Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định mà còn điều chỉnh khối lượng tiền sẵn có trong lưu thông, sao cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá, đảm bảo cân đối tiền hàng.
Với vai trò quan trọng đó, trong hệ thống các chính sách vĩ mô, chính sách tiền tệ luôn dược coi là một chính sách đặc biệt quan trọng, có mối quan hệ với nhiều chính sách khác. Sở dĩ có được điều này là do chính sách tiền tệ có một số đặc điểm khác so với công cụ của các chính sách kinh tế khác. Về mặt chính trị, chính sách tiền tệ trung lập hơn đối với các chủ thể kinh tế. Về mặt kỹ thuật, chính sách tiền tệ ít bị chậm trễ trong việc thực thi hơn, ít bị ràng buộc bởi các khía cạnh hành chính hay chính hơn. Mặt khác, chính sách tiền tệ lại kín đáo hơn và có thể được ban hành rất nhanh ( ví dụ như tăng lãi suất ). Vì vậy, việc thực hiện tốt chính sách tiền tệ của NHTW có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp khi nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, NHTW sẽ phải hoạch định chính sách tiền tệ theo hướng áp dụng chính sách mở rộng tiền tệ, sao cho tạo ra được khả năng và điều kiện khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất,tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Ngược lại, ở một giai đoạn nào đó khi phát hiện trong nền kinh tế có những dấu hiệu của lạm phát gia tăng thì việc hoạch định chính sách tiền tệ lai phải theo hướng vận dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm bớt sự tăng trưởng quá mức của nền kinh tế.
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8286 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bản chất và chức năng của ngân hàng. vai trò của ngân hàng trong việc thực thi chính sách tiền tệ .sự cụ thể hoá của chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu nhập tiền lãi cao. Tất nhiên khi tìm nhuồn vay, ngân hàng thương mại phải thực hiện theo phương châm là thận trọng nhưng không bỏ lỡ cơ hội cho vay với lãi suất cao. Do đó để quản lý tốt tiền cho vay. Một, nghiệp vụ quan trọng nhất đối với việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng và tránh các rủi ro có thể xảy ra, ngân hàng phải thực hiện các quy chế sau:
Thứ nhất sàng lọc các đối tượng vay, tức là phải nắm được tình hình hoạt động của người cần vay, từ đó lọc người mạo hiểm vay tiền có triển vọng tổ ra khỏi người vay tiền có triển vọng xấu.
Thứ hai, tăng cường giám sát để hạn chế tinh rủi ro đạo đức, ngăn chặn hoạt động rủi ro mà dẫn đến sự vỡ nợ của ngươì vay. điều đó có khả năng thực hiện được bằng việc quy định hạn chế lượng tiền cho vay. Bằng cách đó ngân hàng thương mại sẽ giảm bớt rủi ro khi vay.
2.2.3. Xử lý hài hoà mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên và yêu cầu bảo đảm sinh lời cao.
Trong kinh doanh, muốn giữ vững và cạnh tranh được, ngân hàng thương mại phải vừa đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, vừa đảm bảo mức sinh lời cao. Muốn vậy, ngân hàng thương mại phải quản lý tốt tài sản C6, sắp xếp tài sản có theo trật tự tính năng của chúng. Trên cơ sở bảo đảm mức dữ trữ tuyến đầu ( tiền mặt, tiền gửi ở ngân hàng thương mại và tiền gửi ở các ngân hàng khác ) và ở mức dự trữ tuyến hai (chứng khoán ngắn hạn ), ngân hàng thương mại bố trí cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, dàu tư chứng khoán trung và dài hạn trong mối tương quan với các nguồn vốn tương ứng bên tài sản nợ. Đồng thời, bảo dẩm tỉ lệ cần thiết của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn hoặc tỉ lệ giữa vốn đó với tổng tài sản có rủi ro, có bien pháp hữu hiệu phòng chống rủi ro trong kinh doanh và tiến hành phân tích tác động của biến động rủi ro lãi xuất ddối với thu nhập của ngân hàng .[Một ngân hàng nếu có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi xuất hơn là tài sản nợ, thì một sự tăng lãi suất trên thị trường sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, trong khi đó mọtt sự giảm lãi suất sẽ làm tăng nhuận của ngân hàng. Vì thế khi nhận được thông tin về lãi suất dự kiến sẽ tăng, ngân hàng thương mại cần có xu hướng giảm tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất, còn khi lãi suất có xu hướng giảm thì ứng xử của ngân hàng sẽ theo xu hướng ngược lại ]
2.3 Chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là huy động tiền gửi của khách hàng để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngày nay, ngân hàng thương mại đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng và trở thành một loại hình ngân hàng chiếm vị trí chủ yếu trong hệ thống các ngân hàng trung gian.
Ngân hàng thương mại có các chức năng sau :
2.3.2 Chức năng trung gian tín dụng
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội đã làm phát sinh mấu thuẫn giữa hiện tượng vốn tiền tệ nhàn rỗi ử chủ thể kinh tế này, trong khi chủ thể kinh tế khác có nhu ccầu lại thiếu vốn, cần được bổ sung. Giải quyết vấn dề nay , ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian tín dụng , trở thành “cầu nối” để người có vốn và người cần vốn gặp nhau.
Người cần vốn
Người có vốn
Ngân hàng thương mại
Gửi tiền Cho vay
Uỷ thác Đầ Đầu tư
Đầu tư
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế , ngân hàng thương mại hình thàh nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn .
Như vậy, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Với chức năng này, ngân hàng thương mại, đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ. Cụ thể :
Đối với bản thân ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng mối giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ vón tạm thời nhàn rỗi của mình do ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn và cung cấp các phương tiện thanh toán .
Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn đẻ kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp . Đối với nền kinh tế, chức năng nàycủa ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng kinh tế vì nó đã đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất tạo thêm việc làm cho người lao động. Với chức năng này ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động tối thiểu hóa chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế, kích thích quá trình luôn chuyển vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
2.3.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, ngân hàng thương mại thực hiện các khoản thanh toán chi trả cho khách hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp, các doanh nghiệp, cá nhân…Có thể nhờ ngân hàng thương mại thực hiện những công việc này dựa trên những khoản tiền mà họ đã gửi ở ngân hàng, thông qua việc mang tiền của người phải trả chuyển cho người được trả bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày càng đơn giản. ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là người thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán.
Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghiã rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ rút tiền thẻ thanh toán, cạc… tuỳ theo nhu cầu khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, không phải mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người thanh toán dù ở gần hay xa, họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán nà. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí thời gian, tiền bạc, lại đảm bảo được thanh toán an so với thanh toán trực tiếp như vậy,chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyể vôn, đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mătj như chi phí in ấn, đến nhận, bảo quản tiền..
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
2.3.3 Chức năng tạo tiền:
Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng và thanh toán mà các ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền”. Đó là khả năng mở rộng tiền gửi nhiều lần. Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào một ngân hàng, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ thống ngân hàng thương mại, số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (còn được gọi là số nhân tiền). Hệ số mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại chịu sự tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ đự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Phân tích quá trình “tạo tiền” của hệ thống ngân hàng thương mại, chúng ta sẽ thấy rõ sự tác động của các yếu tố này:
Trước hết, ta hãy xem xét quá trình tạo tiền đơn giản với hai giả thiết: Một là các ngân hàng thương mại cho vay ra hoàn toàn bằng chuyển khoản không cho ra bằng tiền mặt. Hai là: Hệ thống ngân hàng thương mại chỉ giữ lại dự trữ theo quy đinh của ngân hàng trung ương, tức là không có dự trữ vượt mức.
Giả sử có một khách hàng gửi vào ngân hàng A số tiền là 100$ lúc đó bảng cân đối của ngân hàng A sẽ là:
Tài sản có Ngân hàng A Tài sản có
Dữ trữ : 100 Tiền gửi :100
Nếu ngân hàng A dự trữ 100% số tiền đó, không cho vay, để đảm bảo khả năng thanh toán thì chưa hề có quá trình tạo tiền. Trên thực tế, các ngân hàng chỉ thực hiện khoản dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng thương mại , số còn lại đem cho vay mà ngân hàng có thể còn lại là 90% đã tạo nên quỹ cho vay mà ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Nếu ngân hàng A cho vay hết só tiền đó thì bảng cân đối của ngân hàng A sẽ là :
Tài sản có Ngân hàng A Tài sản có
Dự trữ : 10 Tiền gửi :100
Cho vay : 90
Cộng : 100 Cộng :100
Khoản tiền cho vay 90 của khách hàng đó được sử dụng để thanh toán cho bạn hàng có tài khoảnhà nước ở ngân hàng B thì số tiền đó sẽ được chuyển sang ngân hàng B. Giả ngân hàng B dữ trữ 10% theo quy định, phần còn lại sủ dụng để cho vay hết và số tiền đó lại chuyển sang tài khoản tai ngân hàng C.
Ngân hàng C cũng dữ trữ 10%theo quy định và phần còn lại cũng cho vay bằng chuyển khoản để dạng tài khoản khách hàng tại ngân hàng D thì bảng cân đối của các ngân hàng B, C, D sẽ là :
Tài sản có NH B Tài sản nợ Tài sản có NH B Tài sản nợ
Dự trữ : 9 Tiền gửi : 90 Dự trữ :8,1 Tiền gửi:8,1
Cho vay: 81 Cho vay:72,9
Cộng : 90 Cộng : 90 Cộng : 81 Cộng :81
Tài sản có NH D Tài sản nợ
Dự trữ : 7,29 Tiền gửi : 72,9
Cho vay: 5,61
Cộng : 72,9 Cộng : 72,9
Quá trình tạo tiền gửi sẽ diễn ra cho đến khi tổng số tiền dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng thương mại bằng đúng số tiền gửi đầu tiên.
Nếu gọi rb là tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì
Rb
rb =
D
Trong đó Rb : là dự trữ bắt buộc
D : là tiền gửi.
Khi đó tổng số tiền gửi được tạo ra bằng 100 viết theo công thức:
1
D = R [ 1 + (1 - rb) + (1 – rb)2 +… ] = R
Rb
Như vậy, sự kết hợp giữa hoạt động tín dụng và thanh toán bằng chuyển khoản đã mở rộng tiền gửi gấp 10 lần tiền gửi ban đầu.
Bảng cân đối của toàn hệ thống ngân hàng thương mại có thể viết:
Tài sản có Hệ thống NHTM Tài sản nợ
Dự trữ : 100 Tiền gửi : 100
Cho vay: 900
Cộng : 1000 Cộng : 100
Hệ số mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng thương mại theo mô hình tạo tiền đơn giản sẽ là: mm = 1/rb.
Quá trình tạo tiền trên chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cả hệ thống ngân hàng thương mại chứ bản thân một ngân hàng thương mại không thể tạo ra được. Trên đây là một mô hình tạo tiền đơn giản với 2 điều kiện ban đầu. Thực tế khả năng tạo tiềncủa hệ thống ngân hàng thương mại còn bị giới hạn bởi tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ dữ tiềnmặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng. Giả sử một khách hàng nào đó vay bằng tiền mặt để thanh toán thì quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt hoặc khách hàng rút một phần tiền mặt để thanh toán thì khả năng tạo tiền sẽ giảm đi và chỉ có phpần vay hoặc thanh toán bằng chuyển khuản mới có khả năng tạo ra tiền gửi mới. Cũng tương tự như vậy, nếu ngân hàng có phần dự trữvượt mức thìkhả năng mở rộng tiền gửi sẽ giảm bằng:
mm = 1/(c + rb + re)
trong đó rb : tỷ lệ dự trữ băt buộc
re : tỷ lệ dự trữ vượt mức
c : tỷ lệ giữ tiền mạt so vớitiền gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăn phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngânhà nước hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng cho quá trình giao dịch trong nền kinh tế .
Như vậy ,các chức năng này của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. đồng thời, khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng , mở rộng hoạt động tín dụng.
Thực hiện tố thanh toán các chức năng đó, một mặt ngân hàng thương mại đã có vai trò rất lớn trong việc giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh , thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đồng thời góp phần phân bố hợp lí các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, toạ điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế theo một cơ cấu nghành và khu vực hợp lí. Mặt khác, với vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế , ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương . Thông qua hoạt động của ngân hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác ,tình hình sản lượng , giá cả nhu cầu tiền mặt, lãi suất tỷ giá..của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng trung ương , giúp cho ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể. Ngoài ra ,ngân hàng thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giũa các quốc gia , góp phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Tóm lại, chức năng và vai trò của ngân hàng luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên trong phần 1 này chúng ta mới chỉ đi sâu nghiên cứu các chức năng của hệ thống ngân hàng thông qua việc nghiên cứu và xem xét các chức năng của NHTW va ngân hàng thương mại, đồng thời giúp ta hiểu được tính chất pháp lí của hoạt động ngân hàng . Để hiểu rõ hơn về vai trò của ngân hàng đối với chính sách tiền tệ trong việc diều tiết vĩ mô nền kinh tế, chúng ta sẽ đi vào
Phần II: Vai trò ngân hàng trong việc thực thi chính sách tiền tệ của chính phủ
I. Chính sách tiền tệ của NHTW
1. Khái niệm chính sách tiền tệ .
Lịch sử ra đời của Ngân hàng ở các nước trên thế giới cho thấy sự xuất hiện của tổ chức này trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn không phải vì mục đích tìm kiếm doanh lợi cho bản thân nó hay cho chính phủ mà là xuất phát từ yêu cầu của quản lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả, tạo điều kiện cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện được những mục tiêu hết sức quan trọng đó, NHTW đã phải thông qua quá trình hoạch định chính xác và tổ chức thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ của mình.
Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do NHTW chịu trách nhiệm soạn thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, chính sách tiền tệ là tổng thể tất cả các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế, thông qua việc chi phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng tiền.
Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định mà còn điều chỉnh khối lượng tiền sẵn có trong lưu thông, sao cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá, đảm bảo cân đối tiền hàng.
Với vai trò quan trọng đó, trong hệ thống các chính sách vĩ mô, chính sách tiền tệ luôn dược coi là một chính sách đặc biệt quan trọng, có mối quan hệ với nhiều chính sách khác. Sở dĩ có được điều này là do chính sách tiền tệ có một số đặc điểm khác so với công cụ của các chính sách kinh tế khác. Về mặt chính trị, chính sách tiền tệ trung lập hơn đối với các chủ thể kinh tế. Về mặt kỹ thuật, chính sách tiền tệ ít bị chậm trễ trong việc thực thi hơn, ít bị ràng buộc bởi các khía cạnh hành chính hay chính hơn. Mặt khác, chính sách tiền tệ lại kín đáo hơn và có thể được ban hành rất nhanh ( ví dụ như tăng lãi suất ). Vì vậy, việc thực hiện tốt chính sách tiền tệ của NHTW có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp khi nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, NHTW sẽ phải hoạch định chính sách tiền tệ theo hướng áp dụng chính sách mở rộng tiền tệ, sao cho tạo ra được khả năng và điều kiện khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất,tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Ngược lại, ở một giai đoạn nào đó khi phát hiện trong nền kinh tế có những dấu hiệu của lạm phát gia tăng thì việc hoạch định chính sách tiền tệ lai phải theo hướng vận dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm bớt sự tăng trưởng quá mức của nền kinh tế.
2.Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ .
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ gồm 3 thành phần cơ bản gắn với 3 kênh dẫn nhập tiền vào lưu thông, đó là chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối và chính sách đối với ngân sách Nhà nước .
Chính sách tín dụng: Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm deỏ, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
Chính sách ngoại hối: Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội. Chính sách ngoại hối gồm có chính sách hối đoái, dự trữ ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Chính sách đối với ngân sách nhằm đảm bảo cung ứng phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hợp ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt.Trường hợp ngân sách thiếu hụt có 4 cách để tài trợ. Đó là: vay dân, vay hệ thống tổ chức tín dụng và thị trương tài chính trong nước, vay NHTW, vay ở nước ngoài . Phương thức cung ứng tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước theo kỳ hạn nhất định. Dần dần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
II. Vai trò của ngân hàng trong việc thực thi chính sách tiền tệ .
Thông qua khái niệm và nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ, thanh toán có thể khẳng định rằng: Ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với chính sách tiền tệ trong việc điều tiết vĩ mô. NHTW vừa là người hoạch định lập ra chính sách tiền tệ, lại vùa là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của ngân hàng tác động đến việc tăng giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, từ đó tác động đến tình hình của nền kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta.
Vì vậy, vai trò của NHTW đối với việc thực thi chính sách tiền tệ được thể hiện rất rõ thông qua mục tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ. Để hiểu rõ về vai trò này, chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu mục tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ.
1.Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.1.ổn định tiền tệ
ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia, nó được thể hiện thông qua việc kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái.
Lạm phát là mức tăng lên của mức giá chung theo thời gian. Khi lạm phát ở mức độ cao ( siêu lạm phát, lam phát phi mã )thì sẽ dẫn đến phân phối lại thu nhập và cuẩ cải giữa các tầng lớp giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì người mất là những người đang nắm các tài sản danh nghĩa còn người được là những người có có các khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa . Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao, thu nhập thực tế của dân cư sẽ giảm, đời sống nhân dân lao động sa sút, lạm phát cao còn gây ra hiện tượng đầu tư tích trữ hàng hoá và hiện tượng chuyển tiền sang các loại hàng hoá khác, làm cho cầu về hàng hoá tăng, dẫn tới mất cân đối cung cầu và giá cả hàng hoá tăng lên làm tốc độ lạm phát càng cao và dễ bị rơi vào vòng xoáy lạm phát nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài. Lạm phát cao còn gây ra các biến cố khác như làm sai lệch các biến số kinh tế vĩ mô, các điều khoản của hợp đồng danh nghĩa ban đầu trong lĩnh vực mua hoặc bán, cho vay hoặc đi vay đều tính tới yếu tố lạm phát thông thường nhưng không thể tính tới yếu tố lạm phát bất thường.
Còn khi lạm phát ở mức độ vừa phải (lạm phát dự tính ) thường là dưới 10% thì nó không có tác động tiêu cực mà theo nhiều nhà kinh tế nó còn là một liều thuốc bổ tăng trưởng kinh tế bởi lẽ lạm phát chính là việc đưa một khối lượng tiền ra lưu thông qua đó mở mang hoạt động của các doanh nghiệp, tạo điều kiện đầu tư chiều rộng và chiều sâu. Do đó thu hút nhiều lao động, thất nghiệp giảm nền kinh tế tăng trưởng cao hơn trước.
Như vậy nhiệm vụ của NHTW là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng nội tệ tạo kiện để cho nền kinh tế phát triển bình thường đảm bảo cho đời sống của người lao động. Tuy nhiên thực chất của việc kiểm soát là chấp nhận sự biến động với một biên độ cho phép (lạm phát một con số ). Còn khi lạm phát ở mức độ cao thì NHTW sẽ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để làm giảm mức cung tiền, giảm mức lạm phát.
Ngoài việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ còn bao gồm cả việc chống tình trạng thiểu phát. Đồng thời việc ổn định tỷ giá hối đoái có tác động tốt đến hoạt động xuất nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái biến động quá mức đều kéo theo những tác động kép tích cực và tiêu cực. Do đó nhiệm vụ của NHTW là sử dụng những công cụ, chính sách của mình can thiệp, giữ cho tỷ giá không thăng trầm quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế quốc dân trong nước, giúp các hãng và cá nhân mua hoặc bán hàng hoá ở nước ngoài dễ dàng hơn trong việc lập kế hoạch cho tương lai.
1.2.Tạo việc làm,giảm bớt thất nghiệp
Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở thành những người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia của nền kinh tế thị trường,cho dù quốc gia đó là phát triển, đang phát triển hay kém phát triển. Nó được xem như là một căn bệnh kinh niên đối với tất cả các xã hội, nơi mà sức lao động được coi là hàng hoá .
Khi thất nghiệp ở mức cao, sản xuất sút kém,các nguồn lực không được sử dụng hết , thu nhập của dân cư giảm sút. Khó khăn kinh tế tràn sang lĩnh vực xã hội, nhiều hiện tượng tiêu cực phát triển, tác hại của thất nghiệp là rất rõ ràng. Người ta có thể tính toán đuợc sự thiệt hại kinh tế. Đó là sự giảm sút to lớn về sản lượng và đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát to lớn. Sự thiệt hại về kinh tế do thất nghiệp mang lại ở nhiều nước lớn đến mức không thể so sánh với thiệt hại do tính không hiệu quả của bất cứ hoạt động kinh tế vĩ mô nào khác. Những kết quả điều tra xã hội cũng cho thấy thất nghiệp cũng luôn gắn với tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, tổn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiêu người, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống làm xói mòn nếp sống lành mạnh ...và còn có thể ảnh hưởng đến cả chính trị như biểu tình .. .
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc không có thất nghiệp là điều khó xảy ra. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nhiệp chứ không phải là làm cho thất nghiệp bằng không, mà là duy trì ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên khi nền kinh tế toàn dụng nhân công .
Chúng ta có thể thấy rằng giữa ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi nền kinh tế phát triển thì công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm đi và ngược lại khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm bị giảm, thất nghiệp tăng lên. Mối quan hệ này được OKUN phát biểu thành quy luật : khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng thì mức thất nghiệp tăng 1%, định luật OKUN có thể được coi là chìa khoá để các nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách hợp lý về gia tăng đầu tư, gia tăng sản lượng ...
Như vậy, để tạo thêm việc làm giảm bớt thất nghiệp, NHTW sẽ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, tăng lượng cung tiền, giảm lãi suất và từ đó kích thích đầu tư .
1.3.ổn định và tăng trưởng kinh tế
Mục đích cao nhất của chính sách tiền tệ là làm thế nào để phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng cao sẽ nâng cao thu nhập của người lao động đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, trên cơ sở đó ổn định về chính trị và xã hội.
Thực hiện mục tiêu này NHTW thường sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, tác động đó thông qua hai chiều :
Một là : khi khối lượng tiền tệ tăng sẽ làm giảm lãi suất và khuyến khích đầu tư làm tăng tổng sản phẩm quốc dân. khi NHTW nâng mức cung tiền tệ từ MS1 lên MS2 thì lãi suất sẽ giảm từ i1 xuống i2 và mức cần đầu tư sẽ tăng tư I1 lên I2 vì chi phí đầu tư giảm, chi phí cơ hội cho viêc gửi tiền vào ngân hàng giảm khi đầu tư tăng từ I1 lên I2 sẽ làm cho tổng sản phẩm quốc dân tăng từ GNP1 lên GNP2, điều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bản chất và chức năng của ngân hàng vai trò của ngân hàng trong việc thực thi chính sách tiền tệ sự cụ thể hoá của chính sách tiền tệ trong quản lý ki.DOC