MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Nội dung 3
I. Bản chất nội dung phát triển của các tổ chức đế quốc xuyên quốc gia. 3
1. Sự hình thành và phát triển. 3
1.1. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế. 3
1.2. Quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn tới sụ hình thành các tổ chức độc quyền. 4
1.3. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh hình thành nên các công ty nông- công nghiệp, nông- thương nghiệp. 5
2. Các hình thức của các công ty độc quyền xuyên quốc gia. 5
2.1. Cartel . 5
2.2. Syndicat. 6
2.3. Trust. 6
2.4. Concern 6
2.5. Conglomerate 6
3. Bản chất và đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia. 6
3.1. Trong quan hệ sở hữu. 6
3.2. Trong quản lý. 9
II. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia. 11
1. Thúc đẩy thương mại đầu tư quốc tế và phát triển nguồn nhân lực. 11
1.1. Thúc đẩy thương mại quốc tế. 11
1.2. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài. 13
1.3. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. 14
2. Nghiên cứu- phát triển và chuyển giao công nghệ. 15
2.1. Định hướng chính sách. 15
2.2. Hợp đồng công nghệ liên công ty. 17
III. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. 18
1. Đặc điểm hoạt động và sự tác động tới nền kinh tế Việt Nam. 18
1.1. Đặc điểm hoạt động. 18
1.2. Tác động của công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam. 21
2. Vấn đề hiện nay với hoạt động thu hút các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. 24
Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 26
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2011 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bản chất và vai trò các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cái vỏ vật chất trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền tổ chức hoạt động vượt biên giới quốc gia dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ sản xuất trên quy mô quốc tế thì các hình thức siêu độc quyền, tức là các công ty xuyên quốc gia xuất hiện.
Đặc biệt khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chuyển từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin dưới sự thúc đẩy của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và quá trình quốc tế hoá đời sống đã làm cho số lượng các công ty độc quyền xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng và bản chất của chúng cũng biến đổi theo hướng thích nghi với tính chất quốc tế hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi đó nền sản xuất đòi hỏi những nguồn lực khổng lồ, đặc biệt là vốn và công nghệ làm cho khả năng tài chính của một công ty không thể đáp ứng được, cùng với nó là quá trình cổ phần hoá mở rộng và sự gia tăng quá trình huy động vốn thông qua thị trường tài chính làm cho số lượng các đồng chủ sở hữu ở khắp nơi trong công ty xuyên quốc gia lớn lên. Kiểu sở hữu cổ điển mất dần vai trò điều tiết trong tất cả các cơ cấu của các công ty xuyên quốc gia.
Trong điều kiện như vậy những người sở hữu về pháp lý của các công ty xuyên quốc gia không còn đủ khả năng về vồn và năng lực quản lý. Những người này đã thuê các ban giám đốc gồm các nhà quản lý chuyên nghiệp, chứ không không phải các ông chủ công ty như trước đây. Vai trò “ uỷ thác đầu tư” có trách nhiệm không thuộc về một người duy nhất hay một nhóm người duy nhất, ban giám đốc-“ người quản lý” này hành động theo cách “cân bằng tối ưu các lợi ích” của những người liên quan tới nó: các cổ đông, người làm thuê, người cung ứng, cộng đồng địa phương.
Đó là những nhà quản lý chuyên nghiệp thực hiện việc quản lý công ty, nhưng thực tế họ lại không hề có cổ phần trong công ty mà mình quản lý. Do không thể dựa vào vốn cung ứng, một ông chủ duy nhất hoặc một nhóm chủ sở hữu. Sự cung ứng vốn này phải dựa vào sự đầu tư của nhiều người và không ai trong số họ có đủ điều kiện kiểm soát hay can thiệp nhiều vào hoạt động quản lý của công ty theo “ chế độ tham dự”. Kết quả là tài sản đã trở thành “ vốn đầu tư”. Để chiến thắng trong cạnh tranh các công ty này không có sự lựa chọn nào khác là phải dùng vồn đầu tư này vào việc đảm bảo tối đa các hoạt động đổi mới, hoàn thiện kỹ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất với tư cách là người chủ theo phương thức, hành vi kinh tế khác nhau, tuỳ thuộc vào thành phần ban quản lý của chúng.
Và khi đó người công nhân hiện đại- từ đối tượng bị bóc lột trở thành người chủ sở hữu kinh tế. Có thể nói đây là xu thế khi cá thể khi cá thể hoá sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xu thế này đang phát triển rộng rãi .
Và sở hữu hỗn hợp được tạo ra do sự thay đổi về căn bản địa vị, vai trò của người công nhân, tri thức- những người làm việc trực tiếp và trực tiếp quyết định chất lượng lao động và sản xuất.
Đó là xu thế: vốn riêng của cổ đông và vốn riêng của các pháp nhân trong tổng số vốn hoạt động đã giảm xuống, phần vốn còn lại là vốn đi vay. Kết quả là tỉ lệ cổ đông cá thể đã giảm xuống. Điều này làm cho các công ty xuyên quốc gia siêu lớn thành các tổ chức kinh tế được sở hữu bởi các chủ sở hữu kinh tế liên kết hay nói đúng hơn nó đã tạo ra hình thức sở hữu hỗn hợp. Đó là sự kết hợp của hai yếu tố, ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên là những người thực hiện tập thể: khía cạnh kinh tế của sở hữu. Trong loại hình sở hữu này, địa vị kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của những công nhân được thực hiện theo cơ chế “tham dự”- tức là trở thành những vệ tinh của các công ty độc quyền xuyên quốc gia.
3.2. Trong quản lý.
Việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá theo hàng loại lớn sang kiểu sản xuất loại nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước. Sự dịch chuyển này trong điều kiện đổi mới công nghệ như vũ bão đã làm nổi bật vai trò năng động của các doanh nghiệp, xí nghiệp có quy mô vừa và nhỏ so với các tập đoàn lớn mang nặng tính quan liêu, buộc các công ty xuyên quốc gia phải tự tách mình ra thành các nhân tố của cạnh tranh nhằm tạo ra sự năng động và linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh. Điều này làm xuất hiện các công ty kiểu mới, sự liên kết công ty xuyên quốc gia kiểu mới, kiểu vệ tinh xoay quanh một công ty gốc tạo một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Đây là sự chuyển hoá về mặt tổ chức quản lý của họat đông kinh tế để tăng cường tính linh hoạt và khả năng thích ứng với thị trường đang được đa dạng hoá và biến đổi từng ngày, từng giờ. Nhờ những đột phá về công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá, phương thức tổ chức, quản lý sản xuất vật chất của xã hội hiện đại bắt đầu thay đổi ngược lại với phương thức tổ chức quản lý sản xuất trong xã hội công nghiệp theo xu thế:
Phi hàng hoá và đa dạng hoá các sản phẩm: Nghĩa là việc tổ chức quản lý sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo hàng loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng. ( ngày nay ở Mỹ sản xuất loại lớn chỉ chiếm 5% số hàng hoá sản xuất ra).
(2) Phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý theo phương thức chế tạo tổ hợp các khối cấu kiện phụ, phụ kiện, chứ không từ hàng trăm, hàng ngàn cấu kiện được sản xuất chuyên môn hoá như trước.
(3) Phi tập trung hoá- là quá trình sản xuất được phân bổ và được tổ chức quản lý trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất vừa và nhỏ, với các nguồn nhân lực và tiềm lực phân tán trên quy mô quốc gia và quốc tế. Với mục tiêu của các công ty ngày nay không chế tạo ra sản phẩm với giá thành thấp trên phạm vi toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành tổ chức và quản lý việc phân công lao động và sản xuất vượt qua các đường biên giới quốc gia. Nhờ các thành tựu của tin học và viễn thông công ty xuyên quốc gia đều tiến hành phân bố sản xuất theo hướng phân tán, tiến hành nghiên cứu, thiết kế sản phẩm ở một nước, sản xuất các yếu tố cấu thành ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và gửi lợi nhuận đầu tư vào nước thứ năm.
Đồng thời với quá trình phân tán sản xuất để giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, tránh được hàng hoá bảo hộ và chuyển giao năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm của công ty xuyên quốc gia cho các nước khác, việc tổ chức quản lý những mạng lưới hỗ trợ cạnh tranh, xuyên quốc gia các đường biên giới quốc gia cũng phát triển thông qua xây dựng các trung tâm khu vực để thu thập thông tin và thu mua với giá rẻ các bộ phận cấu thành, cụm linh kiện sản xuất theo tiêu chuẩn ở các nước sở tại để thực hiện điều này, 1991 các công ty điện và điện tử dân dụng của các nước đã đặt 78 trụ sở chính của mình tại các khu vực: Mĩ- 33 công ty, Đức- 12 công ty, Anh- 12 cô ng ty… tới năm 1993 con số này còn tăng lên nữa.
(4) Tổ chức quản lý từ xa: Sự xuất hiện của các siêu xa lộ thông tin được mở đầu ở Mĩ đã tạo ra khả năng tiến hành tổ chức quản lý đồng thời và rộng rãi ở cùng một nơi nhiều loại hình sản xuất và dịch vụ khác nhau. Hoạt động từ xa sẽ được tăng cường mạnh mẽ và những cản trở của hàng rào khách quan và khoảng cách giữa nơi làm việc và nơi ở, thời gian làm việc và giải trí đang và sẽ được xoá bỏ hoàn toàn. Loại hình tổ chức quản lý làm việc từ xa, hội thảo, hội nghị từ xa, đào tạo từ xa, mua bán từ xa, sẽ được phát triển mạnh mẽ nhờ khả năng tiếp cận ngày càng tăng của các cá nhân từ nơi ở của họ hay từ văn phòng, cơ quan, nơi làm việc nằm xa trung tâm, đồng thời cho phép tận dụng nhiều năng lực chuyên môn hiện nay vẫn bị bỏ phí do có sự cách biệt hay phân tán số lớn nhân lực về mặt địa lý.
(5) Quốc tế hoá và toàn cầu hoá tổ chức quản lý: Trong nền kinh tế mới mang tính chất toàn cầu, tất cả các yếu tố như vốn tư bản, các thị trường, lao động, thông tin và công nghệ đều được tổ chức quản lý xuyên quốc gia, các đường biên giới quốc gia. Cái mới không phải chỉ ở chỗ thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế của một nước, mà ở chỗ nền kinh tế đó bắt đầu hoạt động với tính cách thực sự là một đơn vị ở cấp toàn cầu.
Việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ không những đã được quốc tế hoá, mà còn đang được toàn cầu hoá trong quá trình thâm nhập giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các quốc gia trên quy mô thế giới. Trong đó công ty xuyên quốc gia có vai trò và lợi thế to lớn do chúng có nhiều ưu thế về nguồn lực và các tri thức thông tin cần thiết đối với việc tổ chức quản lý sản xuất và tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trên quy mô quốc tế.
II. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia.
1. Thúc đẩy thương mại đầu tư quốc tế và phát triển nguồn nhân lực.
1.1. Thúc đẩy thương mại quốc tế.
Một trong những vai trò nổi bật của công ty xuyên quốc gia là thúc đấy thương mại quốc tế. Tổng giá trị thương mại của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở nước ngoài đã tăng 8% bình quân năm trong giai đoạn 1982-1994. Phần lớn sản phẩm của công ty xuyên quốc gia tập trung vào hàng chế tạo và hướng vào xuất khẩu. Trong hơn thập kỷ qua, giá trị thương mại của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở khu vực Đông Nam á tăng lên nhanh chóng. Đến giữa thập kỷ 90, giá trị thương mại của các chi nhánh công ty xuyên quốc giảơ nước ngoài đã lớn hơn giá trị nhập khẩu của các khu vực Nam , Đông và Đông Nam á.
Tổng giá trị thương mại thực hiện ở nước ngoài của 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới đã đạt tới hai nghìn tỉ USD( 1995) tăng 26% so với năm 1993. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất to lớn đối với thúc đẩy thương mại thế giới.
Một đặc điểm khác cần chú ý là trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ công ty xuyên quốc gia ở các nước này ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại của nhiều nước.
Trong những năm gần đây, với chiến lược đa quốc gia và tạo ra các liên kết giữa thương mại và đầu tư, các công ty mẹ thường chuyển giao trực tiếp các công nghệ, nguyên liệu và dịch vụ cho các chi nhánh của mình ở các nước.
Tuy nhiên, trao đổi giữa các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia thường đi cùng với giá chuyển giao, tức là giá cả không dựa trên cơ sở quan hệ cung- cầu mà là giá trị thoả thuận giữa các chi nhánh trong cùng một công ty xuyên quốc gia. Tình trạng này có thể làm thiệt hại đến nước chủ nhà. Đây là vấn đề cần lưu ý đối với các nước đang phát triển, nhất là ở nước ta hiện nay.
Mặc dù xuất khẩu của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia tăng gấp hai lần, giữa các năm 1992 và 1994 nhưng tỉ trọng xuất khẩu trong tổng sản lượng của chúng lại giảm từ 31% xuống còn 28% giữa các năm tương ứng. Hiện tượng này phản ánh FDI có xu hướng nội địa cao và chuyển sang ngành dịch vụ. Đồng thời, tỷ trọng xuất khẩu nội bộ công ty xuyên quốc gia trên thế giới chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới.
Mở rộng và phát triển các chi nhánh của công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động FĐI đã góp phần to lớn đối với thúc đẩy xuất khẩu của các nước đang phát triển.
Từ sau 1985 đến nay, xuất khẩu của các chi nhánh cả công ty xuyên quốc gia tăng mạnh ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á. Xuất khẩu của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia trên 50% tổng giá trị xuất khẩu hàng chế tạo Philipin, Srilanka, Malayxia và tới gần 90% xuất khẩu của Singapo.
1.2. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài.
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh công ty xuyên quốc gia. Với lợi thế của mình về vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thương mại rộng lớn, các công ty xuyên quốc gia tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Năm 1997, các chi nhánh công ty xuyên quốc gia trên thế giới với tổng tài sản trên 136 nghìn tỉ USD đã đầu tư ra nước ngoài lượng FDI là 422 tỉ USD, năm 1999 FDI của thế giới là 644 tỉ USD trên phạm vi rộng, hơn 100 quốc gia.
Nguồn đầu tư chính ra nước ngoài là các nước phát triển( trên hầu hết các nước G7 và một số nước châu Âu). Các nước này lại có công nghệ nguồn do đó nguồn vốn FDI của chúng có ý nghiã quan trọng hơn. Năm 1996, nguồn FDI của thế giới là 346,8 tỉ USD, trong đó từ các nước phát triển là 294,7 tỉ USD( chiếm khoảng 85%), Mỹ là nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất thế giới với 85 tỉ USD( chiếm khoảng 25% FDI của thế giới). Nhiều nước Đông Nam á và cả Trung Quốc cũng đầu tư ra nước ngoài, nhưng với giá trị không lớn đạt 9,14 tỉ USD và 2,2 tỉ USD( chiếm 2,6% và 0,36% lượng FDI thế giới).
Xu hướng gia tăng việc sát nhập và thôn tính các công ty ngoại quốc của công ty xuyên quốc gia, trong đó chủ yếu là của Mỹ và Tây Âu là một trong những nguyên nhân gây bùng nổ đầu tư ra nước ngoài( giai đoạn 1995-1996).
Công ty xuyên quốc gia tác động đến động thái dòng vốn đầu tư nước ngoài. Giai đoạn 1982-1999, dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 4 lần và đạt con số 2,3 nghìn tỉ USD và năm 1996. Hơn nữa, công ty xuyên quốc gia làm thay đổi xu hướng đầu tư giữa các nước. Trong giai đoạn bùng nổ đầu tư nước ngoài 1995-1996, có sự tham gia đáng kể của các dòng vốn nước ngoài trên phạm vi toàn cầu.
Cơ cấu dòng vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi lớn do điều chỉnh chiến lược kinh doanh của công ty xuyên quốc gia. Trong những thập kỷ gần đây, công ty xuyên quốc gia đã chuyển sang hoạt động ở phạm vi rất rộng cả về tính chất kinh doanh (đa doanh) và khu vực lãnh thổ. Thêm vào đó cùng với sự phát triển mạnh của thị trường tài chính quốc tế đã thúc đẩy hình thức đầu tư gián tiếp ngày càng gia tăng. Những ngành chế tạo với công nghệ hiện đại,các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm được chú ý phát triển.
Nhờ chính sách tự do hoá FDI, công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với thúc đẩy dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Theo thống kê năm 1997 của công ty tài chính quốc tế - IFC, dòng vốn FDI thực hiện bởi công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển tăng dần qua các năm trong gần 3 thập kỷ lại đây, đặc biệt tăng nhanh từ sau giữa thập kỷ 80. Nếu trước 1995 tổng dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển chỉ đạt bình quân khoảng 5,6 tỉ USD và tăng 1,7% năm, thì sau đó dòng vốn đã tăng nhanh từ mức gần 15 tỉ USD ( 1985) lên tới hơn 40 tỉ USD ( 1990) và tiếp tục tăng khoảng 110 tỉ USD ( 19960 và 138,2 tỉ USD 1997). Có thể nói các công ty xuyên quốc gia có vai trò rất lớn đối với thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển.
Có thể nói công ty xuyên quốc gia có vai trò rất lớn đối với thúc đẩy lưu chuyển dòng vốn FDI trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển.
1.3. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm.
Công ty xuyên quốc gia tác động đến phát triển nguồn nhân lực theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Cách trực tiếp thông qua các dự án đầu tư, công ty xuyên quốc gia đào tạo nguồn nhân lực- lực lượng lao động đa phương để phục vụ cho nhu cầu hoạt động của dự án. Cách gián tiếp là tạo ra các cơ hội liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ) động lực( cạnh tranh) cho sự phát triển; lực lượng lao động địa phương. ở các nước đang phát triển,các tác động này có vai trò rất lớn đối với phát triển nguồn lực lao động, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao năng xuất lao động ở các nước này.
Các công ty xuyên quốc gia có chương trình trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu và đào tạo nghề, quản lý đồng thời công ty xuyên quốc gia đã cung cấp thiết bị khoa học cho các trường đại học, viện nghiên cứu.
Theo ước tính, công ty xuyên quốc gia đã tạo được khoảng 45 triệu lao động giữa những năm 1970 và 10 năm sau đạt gần 65 triệu lao động, con số này tăng lên 70 triệu và giữa những năm của thập kỷ 90, trong đó có khoảng 2/3 số việc làm đựơc tạo ra ở các nước đang phát triển.
Nhìn chung công ty xuyên quốc gia thường tạo việc làm ở các ngành công nghiệp và dịch vụ hơn là trong nông nghiệp và hơn ngành khác. Tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp ước tính khoảng 4/5 tổng số lao động được tạo ra bởi công ty xuyên quốc gia. Điều này phản ánh đặc điểm của công ty xuyên quốc gia chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực côngnghiệp và dịch vụ. Nhiều việc làm gián tiếp theo ước tính chiếm một nửa tổng số việc làm được tạo ra bởi các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển. Số việc làm được tạo ra một cách trực tiếp hay gián tiếp, ước tính công ty xuyên quốc gia đã tạo ra khoảng 150 triệu lao động( chiếm hkoảng 3% lượng lao động trên thế giới).
2. Nghiên cứu- phát triển và chuyển giao công nghệ.
2.1. Định hướng chính sách.
Trong chiến lược phát triển của mình, các công ty xuyên quốc gia luôn đặt vấn đề công nghệ lên hàng đầu đi đầu trong công nghệ cũng có nghĩa là tiến trước đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy sự phát triển công nghệ đối với mỗi một công ty xuyên quốc gia là yếu tố sống còn và hoạt động nghiên cứu và phát triển luôn là hướng ưu tiên trong chính sách của các công ty xuyên quốc gia.
Nghiên cứu và phát triển luôn mang lại cho các công ty sức cạnh tranh mang tính độc quyền cao. Trước đây, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư lớn cho , các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu…cho ra các phát minh, sáng chế…và nhệm vụ của các công ty là thương mại hoá các phát minh sáng chế đó. Quá trình thương mại hoá đó thực chất là dòng chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty (các chi nhánh ) trên khắp thế giới. Ngày nay trong các công ty Xuyên quốc gia đang diễn ra quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ khâu nghiên cứu và phát triển công nghệ. Công nghệ mới ra đời không chỉ trong các phòng thí nghiệm; các viện nghiên cứu mà còn từ các trường đại học và ngay tại các xí nghiệp, cơ sở sản xuất của các công ty xuyên quốc gia.
Trước đây hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ chủ yếu diễn ra ở các nước có các công ty “mẹ”. Xong ngày nay chính áp lực của cạnh tranh, hoạt động này đang được tiến hành ở nhiều nước.
Hiện nay, nhiều nước đang phát triển đã xây dựng các cơ sở đào tạo chuyên sâu, các trung tâm nghiên cứu hoặc khu công nghệ và khoa học; chúng đã trở thành những nước nhận đầu tư vào các ngành, các đầu vào công nghệ cao.
Để nâng cao hiệu quả của các hoạt động này, ngày nay các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành liên kết để tiến hành hoạt động này.
Có hai cách để tiến hành liên kết hoạt động này. Đó là liên kết theo chiều ngang giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm cam kết với nhau về một loại thị trường hàng hoá nào đó, hoặc cùng nghiên cứu chung để tránh sự cạnh tranh của các đối thủ. Cách khác là liên kết theo chiều dọc các công ty có hoạt động và sản phẩm tương ứng, hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ chúng sẽ làm tăng cường đổi mới của các công ty và tránh được cạnh tranh.
Phương thức chuyển giao của các công ty xuyên quốc gia thường phân làm hai cấp độ. Thứ nhất : chuyển giao các quy trình công nghệ hiện đại, kỹ thuật mới… trong nội bộ các công ty. Thứ hai: Chuyển giao các công nghệ lạc hậu hơn cho xí nghiệp liên doanh hoặc từ các chi nhánh của mình tới các công ty địa phương của nước chủ nhà. Với phương thức này các công ty xuyên quốc gia luôn giữ được khoảng cách an toàn và bành trướng ảnh hưởng của mình trên quy mô toàn cầu.
Có thể nói chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia xuất phát từ sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia phải cải tiến kỹ thuật và nâng dần mặt bằng công nghệ trong hệ thống chi nhánh của mìnhg nếu muốn tồn tại lâu dài. Các công ty xuyên quốc gia nào muốn giữ độc quyền và không còn giữ được sự khống chế của mình trong một số ngành vì các nước cũng có thể tìm kiếm công nghệ từ các công ty xuyên quốc gia khác, cũng như có thể trang bị cho mình những yếu tố cần thiết để có thể có được công nghệ cao.
Chính sách chuyển giao công nghệ của công ty xuyên quốc gia không bị tách rời mà luôn nằm trong hệ thống hàng loạt các chính sách và chiến lược phát triển của công ty. Sự phối hợp của chính sách chuyển giao công nghệ với các chính sách thương mại, đầu tư, nghiên cứu và phát triển công nghệ, cùng với các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực đã tạo nên hàng loạt các kênh khác nhau phục vụ cho quá trình chuyển giao này.
2.2. Hợp đồng công nghệ liên công ty.
Một trong những hướng liên kết các công ty xuyên quốc gia nhằm nâng cao trình độ công nghệ hiện đại là việc thực hiện các hợp đồng liên công ty xuyên quốc gia. Bao gồm các thoả thuận về nghiên cứu và triển khai những thoả thuận trong quá trình sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ giữa các công ty xuyên quốc gia với nhau. Trong số này có một hợp đồng liên quan đến công nghệ.
Số lượng hợp đồng công nghệ có xu hướng tăng theo sự thay đổi của phương thức sản xuất và cạnh tranh giữa các công ty, quá trình sản xuất trong hầu hết các ngành đều cần một lượng tri thức lớn, điều đó làm tăng chi phí nghiên cứu và phát triển công nghệ, tăng tốc độ phát triển và thâm nhập của sản phẩm mới vào thị trường. Rút ngắn vòng đời của sản phẩm đồng nghĩa với tăng rủi ro và những bất trắc để theo kịp sự phát triển xa hơn trên mặt trận công nghệ. Trước những điều kiện đó của cạnh tranh, các công ty phải tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghệ thông qua các hợp đồng liên công ty.
Đối với những công ty thuộc các nước phát triển hợp đồng công nghệ liên công ty là phương tiện chính yếu để duy trì tính linh hoạt, mở rộng khả năng tiếp cận với công nghệ của nhiều ngành khác nhau.
Hình thức hợp tác này là chiếc cầu nối với nền tảng tri thức ở nước ngoài, là phương tiện giúp cho các nước đang phát triển theo kịp công nghệ phát triển nhằm nâng cao, thúc đẩy nguồn phát triển và nghiên cứu riêng, xây dựng uy tín nhằm phục vụ cho việc thu hút đối tác và khách hàng nước ngoài.
Bên cạnh những thuận lợi, những lợi ích mà chuyển giao công nghệ mang lại là những khó khăn do hoạt động này gây ra. Đó là sự lệ thuộc về công nghệ của các nước vào các công ty xuyên quốc gia là các điêù kiện bắt buộc kèm theo khi tham gia liên kết các hợp đồng…
III. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam.
1. Đặc điểm hoạt động và sự tác động tới nền kinh tế Việt Nam.
1.1. Đặc điểm hoạt động.
Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam có nguồn gốc từ nhiều nước nhưng phổ biến là từ các nước đang phát triển châu á.
Từ những năm 1988-1997, phần đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Đông á( trừ Nhật Bản còn lại là các nước đang phát triển) đã chiếm tới 64,8% trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Riêng năm 1998 là44,9% và năm 1999 là 60,4%. Nghĩa là trong số hàng ngàn các công ty nước ngoài thuộc 72 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư thuộc ASEAN chiếm 24,56%. (Singapore:16,97%; Thái Lan:3,04%; Malaisia: 2,44%); các nước đông bắc á chiếm 42,9%(Đài loan:13,8%; Nhật Bản: 10,6%;Hồng kông:9,78%;Hàn Quốc:8,94%) Châu âu chiếm 21,05% và mỹ chiếm 3,61%. Do đầu tư vào Việt Nam chủ yếu thực hiện từ công ty xuyên quốc gia Châu á hầu hết chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, thu hẹp các khoản đầu tư mới cũng như sự trì trệ trong việc thực hiện các số vốn đầu tư đã cam kết.
Mặt khác trong 2492 dự án cấp giấy phép hoạt động trong vòng 10 năm (1988- 1998), đã có 447 dự án bị rút giấy phép. Các nước thuộc châu á rút nhiều giấy phép nhất. Trong hoạt động của các công ty này tại Việt Nam còn chịu nhiều tác động của kinh tế và chính trị.
Các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xét trên các chỉ tiêu về quy mô vốn, trình độ công nghệ, phạm vi ảnh hưởng thị trường thế giới… thì ở Việt Nam còn có quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn.
Một số công ty xuyên quốc gia lớn đã thiết lập và duy trì các quan hệ kinh tế dài hạn với Việt Nam. Điều đáng kể nhất là các tập đoàn này do có nhiều tiềm lực hùng hậu về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức điều hành… luôn hoạt động theo chiến lược dài hạn. Do vậy, có khi nền kinh tế các nước đối tác gặp khó khăn( như Việt Nam hiện nay) các công ty này có thể điều chỉnh chiến lược đầu tư, giảm tiến độ thực hiện dự án cũ và chưa triển khai dự mới… nhưng rất hiếm khi rút vốn, từ bỏ sự hiện diện của mình.
Phần đầu tư các nhánh của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu của các công ty vừa và nhỏ. Bình quân các dự án đầu tư vào Việt Nam chỉ đạt dưới 20 triệu USD. Các ngành đầu tư chủ yếu là ngành điện, điện tử, dệt may, nông- lâm- hải sản, dịch vụ du lịch và khách sạn…hiện trạng này có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Thứ nhất: Lợi thế so sánh chủ yếu của Việt Nam là những ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên vật chất nên công nghệ chuyển giao thường không cao. Cạnh tranh trên thị tường quốc tế đã chuyển trọng tâm sang cho các ngành đòi hỏi có hàm lượng kỹ thuật cao về công nghệ và tri thức thì theo lôgic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu, phần xâm nhập voà thị trường Việt Nam chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thứ hai: Phần đầu tư và chu chuyển thương mại với Việt Nam được thực hiện chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia Châu á, các công ty xuyên quốc gia vừa và nhỏ.
Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35662.doc