobacteria thấp còn entrerbacteria và clostridia cao do đó trẻ dễ mắc một số bệnh sớm, ví dụ như viêm ruột hoại tử (NEC) là do liên kết của các vi sinh vật gây hại, Klebsiella và E.coli. Trong quá trình cho con bú bằng sữa mẹ thì nó được miễn dịch luôn luôn được bảo vệ chống lại bệnh viêm ruột hoại tử , và trong các mô hình chuột bifidibacteria góp phần làm giảm nguy cơ mắc bệnh viêm ruột hoại tử. Trong mô hình chim cút, sử dụng chất tiền sinh và prebiotic làm giảm lassions caecal trong ruột, nhưng không có nghiên cứu ở người về tác dụng cống viêm ruột hoại tử khi dùng prebiotic. Các cơ thể động vật chỉ được nghiên cứu trong một chừng mực nào đó, do đó cần phải lưu ý những thay đổi trong các quần thể vi khuẩn, đặc biệt tăng 1lượng bifidobacteria lactobacilli. Có lẽ, có rất nhiều loại prebiotic có hữu ích trong việc phòng ngừa bệnh này chẳng hạn như các tác dụng kháng khuẩn và chứa năng bài tiết tăng lên.[1]
Nghiên cứu ở chuột cho thấy, chuột có chế độ ăn gồm oligosaccharides chiết xuất từ sữa dê có những cải thiện về triệu chứng bệnh so với chuột đối chứng. Inulin và oligofructose cũng được báo cáo là hiệu quả trong điều trị thiện bệnh viêm ruột (Inflammatory Bowel Disease IBD).[3]
Quá trình lên men cũng sản sinh ra khí hơi và nước có tác dụng làm cho phân mềm và xốp phòng chống táo bón, đồng thời tăng cường khả năng kháng vi khuẩn bằng cách giảm bớt số vi khuẩn nội sinh trong đường ruột qua việc đào thải phân mỗi ngày.[3]
2.6.3. Phòng và chống bệnh nhiễm trùng
Các nghiên cứu ở trẻ em về việc phòng và ngừa bệnh nhiễm trùng cho các kết quả khác nhau. Theo nghiên cứu khi sử dụng 1.1g oligofructose ngũ cốc hằng ngày trong DBRCT trong tổng 123 trẻ ( 4-24 tháng) được kết hợp với giai đoạn giảm sốt và được khám y tế. Nhóm điều trị này có ngày bệnh dài hơn và lượng kháng sinh cần cao hơn. Nhóm này có biểu hiện ít nôn, đến nôn nhiều và cảm thấy rất khó chịu nhưng không thấy có bị táo bón và đầy hơi. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu ở 140 trẻ em từ 1-2 tuổi được dùng kháng sinh có liên quan đến prebiotic trong 3 tuần thì trong phân có lượng bifidobacteria tăng đáng kể, nhưng không có sự khác biệt nàovề tác dụng phụ trong đường tiêu hóa. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên (DBRCT) ở 134 trẻ sơ sinh khi cho ăn prebiotic (GOS/FOS 8g/l) trong 6 tháng đầu tiên khi chào đời, ở đây chủ yếu theo dõi các bệnh liên quan đến dị ứng các trẻ được theo dõi bằng một thiết bị trung gian (Arslanoglu năm 2008). Nó không chỉ giảm tỷ lệ mắc dị ứng (P < 0.05), nhưng có một số ít bị cho là nhiễm trùng (P < 0.01), giảm sốt (P < 0.00001) và ít dùng thuốc kháng sinh hơn (P < 0.05). tuy nhiên các nghiên cứu đã không chứng minh được cơ chế các các kết quả trên.[1]
Vấn đề chính với hầu hết trong nghiên cứu trẻ em là họ chỉ chủ yếu dựa trên mức độ gia tăng bifidobacteria và lactobacilli làm bằng chứng về hiệu quả. Trong thưc tế, tác dụng của bifidobacteria cũng chỉ là trên lý thuyết. Những gì hiện nay cần được nghiên cứu là phải gắn với thực tiễn lâm sàng nhiều hơn nữa.[1]
2.7. Tác dụng đối với đường tiêu hóa
2.7.1. Hội chứng kích thích ruột
Hội chứng ruột bị kích thích (IBS) được cho là do vi khuẩn đường ruột gây nên trong các thử nghiệm khác nhau. Tập quán ăn uống của người dân làm giảm lượng bifidobacteria và lactocilli ở những bệnh nhân IBS, nhưng điều này không được xác nhận trong nghiên cứu DNA. IBS là một căn bệnh khó mà điều trị bởi vì các triêu chứng rất khó đoán, tài liệu về bệnh này không đầy đủ và rất hạn chế.[1]
Các sản phẩm chính của quá trình trao đổi chất tiền sinh trong ruột già là khối lượng tế bào vi khuẩn, SCFA, và khí dioxide carbon và hydro. Quá trình tạo ra khí trong trao đổi không được khuyến khích vì nó dẫn đến các triệu chứng liên quan đến khí không mong muốn đã được công bố rộng rãi khi sử dụng prebiotic. Đã có rất nhiều kết quả khác nhau về khí hydro trong hơi thở, một số chứng minh thì không có sự thay đổi gì sau khi tử nghiệm với 10g với FOS, và một số nghiên cứu chứng minh khác thì có sự gia tăng khí hydro trong hơi thở, đầy hơi và nhẹ khi thử nghiệm 20g mỗi ngày từ 5 ngày trở lên. Thật ngạc nhiên, khi inulin đã được báo cáo là có nhiều tác dụng như FOS. Thử nghiệm được thực hiện với 12000 tình nguyện viên khi cho sử dụng 14g dẫn đến kết quả nhận được là gia tăng đáng kể việc đầy hơi, kèm theo đau bụng. Không còn nghi ngờ gì nữa trong quá trình lên men prebiotic dẫn đến tác dụng phụ, nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là nó có dẫn đến khó chịu ở bụng, đầy bụng, ợ hơi, đầy hơi. Đây là các triệu chứng của IBS.[1]
Prebiotic được nghiên cứu cho báo cáo rằng nó giúp cải thiện các triệu chứng về sức khỏe nói chung và buồn nôn (P = 0.042), khó tiêu, đầy hơi (P = 0.008) và tiêu chảy ( P = 0.003) nhưng như đã nêu ra ở trên không có những điều tra nào về sử dụng prebiotic chính trong IBS. Có một số ít bệnh nhân có thể không phải bệnh táo bón IBS nhưng nói chung vẫn là chứng táo bón IBS chiếm ưu thế, như ta cũng thấy những người bệnh có thể hưởng lợi từ prebiotic nhưng vì quá nhiều người nội tạng quá mẫn cảm trong quá trình lên en orebiotic và tạo ra khí nó có thể có tác dụng phụ làm các triệu chứng của họ trầm trọng thêm ảnh hưởng đến sức khỏa và hạnh phúc.[1]
2.7.2. Táo bón
Tác dụng của một số tiền sinh về nhuận tràng đã được ghi nhận, mặc dù lợi ích trong điều trị táo bón còn hạn chế và không rõ ràng. Thói quen di cầu hằng ngày tăng phụ thuộc vào quá trình lên men prebiotic để sản xuất SCFA, cũng như tăng khối lượng tế bào vi khuẩn dẫn đến kích thích nhu động ruột dạ dày. Sự ảnh hưởng đến tình trạng của chứng táo bón được đánh giá qua các thử nghiệm. Trong hai nghiên cứu của cùng một nhóm tình nguyện viên là các người cao tuổi bị táo bón, khi cho họ sử dụng 10g oligofructose hàng ngày thì lượng phân thải ra tăng đáng kể lên từ 32.4g/ngày lên đến 69g/ngày, trong cuộc điều tra khác dùng isomalto-oligosacchride thì tăng 70% trong lượng phân. Gibson năm 1995 đã chứng minh khi cho sử dụng 15g FOS thì phân tăng từ 136g/ngày lên đến 154g/ngày được thực hiện trong một nhóm nhỏ đối tượng (n = 8). Tuy nhiên điều này là tương phản với các nguyên cứu khác bởi lẽ con số trên nó không biểu thị bất kỳ sự tăng lượng phân khi các tình nguyện viên sử dụng galacto-oligosaccharide. Prebiotic trong các cuộc nghiên cứu cho đến nay người ta đã chứng minh nó ít ảnh hưởng đến chứng táo bón, và tăng nhẹ tính nhuận tràng. Các sai số kết quả có thể do khó khăn trong việc đo sản lượng phân hằng ngày trong khi sử dụng phương pháp đo lượng táo bón chủ yếu là chất lượng và thói quen của việc ăn uống.[1]
2.7.3. Các bệnh truyền nhiễm và tiêu chảy có liên quan đến khánh sinh
Đã có một số nghiên cứu trên cơ thể động vật là khi chúng sử dụng prebiotic thì nó giúp ngăn chặn sự xâm nhiễm của các vi sinh vật gây bệnh, ức chế Salmonella typhimurium có trong ruột và làm giảm mật độ của các tác nhân gây bệnh trong các phiên bản bị lỗi. Do đó mặc nhiên công nhận prebiotic làm giảm nơi cư trú cho vi khuẩn gây bệnh bám vào, do tăng số lượng bifodobacteria trong ruột và các prebiotic khi vào cơ thể trực tiếp ngăn chặn các liên kết kết dính với biểu mô của tế bào gây bệnh, nó hoạt tương tự như hình cụ thể (hình 2.2). Điều này đã được dịch trong cuốn nghiên cứu về công tác phòng chống tiêu chảy cho con người của DBRCT 1. Trong đó việc thống kê không rõ ràng với tần suất ( P = 0.08) thì nhóm thì nhóm sử dụng prebiotic (11.2%), so với các ta dược khác ( 19.5%)(Cummings năm 2001). Một cuộc nghiên cứu lớn được thực hiện ở trẻ em peru để đánh giá tần suất và mức độ nghiêm trong của bệnh tiêu chảy trong một DBRCT có sử dụng bổ sung prebiotic, và không tìm thấy lợi ích nào của nhóm prebiotic trong việc phòng ngừa tiêu. Một lý do cho sự thất bại trong quá trình chứng minh này là do bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ, mà bản thân sữa mẹ có chứa hàm lượng cao prebiotic.[1]
Hình 2.2: Cơ chế hoạt động chống lại mầm bệnh
Các Clostridium difficile gây bệnh nhiễm trùng là mối quan tâm lớn và việc nghiên cứu phòng ngừa tiêu chảy liên quan đến kháng sinh (AAD) đã được phát hiện là prebiotic làm giảm các giai đoạn tiêu chảy do sử dụng kháng sinh và do C.difficile. Những điều tra đã bị phản đối. Tuy nhiên kết quả thật là thú vị khi phát hiện ra khả năng có thể ngăn ngừa tái phát bệnh tiểu học và chắc chắn sẽ dẫn đến những cuộc thử nghiệm khác về bệnh này.[1]
2.7.4. Bệnh viêm ruột
Bệnh viêm ruột (IBD) chẳng hạn như bệnh viêm loét đại tràng và bệnh Crohn là các rối loạn đa nhân tố liên quan đến mức độ giảm của bifidobacteri, và tăng putatively là do các vi khuẩn như E.coli và peptostreptococci. Hệ thống miễn dịch trong niêm mạc ruột được duy trì chặt chẽ và tạo nên sự cân bằng ở trong nêm mạc ruột trẻ ở tháng thứ 1 và tháng thứ 2. Khi trẻ bị viêm ruột hệ thống miễn dịch này được kích hoạt nhưng không thể chống chịu lại các tác nhân gây hại. Vì vậy, khi trẻ bị viêm ruột thì prebiotic hoạt động là tăng bifidobacteria, cũng như tăng khả năng miễn dịch của trẻ ở tháng thứ 1 và tháng thứ 2.[1]
Các nghiên cứu trên động vật khi cho sử dụng prebiotic bằng cách cho sử dụng inulin, FOS, GOS đã cho kết quả cải thiện được mức độ viêm niêm mạc. Nó giúp giảm giảm viêm, TNF-α, myeloperoxidase (chỉ số đánh giá mức độ xâm nhập của vi sinh vật gây viêm), leukotriene B4, IL-1β, B2 thromboxane và prostaglanding E2 ( P < 0.05, Videla năm 2001), giảm độ pH ( P < 0.001), tăng lactate trong phân ( P = 0.02) và nồng độ butyrate ( P < 0.001, và tăng lactobacilli bà bifidobacteria. Prebiotic cũng được nghiên cứu chứng minh rằng giúp cải thiện mô bao gồm việc giảm mức độ thiệt hại nghiêm trong về crypt, và tăng caecal butyrate, sự suy giảm NFkB trong kích hoạt, IL-6 trong huyết thanh và b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 2.doc