Tiểu luận Ảnh hưởng của truyền thông tới việc xây dựng Nhà nước pháp quyền

I, PHẦN MỞ ĐẦU: 1

1.1, Tính cấp thiết của vấn đề: 1

1.2, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: 2

II, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN: 2

2.1, Khái niệm nhà nước pháp quyền: 3

2.2, Khái niệm truyền thông: 5

III, VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN: 6

3.1, Vai trò tích cực: 6

3.2, Vai trò tiêu cực: 11

IV, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN: 13

V, Kết luận: 14

VI, Các nguồn tài liệu tham khảo: 15

 

docx18 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/02/2022 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của truyền thông tới việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42 Nhà nước pháp quyền là Nhà nước tuân theo pháp luật, xem pháp luật có vị trí chi phối mọi hành vi của cơ quan công quyền và công dân. Dẫn theo Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật, Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập I, NXB Lí luận chính trị, trang 107 Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức Nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học,NXB Lí luận chính trị, trang 497. Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị – pháp lý phức tạp, được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu Nhà nước pháp quyền theo một cách đơn giản, đó là một Nhà nước quản lí kinh tế xã hội bằng pháp luật và Nhà nước họat động tuân theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng pháp luật trước hết là các cơ quan Nhà nước và công chức Nhà nước. Trần Thị Cúc-Nguyễn Thị Phượng, 2007, Câu hỏi và hướng dẫn trả lời môn Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư Pháp, trang 113,114. Khái niệm Nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức , xây dựng và vận hành bộ máy Nhà nước nói chung thông qua hệ thống pháp luật như Hiên pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo, bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ của pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nguyễn Văn Hiện, Một số vấn đề về Nhà nước pháp quyền ở nước ta Qua các khái niệm trên, chúng ta thấy rằng dù có rất nhiều quan điểm khác nhau về Nhà nước pháp quyền nhưng giữa các khái niệm đó vần có sự giống nhau về nội hàm của nó. Về cơ bản, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đề cao của pháp luật, đòi hỏi chính Nhà nước cũng phải đặt dưới pháp luật và Nhà nước đó đòi hỏi đảm bảo được quyền, lợi ích cơ bản của công dân. Nói chung là phải đảm bảo dân chủ. Từ đó, ta có thể khẳng định địa vị tối cao của pháp luật và dân chủ chính là hai thuộc tính cơ bản, bản chất của Nhà nước pháp quyền. Mà khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, dựa vào hai thuộc tính cơ bản của Nhà nước pháp quyền mà tác giả đã nêu ở trên, chúng ta có một khái niệm về Nhà nước pháp quyền rất ngắn gọn như sau : “Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thượng tôn pháp luật và bảo đảm dân chủ”. Trong khái niệm này, để hiểu rõ về nội hàm của nó cần hiểu rõ hai cụm từ “thượng tôn pháp luật” và “dân chủ”. “Thượng tôn pháp luật” tức là pháp luật phải được đặt ở vị trí tối cao, lên trên hết, điều chỉnh tất cả các hành vi xử sự mọi cá nhân, tổ chức.Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lí cao nhất mà các văn bản pháp luật khác không được phép trái với nội dung và tinh thần của nó. Và Nhà nước, mặc dù làm ra pháp luật nhưng cũng phải ở dưới pháp luật. Sở dĩ như vậy là vì pháp luật của Nhà nước suy cho cùng thì đó là pháp luật của nhân dân, Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lợi của nhân dân mà sọan ra pháp luật. Để quản lí tốt mọi mặt của xã hội thì pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh, không kể bất kì ai. Nếu Nhà nước không tuân thủ pháp luật thì chắc chắn nhân dân sẽ mất lòng tin vào chế độ và đi đến xóa bỏ Nhà nước đó. Nhân dân có quyền xóa bỏ Nhà nước khi Nhà nước không còn đại diện cho ý chung của toàn dân nữa vì trong Nhà nước pháp quyền nhân dân mới là người chủ thật sự của quyền lực Nhà nước. Điều này liên quan mật thiết đến nhân tố thứ hai trong nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền nói trên. Đó là “đảm bảo dân chủ”. Dân chủ ở được hiểu đơn giản là “nhân dân là chủ”, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. “Đảm bảo dân chủ” tức là nhà nước phải đảm bảo các quyền cơ bản nhất của công dân, đó là “quyền tự nhiên”, quyền tạo hóa ban cho họ, chẳng hạn như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, và Nhà nước phải bảo đảm nhân dân là chủ, quyền lực Nhà nước thuôc về nhân dân. Để đảm bảo dân chủ thì Nhà nước phải có những cách thức, phương thức hợp lí trong cách thức tổ chức quyền lực, hoạt động của bộ máy Nhà nước, đảm bảo pháp luật phải dân chủ, công bằng. Ví dụ : Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.’’ – Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc vì: + Nhà nước ta lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. + Do nhân dân lập nên thông qua tổng tuyển cử toàn dân, dưới sự kiểm soát của nhân dân, mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân ủy quyền + Trong tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ; có sự thống nhất hữu cơ giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội. + Mọi chủ trương, chính sách của nhà ước đều thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân 2.2, Khái niệm truyền thông: Truyền thông là hiện tượng xã hội phổ biến, ra đời, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tác động và liên quan đến mọi con người xã hội. Do đó, hiện tượng này có rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau, tuỳ theo góc nhìn đối với truyền thông. Một số nhà lý luận về truyền thông cho rằng truyền thông chính là quá trình trao đổi tư duy hoặc ý tưởng thông qua ngôn ngữ. Một số ý kiến khác cho rằng truyền thông là quá trình liên tục, qua đó chúng ta hiểu được người khác và làm cho người khác hiểu được chúng ta. Đó là một quá trình luôn thay đổi, biến chuyển và ứng phó với tình huống. Theo quan niệm của Dean C. Barnlund - một nhà nghiên cứu truyền thông người Anh cho rằng truyền thông là quá trình liên tục nhằm làm giảm độ không rõ ràng để có thể có hành vi hiệu quả hơn. Frank Dance - Giáo sư về truyền thông học người Mỹ lại quan niệm truyền thông là quá trình làm cho cái trước đây là độc quyền của một hoặc vài người trở thành cái chung của hai hoặc nhiều người. Theo quan niệm này, quá trình truyền thông có thể làm gia tăng tính độc quyền, hoặc phá vỡ tính độc quyền. Ngoài ra, có thể dẫn ra hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về truyền thông. Mỗi định nghĩa, quan niệm đều có những khía cạnh hợp lý riêng. Tuy nhiên, các định nghĩa, quan niệm khác nhau này vẫn có những điểm chung, với những nét tương đồng rất cơ bản; mỗi người có bình luận riêng của mình về mỗi quan niệm trên đây. Truyền thông có gốc từ tiếng Latinh là “Communicare”, nghĩa là truyền tải, giao tiếp. Truyền thông thường được hiểu là việc truyền đạt thông tin, suy nghĩ, ý kiến, tri thức từ một hoặc nhiều người sang những người khác thông qua ngôn ngữ lời nói, hình vẽ, chữ viết hoặc một hành động giao tiếp nào đó. Như vậy, truyền thông có thể hiểu là quá trình trao đổi, chia sẻ thông tin, suy nghĩ giữa các cộng đồng người với nhau, giữa cá nhân với nhau nhằm phát triển hiểu biết, kiến thức, kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày, trong hoạt động nhằm mục đích thay đổi ý thức, nhận thức của cá nhân, cộng đồng, tổ chức đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. III, VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN: 3.1, Vai trò tích cực: Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư kéo theo sự phát triển của hệ thống truyền thông mới đã làm thay đổi mạnh mẽ quyền giám sát của công dân từ khả năng giám sát, tốc độ giám sát, phạm vi giám sát và khả năng kiểm tra việc xử lý kết quả giám sát, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước. Điều đó cho thấy truyền thông đang khẳng định vai trò và vị thế của mình với tư cách là công cụ hỗ trợ người dân thực hiện quyền giám sát và kiểm soát quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông có vai trò đến đâu trong hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước tùy thuộc vào vị trí của thiết chế đó trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước. Với cơ chế tự do, dân chủ như ở Việt Nam hiện nay, việc sử dụng truyền thông vào quá trình giám sát, kiểm soát quyền lực Nhà nước của công dân có thể được xem là một hướng đi đúng đắn và tất yếu đối với cả công dân và Nhà nước để hoạt động kiểm soát phổ biến hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước năm 1986, Đảng ta đã xác định truyền thông có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần làm mạnh hóa đời sống xã hội nói chung và kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay được trợ lực bởi một hệ thống truyền thông đồ sộ, bao gồm: 859 tờ báo, tạp chí in, trong đó có 199 báo, 660 tạp chí; 135 báo, tạp chí điện tử; 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 2 đài quốc gia là Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam, 1 đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC và 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương. Toàn bộ hệ thống truyền thông trên là cơ quan của các tổ chức đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, chịu sự quản lý chặt chẽ của Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin - Truyền thông. Trong thời gian qua, hệ thống truyền thông đã thông tin tuyên truyền kịp thời, trung thực, toàn diện đời sống chính trị, là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước. Báo chí đã đưa chủ trương của Đảng, Nhà nước tới gần hơn với nhân dân, tham gia giám sát, phản biện, theo dõi quá trình xử lý các vụ việc; phát hiện những hạn chế, bất cập của thể chế pháp luật, cơ chế chính sách; phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đặc biệt ,truyền thông đã nêu bật, khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước "không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai" trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hơn 70% số các vụ tham nhũng chủ yếu là do nhân dân và các cơ quan báo đài phát hiện, trong cuộc thi “Báo chí với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” năm 2019 có tới 1.046 tác phẩm dự thi, trong đó có 1.002 tác phẩm của 4 thể loại: báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình của trên 100 cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương. Nhiều phóng sự truyền hình, phát thanh, bài chuyên luận, phóng sự trên báo in, báo điện tử công phu từ 3-5 kỳ, tập trung vào phản ánh các vụ án tham nhũng; công tác cải cách bộ máy hành chính; phòng chống tham nhũng, lãng phí. Điển hình như: Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Lao động, Thanh niên, Tuổi trẻ, Công an nhân dân, Tiền phong, Pháp luật TP . Hồ Chí Minh.  35 tác phẩm đoạt giải báo chí về chống tham nhũng, lãng phí Những phương tiện truyền thông kể trong đã đóng những vai trò rất tích cực trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền: Thứ nhất, truyền thông cung cấp thông tin hoạt động của các cơ quan nhà nước, là một biện pháp để công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước trước nhân dân. Để kiểm soát quyền lực, người dân cần nắm được thông tin hoạt động của Nhà nước, chỉ khi biết Nhà nước đã làm gì, làm như thế nào người dân mới có thể đánh giá được hành vi của các chủ thể thực thi quyền lực Nhà nước. Truyền thông là cầu nối giữa chính quyền, Đảng lãnh đạo, tổ chức chính trị - xã hội với nhau và với công dân, qua đó hình thành các “tam giác thông tin”, trong đó, truyền thông vừa cung cấp và tiếp nhận thông tin, vừa thiết lập mối liên hệ giữa các chủ thể. Nội dung thông tin mà truyền thông cung cấp rất đa dạng và phong phú, phần lớn đáp ứng được nhu cầu về thông tin của công chúng, các thông tin bao gồm: những hoạt động diễn ra hằng ngày của Chính phủ; các chủ trương, đường lối, chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị của đất nước. Bên cạnh đó, truyền thông còn công khai cả những hoạt động bị “che giấu”. Rất nhiều thông tin về hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, hành vi tham ô được báo chí, truyền thông đề cập và sau đó Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng, các địa phương phải vào cuộc xác minh, điều tra, xử lý nghiêm như: vụ “Sai phạm lớn tại Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam: Đốt tiền vào công ty sân sau” của Báo Thanh niên, số 307 ra ngày 03/11/2017; loạt 4 bài: “Kết quả thanh tra về đất đai tại huyện Sóc Sơn” (Báo Kinh tế - Đô thị). Cho tới các đại án kinh tế xảy ra tại Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại dương (OceanBank), Ngân hàng Công Thương (VietinBank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank). Truyền thông cũng đóng vai trò rất  lớn đối với chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ khi đưa tin những vụ bổ nhiệm cán bộ “thần tốc”: Lê Phước Hoài Bảo, Trần Vũ Quỳnh Anh, Vũ Minh Hoàng, Huỳnh Thanh Phong, Việc đưa tin kịp thời các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm đã giúp người dân có thông tin kịp thời, tránh sự hiểu lầm, bưng bít sự việc, tạo niềm tin cho người dân vào công lý, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Thực tế cho thấy, với đặc tính có khả năng xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, những hoạt động điều tra nghiêm túc của truyền thông làm cho những thông tin cần thiết, có ý nghĩa quốc gia hoặc có tầm quan trọng đặc biệt đối với người dân bị che giấu trở nên công khai, minh bạch, nhiều vụ tiêu cực lớn, dù thủ đoạn, hành vi tham nhũng có tinh vi, phức tạp, nhưng cũng đã được nhân dân và báo chí lật tẩy. Thứ hai, hình thành dư luận xã hội. Các lý thuyết truyền thông đều chỉ ra vai trò của truyền thông đối với sự hình thành dư luận xã hội. K.Marx cũng đã nhận định rằng “Sản phẩm của truyền thông là dư luận xã hội” Mai Quỳnh Nam, Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp chí Xã hội học số 1, 1996. . Vai trò kiểm soát của truyền thông chủ yếu dựa trên sức mạnh dư luận xã hội mà chính nó đại diện. Từ dư luận xã hội sẽ dẫn đến hành vi xã hội rộng lớn, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết các vấn đề chính trị, từ đó tạo ra một sức mạnh vô hình đặt giới hạn với những gì chính phủ có thể làm. Đối với người dân, dư luận xã hội là cách thức để người dân tham gia lãnh đạo, quản lý xã hội, giám sát và kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Nhờ thông qua việc định hướng được tư tưởng, dư luận xã hội mà công chúng có cái nhìn khách quan hơn, toàn diện hơn về hoạt động của Nhà nước, hành vi của chủ thể có thẩm quyền, để từ đó có những phản hồi ngược lại với Nhà nước. Nhìn chung, các luồng dư luận thường theo ba xu hướng là “ủng hộ”, “phản đối” và “không rõ” hoặc “thích”, “không thích” và “không trả lời” về một chính sách, quyết định nào đó của cơ quan Nhà nước hoặc hành vi của chủ thể có thẩm quyền trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Thứ ba, truyền thông đóng vai trò quan trọng trong giám sát và phản biện xã hội. Giám sát và phản biện xã hội được xem là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của truyền thông, nhất là báo chí. Giám sát xã hội của báo chí – truyền thông là giám sát chủ yếu bằng tai mắt của nhân dân, giám sát bằng dư luận xã hội, đó là quá trình giám sát mọi nơi, mọi lúc. Được ví như người hoa tiêu trên con tàu, thay mặt nhân dân, truyền thông tiến hành theo dõi, phát hiện, phản ánh trung thực và cảnh báo những sai lầm trong các quyết sách, hành vi vượt quá giới hạn của các cơ quan công quyền, các công chức, viên chức cơ quan hành chính nhà nước, từ đó góp phần điều chỉnh và hoàn thiện dần hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện chức năng của “tòa án công luận”, nhằm hạn chế, kiểm soát việc lạm dụng quyền lực. Chính vì thế, chức năng giám sát và phản biện xã hội của truyền thông ở các nước phương Tây được đề cao với đầy đủ hành lang pháp lý. Ở Việt Nam, chức năng này cũng được ghi nhận đầy đủ trong các văn kiện của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức ghi nhận, yêu cầu báo chí cách mạng Việt Nam đảm nhận vai trò, nhiệm vụ phản biện xã hội. Nghị quyết Đại hội nêu rõ: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước...”. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. H. 2011, tr 225 Bên cạnh những vai trò trên, truyền thông còn tham gia vào những hoạt động của Đảng và Nhà nước: Truyền thông với hoạt động lập pháp Vũ Tuấn Hà, Truyền thông đại chúng đối với hoạt động của Quốc hội, truy cập ngày 10/12/2020 : Lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng nhất của Quốc hội. Hoạt động này là quy trình làm luật; trong đó, gồm các bước như soạn thảo, thẩm tra, thông qua và công bố luật. Đáng chú ý, giai đoạn nào cũng có dấu ấn của truyền thông. Việc soạn thảo dự thảo luật là bước đầu tiên trong quy trình xây dựng luật và có ý nghĩa quan trọng. Đây là giai đoạn xác định tính chất, nội dung, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của dự án luật. Khi bàn bạc về dự thảo Hiến pháp năm 2013, các thế lực thù địch luôn sử dụng luận điệu sai trái để phủ nhận vai trò của Đảng, nhằm gây hoang mang dư luận. Nhưng, với chức năng định hướng dư luận xã hội, truyền thông đã tạo dựng sự đồng thuận cao trong nhận thức của nhân dân về giá trị, vai trò của Điều 4 Hiến pháp đối với vận mệnh của đất nước và nhân dân. Việc tham gia của truyền thông ngay từ giai đoạn đầu khi soạn thảo chương trình luật có ý nghĩa quan trọng trong quản lý xã hội nói chung và với hoạt động lập pháp của Quốc hội nói riêng. Truyền thông có thể tác động vào ý thức xã hội để xác lập và củng cố hệ thống tư tưởng chính trị thống nhất, qua đó, liên kết các thành viên rời rạc thành một khối đoàn kết. Cách thức để định hướng dư luận xã hội về các vấn đề trong văn bản pháp luật cần thông qua phân tích, diễn giải của các chuyên gia. Truyền thông cũng cần khai thác thông tin đa chiều để bảo đảm tính trung thực, khách quan và đúng đắn của thông tin. Bởi mục đích cuối cùng của truyền thông là nhằm hình thành và sửa đổi các luật một cách hợp lý và phù hợp. Nhờ đó, luật mới có thể dễ dàng được chấp nhận và đi vào cuộc sống của nhân dân. Giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân về quy trình xây dựng luật có ý nghĩa quan trọng, vừa để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào các giai đoạn xây dựng luật; đồng thời, giúp nhân dân có nhận thức đúng đắn và có tình cảm với văn bản pháp luật khi được ban hành. Việc đưa ý kiến của các nhà soạn thảo dự thảo đến nhân dân và huy động cá nhân, nhóm người cùng tham gia tìm hiểu quy trình và thảo luận, không chỉ giúp người dân hiểu biết quy trình, thủ tục xây dựng văn bản pháp luật, mà còn là cách để nhân dân thể hiện ý kiến cá nhân vào quy trình này. Truyền thông không chỉ giúp nhân dân có ý thức pháp luật tốt hơn mà còn khiến mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri có được tiếng nói chung trong hành động lập pháp. Truyền thông với hoạt động giám sát của Quốc hội Vũ Tuấn Hà, Truyền thông đại chúng đối với hoạt động của Quốc hội, truy cập ngày 10/12/2020 : Thông tin trên truyền thông có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giám sát của Quốc hội, bởi thông tin từ truyền thông là cơ sở giúp Quốc hội xác định vấn đề nổi cộm từ thực tế cần kiểm tra, giám sát, từ đó, lập kế hoạch, chương trình hành động và các quyết định phân công nhiệm vụ, đồng thời cũng giúp Đại biểu Quốc hội tự tin hơn, chủ động hơn khi “bấm nút” tại nghị trường. 3.2, Vai trò tiêu cực: Truyền thông hiện đại coi trọng tính tương tác hai chiều giữa chủ thể truyền thông và đối tượng công chúng của họ. Đó là đặc trưng nổi bật nhất trong kỷ nguyên công nghệ số và mạng xã hội, nơi mà phương thức tuyên truyền một chiều dần trở nên kém tác dụng. Đây cũng chính là xu thế buộc các cơ quan quản lý nhà nước, các quan chức cao cấp thay đổi cách nhìn về truyền thông, bắt đầu sử dụng các mạng xã hội như một kênh thông tin quan trọng. Cùng với sự phát triển của mạng xã hội và công nghệ viễn thông di động, phương thức chuyển tải thông tin và tiếp nhận thông tin cũng hoàn toàn thay đổi. Giờ đây, mỗi cá nhân đều có thể tham gia vào thế giới truyền thông, vừa là công chúng của truyền thông nhưng đồng thời có thể là chủ thể truyền thông. Trước đây, với phương thức truyền thông cũ, các tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan quản lý hầu như áp đặt thông tin lên công chúng, và việc tiếp nhận phản hồi đòi hỏi một thời gian nhất định. Ngày nay, việc gửi thông tin, nhận thông tin và phản hồi gần như diễn ra đồng thời, ngay lập tức, nhờ sự ưu việt của công nghệ thông tin và tốc độ viễn thông di động. Điều đó có nghĩa là, nếu không kịp thời lắng nghe, đón nhận phản hồi, thì tác động tiêu cực là không tránh khỏi. Đối với cơ quan quản lý, các ý kiến, yêu cầu, kiến nghị của người dân, nếu không kịp xử lý, có nguy cơ chuyển biến thành những bức xúc xã hội ngoài tầm kiểm soát. Thêm vào đó, bên cạnh những mặt tích cực, việc sử dụng truyền thông trong kiểm soát quyền lực nhà nước vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế : Quyền lực của báo chí, truyền thông tuy vô hình, bất thành văn, nhưng lại có sức mạnh rất lớn nên không khỏi có những nhà báo lạm dụng quyền lực này, nhất là trong lĩnh vực chính trị. Nhiều vụ việc phản biện của báo chí, truyền thông đưa tin chưa đúng sự thật, một số tờ báo đã đi quá xa trong việc “đào bới” thông tin, đăng tải tin tức khi chưa được kiểm chứng. Các thông tin sai lệch hoặc bóp méo sự thật về đời sống chính trị, hay các chính trị gia đã gây ra những tổn thất đối với lợi ích cá nhân, tổn hại khôn lường đối với xã hội, và hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Nghiêm trọng hơn, sự phát triển nở rộ và thịnh hành của truyền thông mới nói chung và mạng xã hội nói riêng như Facebook, Twitter, Instagram, Youtube, vô hình chung trở thành công cụ đắc lực giúp cá nhân, các thế lực thù địch, chống phá được tự do đưa lên mạng các thông tin không được kiểm soát, rồi tin xấu, tin độc hại, bôi nhọ, bịa đặt, núp bóng phản biện xã hội. Điều này gây không ít phiền toái cho nhà quản lý, cũng như gây hoang mang dư luận, làm nảy sinh các nguy cơ đối với an ninh, chính trị, xã hội trong đó có việc giám sát, xây dựng Nhà nước. Chúng tấn công trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Trong truyền thông xã hội, tính ẩn danh, lạc danh của nguồn phát tin đã khiến người tham gia có thể tùy tiện phát ngôn hơn so với mặt đối mặt. Khi ẩn danh, người phát ngôn trên mạng xã hội khiến họ cảm tưởng sẽ không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về hành vi hay phát ngôn của mình. Do tính khó kiểm soát thông tin và tính năng lạc danh, ẩn danh của người tham gia mạng xã hội mà truyền thông xã hội dễ trở thành phương tiện để các thế lực xấu, thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước ta sử dụng gây rối loạn thông tin, mất trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Chúng phát tán các thông tin xấu, không đúng sự thật trên mạng xã hội  nhằm lôi kéo, kích động cộng đồng mạng tham gia các hoạt động hội họp, biểu tình không phù hợp với quy định của pháp luật, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lừa bịp, mỵ dân, gieo rắc tư tưởng không lành mạnh, gây mất niềm tin của người dân vào Đảng và Nhà nước. Trong khi đó, phần lớn người tham gia mạng xã hội là thanh niên, chưa có nhiều trải nghiệm, chưa đủ bản lĩnh để “tỉnh táo” sàng lọc thông tin nên những dạng thông tin độc hại với tốc độ phát tán, lan truyền rất nhanh, dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng sẽ làm “méo mó” nhận thức, tác động tiêu cực đến hành vi của thanh niên trên không gian mạng cũng như ngoài đời thực. Ví dụ: Chiều 7/9/2020, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết: Vừa qua, cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Công an, Hội Nhà báo Việt Nam đã tăng cường phối hợp trong công tác chỉ đạo, định hướng, rà soát, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong lĩnh vực báo chí. Cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành bốn quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi thông tin sai sự thật của bốn cơ quan báo chí. Cụ thể, Cục Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã ban hành bốn quyết định xử phạt: Báo điện tử Dân Việt thông tin sai sự thật trong bài viết "Khởi tố, bắt tạm giam ông Tất Thành Cang, cựu Phó Bí thư TP Hồ Chí Minh" (do lỗi kỹ thuật trong quá trình chuyển đổi hệ thống quản lý tin bài đã xuất bản bản tin chờ), bị phạt tiền ba triệu đồng. Báo điện tử Tổ quốc thông tin sai sự thật trong bài viết về Hội thảo khoa học "Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", bị phạt tiền 12 triệu đồng. Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam - VNExpress thông tin sai sự thật trong bài viết về Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtieu_luan_anh_huong_cua_truyen_thong_toi_viec_xay_dung_nha_n.docx
Tài liệu liên quan