Lời nói đầu 1
Chương I 2
Bản chất của Lạm phát 2
trong nền kinh tế 2
A. Lý thuyết về lạm phát 2
I. Lý thuyết lạm phát 2
1. Khái niệm về lạm phát: 2
2. Lịch sử lâu đời của lạm phát. 4
II. Những lý thuyết chủ yếu về lạm phát 5
1. Lý thuyết "Lạm phát lưu thông tiền tệ" 5
2. Lý thuyết cầu (DEMEND- PULL INFLATION). 7
3. Lý thuyết lạm phát chi phí đẩy 11
4. Luận thuyết "Lạm phát cơ cấu". 12
II- Các nguyên nhân của lạm phát. 13
1. Các loại lạm phát 13
a. Lạm phát vừa phải. 13
b. Lạm phát phi mã. 14
c. Lạm phát ở mức siêu cao (siêu lạm phát). 14
2. Quy mô và sự biến động của lạm phát. 15
3. Lạm phát không dự kiến. 16
4. Lạm phát dự kiến. 16
III. Những tác động của lạm phát với nền kinh tế suy thoái 18
1. Tác động của lạm phát 18
1.1.Phản ứng kinh tế vĩ mô. 18
1.2. Các tiêu cực của lạm phát. 18
1.3. Tác động đối với sự phân phối thu nhập của cải. 20
1.4. Tác động đối với sản lượng và công ăn việc làm. 20
2. Lợi ích của lạm phát. 21
3. Sự đánh giá về tác động lạm phát. 22
Chương II 23
THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT. 23
A- Thất nghiệp. 23
1. Khái niệm thất nghiệp. 23
2. Tác động kinh tế. 24
3. Tác động của xã hội đối với thất nghiệp. 24
4. Các loại thất nghiệp. 25
5. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp. 26
5. Đường Phillip ban đầu. 27
6. Đường Phillips dài hạn 29
Chương III 32
Các biện pháp chống lạm phát 32
1. Các chính sách thu nhập 34
2. Cải cách thể chế 35
3. Học cách sống với lạm phát 35
LỜI KẾT 39
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1927 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bản chất của lạm phát trong nền kinh tế – luận chứng tính năng tác dụng và tác hại của lạm phát khi nền kinh tế suy thoái mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Sau đây là các luận thuyết khác về lạm phát mà ta có thể nêu ra để tham khảo.
* Lạm phát giá cả: mọi sự tăng giá được coi là lạm phát giá cả. Đầu thế kỷ XX, J.P Luthesing - L.V Chandeles và D.C Clines quan niệm " bất kỳ thời kỳ nào mà giá hàng hoá tăng không kể dài hay ngắn, có tính chất chu kỳ hay đột xuất đều là thời kỳ lạm phát".
* Lạm phát tài chính tín dụng:
P.Bicaplơ cho rằng sự bội chi ngân sách, mở rộng tác dụng, bội chi tiền mặt, tăng phát hành công trái, tăng thuế và đầu tư. Có đặc trưng lạm phát vì dẫn đến tăng giá, tăng lương, tăng thuế là tăng lạm phát.
* Trên đây là hai luận thuyết về lạm phát mà các nhà kinh tế học nêu ra những quan điểm lạm phát.
II- Các nguyên nhân của lạm phát.
1. Các loại lạm phát
a. Lạm phát vừa phải.
Còn gọi là lạm phát vừa phải một con số có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm, trong trường hợp này giá cả tăng chậm, thường xấp xỉ mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút. Do vậy sự mất mát của đồng tiền không cao và tác hại của lạm phát này cũng không đáng kể. Đặc biệt giữ được lạm phát ở mức 2-3% là mong muốn của một số người, nó có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định, giá cả tương đối không khác mức bình thường nhiều, do đó nhân dân không mất thời gian tìm cách tiêu tiền bừa đi vì lãi suất thực tế không quá thấp. Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa hoặc lãi suất bằng tiền trừ tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát thấp thì đồng tiền nói chung có lãi suất danh nghĩa gần như số không.
Trong trường hợp xấu nhất cũng chỉ có lãi suất thực tế nhỏ dưới không. Do đó tiền giữ được phần lớn giá trị của nó từ năm này qua năm khác. Với loại lạm phát này người ta không sợ ký hợp đồng với những điều kiện danh nghĩa, tức là những hợp đồng không được chỉ số hoá một cách bất biến theo lạm phát. (một hợp đồng được “chỉ số hoá” khi giá cả tiền lương hoặc giá trị đồng đô la trong hợp đồng tăng giảm cùng với sự biến chuyển của một chỉ số giá cả chung). Nhưng điều không hiệu quả gắn với lạm phát vừa phải là không đáng kể.
b. Lạm phát phi mã.
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20% - 100%/năm. ở đầu một khi lạm phát phi mã trở nên vững chắc nhưng biến dạng nghiêm trọng về kinh tế nảy sinh nói chung, phần lớn các hợp đồng được chỉ số hoá theo một số giá cả hoặc ngoại tệ như đồng USD chẳng hạn. Vì nếu đồng tiền đột ngột mất giá một cách nhanh chóng như vậy lãi suất thực tế giảm xuống tới 50 hoặc 100 lần, nhân dân tránh giữ tiền nhiều hơn mức tối thiểu cần thiết, thị trường tài chính tàn lụi và những quỹ nói chung được phân bổ theo định mức chứ không theo lãi suất. Nhân dân tích trữ hàng hoá, mua nhà và không bao giờ cho vay với tiền lãi suất bình thường.
Điều đáng ngạc nhiên là những nên kinh tế với tỷ lệ lạm phát hàng năm là 200% lại phát triển rất tốt. Điển hình là nước Brazin và Ixraen đã phát triển nhanh chóng một thời gián, dữ giá cả tăng lên theo kiểu phi mã.
c. Lạm phát ở mức siêu cao (siêu lạm phát).
Trong khi các nền kinh tế có vẻ vẫn còn sống sót và một số có vẻ phồn thịnh với lạm phát phi mã thì một loại thứ ba nghiêm trọng chết người xảy ra, bệnh ung thư siêu lạm phát tấn công, loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng lên với con số hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng triệu phần trăm một năm.
Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ đối với nền kinh tế bởi vì nó làm cho giá cả không ổn định, tiền lương thực tế biến động và thường giảm mạnh cùng sự mất giá của tiền tệ, mọi người có tiền đều bị tước đoạt và tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn. Hầu hết các yếu tố của thị trường đều bị biến dạng và bóp méo hoặc thổi phồng, hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng hổn loạn.
Cuộc siêu lạm phát có nhiều tư liệu ghi lại một cách cẩn thận nhất xảy ra ở cộng hoà Đức. Còn đối với những nhà nghiên cứu lạm phát, siêu lạm phát đặc biệt lý thú vì nó cho thấy rõ tác động của lạm phát. Bệnh lý học soi sáng giải phẩu học, giống như chúng ta cho chuột ăn những liều cao về các chất với hy vọng có thể hiểu được tác động của những liều nhẹ hơn đối với con người, chúng ta quan sát siêu lạm phát vì ánh sáng mà nó rọi vào những loại lạm phát.
Ba loại lạm phát
Vừa phải
Phi mã
Siêu lạm phát
Hình 4: Lạm phát có nhiều loại đôi khi lại quấy rầy, lúc khác gây tai hại
Hình trên cho thấy có ba loại lạm phát, lạm phát vừa phải là điển hình ngày nay. Trong phần lớn những nước công nghiệp hoá lạm phát phi mã như trường hợp ở ý những năm 1970 hoặc nhiều nước Nam Mỹ lạm phát tăng từ năm này sang năm khác nhưng dường như không gây bùng nổ. Siêu lạm phát xảy ra khi tiền giấy được in ra làm cho giá cả tăng lên một nghìn, một triệu, một ngàn tỷ phần trăm một năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài và thường dẫn đến cải cách tiền tệ hoặc sự sụp đổ kinh tế lớn.
2. Quy mô và sự biến động của lạm phát.
Lạm phát cao là lạm phát biến đổi, điều đó có nghĩa là những nước có mức lạm phát bình quân cao cũng có xu hướng có tỷ lệ lạm phát tha đổi lớn từ năm này qua năm khác.
Nừu một nước quyết định theo đuổi chính sách tiền tệ gây lạm phát cao, nó sẽ phải chấp nhận tình trạng lạm phát có nhiều biến động lớn vì những lý do chúng ta đã thảo luận ở trên, lạm phát biến động mạnh làm tăng tính bất trắc đối với cả người cho vay và đi vay bằng cách buộc họ phải phụ thuộc vào sự phân phối lại của cải một cách độc đoán trên quy mô lớn.
3. Lạm phát không dự kiến.
Lạm phát không dự kiến có tác động nguy hại hơn so với bất kỳ tổn thất nào của lạm phát ổn định được dự kiến từ trước, nó phân phối lại của cải cá nhân một cách độc đoán. Điều này có thể nhận thấy khi cho vay dài hạn. Các khế ước vay thường quy định rõ mức lãi suất danh nghĩa dựa trên cơ sở lạm phát dự kiến.
Nếu lạm phát khác xa mức dự kiến thì lợi tức thực tế thực hiện mà người vay trả cho người vay khác mức mà hai bên dự kiến trước.
Nếu lạm phát cao hơn mức dự kiến, người vay sẽ được lợi và người cho vay bị thiệt, vì người đi vay trả nợ bằng đồng đô la ít giá trị hơn. Ngược lại nếu lạm phát mức hơn mức dự kiến người cho vay sẽ được lợi và người đi vay bị thiệt vì khoản tiền phải trả có giá trị cao hơn so với mức hai bên dự kiến.
VD: Một người vay dưới hình thức cầm cố vào năm 1960, lãi suất đối với những khoản vay trong thời gian đó là 30 năm, 6%/năm. Mức lãi suất này dựa trên tỷ lệ lạm phát dự kiến thấp – lạm phát bình quân10 năm trước là 2,5%. Người cho vay có thể đã dự kiến thực tế là 3,5% và người đi vay phải trả mức dự kiến thực tế này. Trên tỷ lệ lạm phát bình quân ở mức 5% trong thời gian vay cẩm cố do đó lãi suất thực tế chỉ là 1%, mức lạm phát không dự kiến làm lợi cho người vay ở mức người cho vay bị thua thiệt. Lạm phát không dự kiến còn làm tổn hại người nhận lương hưu cố định, công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh nghĩa khi công nhân về hưu vì lương hưu là khoản thu nhập trả sau, thực ra công nhân đã cho các doanh nghiệp vay, công nhân cung cấp dịch vụ lao động cho doanh nghiệp nhưng không nhận được đủ thu nhập trước khi về già. Giống như bất kỳ người cho vay nào, công nhân bị thiệt khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến.
4. Lạm phát dự kiến.
Giả sử giá cả tăng lên 1%, loại lạm phát ổn định biết được trước 12%/năm thì gây ra những tổn thất gì cho xã hội.
- Tác dụng gây biến dạng thuế lạm phát đánh vào số tiền mà một người đang giữ vì tỷ lệ lạm phát cao hơn dẫn tới lãi suất danh nghĩa cao hơn do đó làm giảm số tiền giữ thực tế. Nếu họ giữ tiền tệ thấp thấp hơn thì họ cần đến ngân hàng để rút tiền. Sự ít tiền đó tạo ra chi phí gọi là “chi phí mòn giầy” của lạm phát vì việc đến ngân hàng nhiều làm cho giầy của họ mòn đi.
- Khi sinh ra lạm phát cao buộc các doanh nghiệp phải thay đổi giá cả thường xuyên hơn và việc thay đổi giá luôn luôn tốn kém vì phải lo in ấn, phát hành và những tổn thất trên được gọi là chi phí thực đơn và lạm phát càng cao thì chi phí càng lớn.
- Khi lạm phát cao do các doanh nghiệp tránh điều chỉnh giá cả thường xuyên khi chịu phải chi phí thực đơn vì vậy lạm phát càng cao thì biến động giá cả càng lớn và lạm phát này gây ra sự thay đổi trong giá tương đối. Vì nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để phân bố nguồn lực một cách hiệu quả nên lạm phát dẫn đến kém hiệu quả tính theo góc độ vi mô.
- Lạm phát do luật thuế gây ra. Nhiều điều khoản của luật thuế không tính đến tác động của lạm phát. Lạm phát không thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân, thường trái ý định của người làm luật.
- Lạm phát là sự bất tiện của cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường luôn luôn thay đổi. Tiền là thước đo mà chúng ta dựa vào để tính toán các giao dịch kinh tế khi có lạm phát thì cái thước này co giản và tình hình của nó như đo đơn vị chiều dài. Để so sánh độ dài đo được qua các năm người ta cần phải điều chỉnh “lạm phát”.
5. Lạm phát không cân bằng: những sự biến dạng của lạm phát.
Vấn đề đặt ra cho một số thể chế không thể điều chỉnh hoặc không dễ dàng điều chỉnh cho phù hợp với lạm phát.
Tiền và thuế là hai tiêu thức đánh giá quan trọng nhất. Tiền tệ là một hình thức không lợi tức, những ngân phiếu có lãi suất do luật quy định. Do đó nếu lạm phát đi từ số 0 đến 10% thì lãi suất thực tế đối với tiền tệ là số 0 đến 10%.
Thuế: những tác động thực tế khác nữa của lạm phát không cân bằng và có dự đoán trước lại có ý nghĩa hơn. Một tác động xảy ra thông qua hệ thống thuế. Nếu một hệ thống thuế tăng dần tỷ lệ lạm phát cao sẽ đẩy người ta sang nhóm đóng thuế cao và một số nước phải “chỉ số hoá” luật thuế của họ đối với lạm phát.
Những tác động khác tế nhị hơn. Trong những nền công nghiệp được điều tiết để xin phép thay đổi giá cả của họ kết quả giá cả phải điều tiết thường giảm đi trong những thời kỳ lạm phát.
Lạm phát phá huỷ thông tin nhiều nhà kinh tế nhấn mạnh rằng giá cả bao hàm một lượng thông tin có giá trị đối với người tiêu dùng tuy nhiên lạm phát phá huỷ thông tin trong tình hình lạm phát phát triển cao biểu giá thường xuyên bị thay đổi.Vì vậy nhiều người tiêu dùng không biết mua chỗ nào rẻ chỗ nào đắt dẫn đến nguy hiểm cho người tiêu dùng.
III. Những tác động của lạm phát với nền kinh tế suy thoái
1. Tác động của lạm phát
1.1.Phản ứng kinh tế vĩ mô.
Những bất kể tác hại thực tế hoặc thấy được của lạm phát ra sao, các nước ngày nay sẻ không dung thứ tỷ lệ lạm phát cao trong một thời gian dài. Sớm muộn họ sẽ thực hiện những biện pháp thích ứng để giảm lạm phát bằng cách giảm sản lượng thực tế và tăng thất nghiệp hoặc kiểm soát giá cả và tiền lương. Kết quả của nó dẫn đến là một thời kỳ suy thoái trì trệ kinh tế, công nhân bị giãn việc, giờ làm việc ngắn và ít công việc hơn. Như vậy những quyết định của Chính phủ hạn chế lạm phát là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng đình trệ lâu dài.
Do vậy bất kể những nhà kinh tế có thể kết luận như thế nào về tác hại kinh tế vĩ mô khác của lạm phát. Phản ứng chính sách tiền tệ – và tài chính trong một nước dân chủ phải được coi như một tác hại của lạm phát. Và những phản ứng đó thường nhằm hạn chế lạm phát bằng thất nghiệp cao và GND phát triển thấp.
1.2. Các tiêu cực của lạm phát.
Tác hại của lạm phát tỷ lệ thuận với tốc độ lạm phát, với mứcđộ các tiến triển không dự đoán trước và vượt ra khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của Chính phủ lạm phát phi mã và siêu lạm phát là tai hoạ khủng khiếp cho đời sống kinh tế – xã hội của một quốc gia.
Nhìn chung lạm phát có thể gây ra những tiêu cực.
- Vì làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền tệ nên lạm phát xuyên tạc, bóp méo làm biến dạng của giá cả, yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội đặc biệt là các hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tiến hành được và vai trò điều tiết của Chính phủ về nền kinh tế thông qua tiền tệ cũng bị suy giảm thậm chí bị vô hiệu hoá, do mức thuế trở nên vô nghĩa với tốc độ tăng lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát.
- Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, hành vi đầu tư do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận.
Lạm phát kìm hãm các đầu tư dài hạn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kích thích đầu tư ngắn hạn thường là vào các tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. Các nhà kinh doanh chi phí nhiều nổ lực vào hoạt động dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn ngừa bất ổn kéo theo.
- Làm suy yếu, phá vỡ thị trường vốn và tín dụng.
Sự bất ổn định giá cả trong tương lai sẽ làm suy giảm lòng tin. động cơ và gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định cho cả người gửi tiền lẫn các thể chế tài chính tín dụng. Lạm phát có thể gây tác động xấu đến ngân hàng tiết kiệm, cộng đồng những người để dành thị trường trái phiếu các quĩ an ninh xã hội, hưu trí bảo hiểm và các công cụ nợ của Chính phủ. Lạm phát thường tạo ra tình huống lãi suất thực tế âm, khiến tiết kiệm giảm sút và chuyển hướng ra khỏi đầu tư sản xuất. Bởi vậy lạm phát thường hay đi kèm với suy thoái kinh tế.
- Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm phát. Một số người nắm giữ hàng hoá có giá cả tăng đột biến trở nên giàu có nhanh chóng và ngược lại. Những người có hàng hoá - tài sản mà giá cả không tăng hoặc tăng chậm bị nghèo đi, mức lương thực tế cũng giảm sút làm tổn hại đến mức sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố định. Phúc lợi xã hội dành cho tầng lớp nghèo cũng bị suy giảm rõ rệt. Hơn nữa việc phân phối lại của Chính phủ từ những người tiêu dùng đến người tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong những giai đoạn đầu của lạm phát. Sau đó sẽ mất hết tác dụng do sự thích nghi của tiêu dùng. Việc Chính phủ kiểm soát giá cả về mức tăng giá cả của hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng bằng cách qui định giá trần sẽ làm sai lệch sự phân bố các nguồn lực và dẫn đến thiếu hụt, tham nhũng.
Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường kéo theo việc điều chỉnh giá với giải pháp thích nghi kiềm chế lạm phát đồng thời điều chỉnh phá giá bản tệ là nguồn gốc làm gia tăng lạm phát do áp lực chi phí đối với hàng hoá, vật tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội địa và sự tương tác giữa chúng nếu nó vượt quá khả năng kiểm soát của Chính phủ sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận: phá giá - lạm phát – phá giá... tàn phá nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội của quốc gia.
- Sự mất ổn định của giá cả và tiền tệ còn làm mt kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng đầu tư nước ngoài đổ vào chậm, chững lại thậm chí suy giảm đi đối với sự ra đi của những dòng vốn trong nước. Lạm phát kéo theo cả nhưng giá cả hàng hoá trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những hàng hoá, vật tư cần thiết. Lạm phát cao (thường trên 40%) luôn gắn với thâm hụt tài chính lớn và thâm hụt đó trở nên nặng nên hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
1.3. Tác động đối với sự phân phối thu nhập của cải.
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối sinh ra từ những sự khác nhau trong các loại tài sản nợ nần của nhân dân.
Khi nhân dân có những khoản nợ dài hạn với lãi suất cố định thì việc, giá cả tăng lên thì đó là dấu hiệu tốt lành đối với ọh với lối suy nghĩ này voà những năm 70 công nghiệp xây dựng nhà cửa phát triển mạnh. Còn nếu bạn cho vay tài sản bằng cầm cố hoặc tín phiếu dài hạn, nếu giá cả đột nhiên tăng lên sẽ làm cho bạn nghèo đi.
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động không đoán trước đối với giá trị thực tế của cải nhân dân. Nói chung sự lạm phát không được đoán trước và có tác động ngược lại.
1.4. Tác động đối với sản lượng và công ăn việc làm.
Ngoài việc phân phối lại thu nhập, lạm phát còn tác động đến nền kinh tế thực tế.
Những tác động về kinh tế vĩ mô: tác động trước tiên là đối với mức sản lượng nói chung. Những thời kỳ lạm phát tăng lên bất ngờ thường là những thời kỳ có công ăn việc làm nhiều và sản lượng cao.
Tác động kinh tế vĩ mô đối với tài nguyên, lạm phát làm biến dạng giá cả tương đối nói chung tỷ lệ lạm phát càng cao thì sự biến dạng giá cả tương đối càng lớn. Một mặt hàng hoá mà giá bị biến dạng một cách trầm trọng do lạm phát và tiền tệ. Do bản chất tiền tệ không mang lại lợi tức nghãi là lãi suất đối với tiền tệ là con số 0. Những lãi suất thực tế (lãi suất tính bằng hàng hoá thực tế) được chỉnh nghĩa là lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực tế đối với tiền tệ bị ảnh hưởng đối với lạm phát.
Vì vậy nên ngạc nhiên khi thấy những khoản tiền dư vẫn đọng một cách lạ lùng, khi giá cả tăng nhanh.
2. Lợi ích của lạm phát.
Không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác hại to lớn. Nếu tốc độ lạm phát vừa phải khoảng từ 2% đến dưới năm 5%/năm ở những nước phát triển và dưới 10% ở những nước kém phát triển và với việc “chỉ số hoá” lạm phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm páhệ thống có thể dem lại một số lợi ích.
- Lạm phát như một chất “xúc tác” kích thích nền kinh tế. Trong một điều kiện nào đó, có thể không qua lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngõ hả năng có những lãi suất thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nựo và đầu tư do đó giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế còn nếu lạm phát hoành hành thì kéo theo thất nghiệp là điều tất yếu: và là đặc trưng của kinh tế.
Năm 1960. A.W phillips, nhà kinh tế Mỹ đã đưa ra biểu đồ thể hiện mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa tăng giá - tăng tiền lương và thất nghiệp như sau:
+ Lạm phát tỷ lệ thất nghiệp.
+ Lạm phát tỷ lệ thuận với tăng lương.
(Trong đó tỷ lệ tiền lương trên trục thẳng đứng biên phải coa hơn tỷ lệ lạm phát trên cột thẳng đứng bên trái 2% là tỷ lệ tăng giả định của năng suất lao động trung bình.
1
2
3
4
5
6
7
8
1
2
3
4
5
6
7
8
3. Sự đánh giá về tác động lạm phát.
Sự phân tích về tác động tác hại của lạm phát cho thấy nó là một hiện tượng phức tạp, với nhiều loại tác hại khác nhau.
Vậy chúng ta sẽ đánh giá cuối cùng về những gánh nặng của lạm páhệ thống không? Lạm phát có làm cho sản lượng thực tế của một nước giảm xuóng không? Và những tác hại đó có thể tính được đối với sự ổn định tinh thần và xã hội lớn hay nhỏ?
Qua nghiên cứu cho thấy lạm phát nhiều nhất ở các nước phát triển cũng chỉ là một tác động nhỏ đối với hiệu suất sản lượng thực tế. Và khó tìm thấy những tác hại hàng năm lên tới vài tỷ USD trong một nền kinh tế 4 ngày tỷ USD. Mặt khác sự biến dạng đột ngột do lạm phát hoặc những thay đổi trong thu nhập và của cải có một ảnh hưởng lớn khó chịu đối với nhiều cá nhân.
Qua nghiên cứu. Các nhà kinh tế cũng không tìm ra được những tác hại của lạm phát vừa phải nhất là trong một nền kinh tế hiện đại.
Chương II
Thất nghiệp và lạm phát.
A- Thất nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp và vấn đề trung tâm và là vấn đề giải quyết nó không phải một sớm một chiều mà nó là sự quan tâm của Chính phủ và Nhà nước.
Thất nghiệp là một thực tế nan giải của mỗi quốc gia có nền kinh tế thị trường, cho dù quốc gia đó phát triển hay không phát triển. Nếu một quốc gia số thất nghiệp nhiều sẽ dẫn đến sự sản xuất kém phát triển, tài nguyên bị lãng phí – thu nhập nhân dân thấp gây khó khăn tiêu cực cho kinh tế – xã hội. Đặc biệt sẽ gây nên tình trạng tiêu cực của xã hội và gây tác hại khó lường cả lĩnh vực kinh tế và xã hội.
1. Khái niệm thất nghiệp.
Thất nghiệp có tác động rất lớn đến đời sống kinh tế – xã hội. Vì vậy, số liệu kinh tế toàn diện và được tính toán ở mỗi quốc gia. Theo điều tra thông kê xã hội học người ta chia số dân ở tuổi 16 trở lên thành 3 nhóm lớn:
- Người đang làm việc: Đây là những người đang trực tiếp tham gia lao động và được trả công.
- Thất nghiệp nhóm này gồm những người không có việc làm nhưng đang tìm việc ohặc đang chờ được gọi trở lại làm việc. Nghĩa là một người là thất nghiệp nếu người đó không làm việc và có những cố gắng nhất định để tìm một công việc cụ thể.
- Nhóm còn lại “con số không thuộc lực lượng lao động nhóm này gồm những học sinh, sinh viên đang đi học hay những người về hưu, đau ốm bệnh tật không đi làm được.
* Tỷ lệ thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm số người thất nghiệp với tổng số người trong lực lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của mỗi quốc gia. Do đó những quan điểm khác nhau về nội dung (phương pháp tính toán để có khả năng biểu luận đúng) đầy đủ đặc điểm nhiều vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên: là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động đạt cân bằng, tại mức đó, tiền lương, giá cả hợp lý bởi các thị trường đều đạt cân bằng dài hạn số người thất nghiệp tự nhiên sẽ là tổng số thất nghiệp tự nhiên, nhưng người chưa có những điều kiện mong muốn để tham gia vào thị trường lao động.
Mức thất nghiệp thực tế có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng mức thất nghiệp tự nhiên. Khi nền kinh tế biến động hoạt động của các doanh nghiệp đình đốn, mức cầu về lao động giảm xuống.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên còn được gọi là tỷ lệ thất nghiệp mà ở mức đó không có gia tăng lạm phát.
2. Tác động kinh tế.
Trong thời kỳ thất nghiệp cao là thời kỳ mà GNP thực tế thấp hơn so với GNP tiềm năng. Vì khi thất nghiệp cao xảy ra một phần sản lượng bị bỏ hoặc không được sản xuất ra .
Mối quan hệ giữa thay đổi sản lượng và thất nghiệp đã được nhà kinh tế học Asthus - Okun nói rằng: “Khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1 phần trăm. Như vậy là mức GNP ban đầu là 100% tiềm nanưg và giảm xuống còn 98% tiềm năng, thì mức thất nghiệp sẽ tăng 1%.
Mức thất nghiệp cao dẫn tới làm giảm thu nhập của một bộ phận dân cư, gây lãng phí nguồn lực dẫn đến khó khăn kinh tế.
3. Tác động của xã hội đối với thất nghiệp.
Dù tác hại kinh tế của thất nghiệp lớn đến đâu chăng nữa thì thiệt hại tính bằng tiền cũng không thể diễn tả được một cách đẩy đủ tổn thất về mặt xã hội mà thời kỳ thất nghiệp cao kéo dài gây nên.
Những nghiên cứu cho thấy. Thất nghiệp coa thường kéo dài và phát triển luôn gắn bó với sự gia tăng phát triển của các tệ nạn xã hội, xói mòn nếp sống văn minh – lành mạnh truyền thống gây tầm thường về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người.
4. Các loại thất nghiệp.
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế phức tạp nó tác động đến mọi mặt đời sống – kinh tế – xã hội do đó cần phân loại để hiểu rõ bản chất của vấn đề này.
1.4.Theo loại hình thất nghiệp.
Thất nghiệp ảnh hưởng đến từng bộ phận dân cư, ngành nghề... cần phải hiểu rõ về đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại của nó trong đời sống kinh tế xã hội với mục đích đó ta có thể chia thất nghiệp thành 2 loaị:
+ Thất nghiệp phân theo giới tính (Nam – nữ).
+ Thất nghiệp phân theo lứa tuổi
+ Thất nghiệp phân theo vũng lãnh thổ.
+ Thất nghiệp phân theo ngành nghề.
+ Thất nghiệp phân theo dân tộc, chủng loại.
4.2. Theo lý do thất nghiệp.
Lý do thất nghiệp được phân thành các loại sau:
- Bỏ việc, tự ý thôi việc vì những lý do khác nhau như lương bổng – nghề nghiệp.
- Mất việc: do hãng sản xuất kinh doanh cho thôi việc vì một lý do nào đó.
- Nhập mới: lần đầu bổ sung cho lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm đó (là những sinh viên vừa tốt nghiệp đại học đang công tác và thanh niên đến tuổi lao động tìm kiếm việc làm).
- Tái nhập: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động, nay muốn quay trở lại tìm việc nhưng chưa có việc làm.
Cách phân biệt này cho chúng ta biết được tính chính xác của tình hình thất nghiệp thực tế. Nhưng cơ cấu của loại thất nghiệp này vĩnh viễn, số thất nghiệp chỉ là con số mang thời điểm tạm thời nó luôn biến động không ngừng theo xã hội.
4.3. Căn cứ vào nguồn gốc thất nghiệp.
Các nhà kinh tế học đã chia nguồn gốc thất nghiệp làm 4 loại:
- Thất nghiệp tạm thời đây là mức thất nghiệp không thể tránh khỏi đối với xã hội năng động, nguyên nhân là do sự di chuyển không ngừng của dân số giữa các vùng các công việc hoặc các giai ddoạn khác nhau giữa cuộc sống. Những người thất nghiệp tạm thời thường do chuyển công việc chuyển những công việc hoặc tìm những công việc tốt hơn, phù hợp hơn. Chỉ khác là qui mô và thời gian thất nghiệp của mỗi quốc gia khác nhau.
- Thất nghiệp cơ cấu: Trong dài hạn động thái sản xuất và cơ cấu luôn thay đổi. Thất nghiệp do cơ cấu gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của cơ cấu thị trường lao động. Như vậy nó xuất hiện không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội việc làm khi động thái sản xuất và nhu cầu có sự thay đổi.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: Đây là lý thuyết thất nghiệp của Keynes khi tổng cầu giảm mà giá cả chưa điều chỉnh kịp mới mức toàn dụng của công nhân. Do suy giảm của tổng cầu, nền kinh tế dồi dào tình trạng suy thoái nên người ta gọi thất nghiệp chu kỳ.
- Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển. Xảy ra khi tiền lương được cố ý duy trì cao hơn mức lương mà thị trường lao động cân bằng do các yếu tố ngoài thị trường. Tiền công lao động không chỉ gắn với thu nhập mà còn có quan hệ đến mức sống tối thiểu của quốc gia. Do vậy những qui định cứng nhắc về mức lương tối thiểu sự không linh hoạt tiền công lao động đã phá vỡ tính năng động của thị trường lao động dẫn tới một bộ phận lao động mất việc làm hoặc khó khăn hơn trong tìm kiếm việc làm.
Tóm lại, thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ phận phân biệt c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35025.doc