MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài .2
Chương II: Đánh giá thực tiễn .2
I/ Những thành tựu
1. Những thành tựu trong nông lâm ngư ngiệp
2. Thành tựu ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp
II/ Những yếu kém cần giải quyết
1. Cơ cấu nông nghiệp lạc hậu và chuyển dịch chậm
2. Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều bất cập
3. Trình độ khoa học và công nghệ năng suất lao động trong nông nghiệp thấp
Chương III: Nhiệm vụ, giải pháp, kiến nghị thực hiện đề tài.6
1. Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững
2. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong nông nghiệp
Lời kết thúc . .8 Trang tài liệu tham khảo . 9
Trang mục lục .9
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bàn về vấn đề đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ lên Chủ nghĩa xã hội, Việt Nam có rất nhiều mục tiêu phải đạt được, nhiều nhiệm vụ phải hoàn thành. Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, chúng ta gặp khá nhiều khó khăn bởi sự nghèo nàn về cơ sở vật chất, sự yếu kém trong công nghệ sản xuất, năng suất lao động thấp,…. Trong khi đó Chủ nghĩa xã hội nhắm tới việc xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì thế xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của đất nước ta. Tuy nhiên, để đẩy nhanh việc tạo dựng nền tảng đó cần có phương tiện, cách thức thực hiện hữu hiệu, đó là Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) là: “…quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Và tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Vai trò của Công nghiệp hoá và hiện đại hoá tỏ ra hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng đổi mới toàn diện đất nước, cho nên Nhà nước ta cần hoạch định chiến lược, bước đi rõ ràng để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng con đường tối ưu. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta cần nhìn lại những điều đã và đang làm được cũng như những tồn tại cần giải quyết trong từng ngành cụ thể (trong bài tiểu luận này, người viết khái quát thực tiễn xây dựng và phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam). Từ đó rút ra những vẫn đề cần khắc phục và kiến nghị một số giải pháp thực tiễn.
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài.
Tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội. Đó là quá trình mang tính quy luật, bởi vì: ngay từ sự quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa tư bản đã có cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản, nhưng đó mới là tiền đề vật chất sẵn có. Muốn biến nó thành cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội cần tiến hành một loạt các cuộc cách mạng cải biến về quan hệ sản xuất, tiếp tục vận dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, phân bố, tổ chức lại và hiện đại hóa cao hơn.
Ở nước ta, một nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên Chủ nghĩa xã hội nên việc tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật càng là tất yếu và cần thiết. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có vai trò hết sức quan trọng trong mọi mặt từ kinh tế, chính trị- xã hội và an ninh quốc phòng.
Về kinh tế: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra máy móc, tạo ra sức sản xuất mới- cơ sở để tăng năng suất lao động, tạo ra cơ sở kinh tế, làm chỗ dựa cho việc cải tạo và phát triển các ngành kinh tế quốc dân khác, tạo điều kiện vật chất cho nền kinh tế độc lập tự chủ, có khả năng tham gia phân công hợp tác quốc tế.
Về chính trị- xã hội: có Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có điều kiện để tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, tạo tiền đề liên minh vững chắc giữa công nhân- nông dân- trí thức. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển lực lượng sản xuất cũng tạo ra tiền đề để củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tạo điều kiện phát triển tự do và toàn diện con người. việc hình thành các trung tâm công nghiệp và đô thị hoá xoá dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Cuối cùng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất- kỹ thuật để tăng cường an ninh quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nội dung chủ yếu là: xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong chặng đường đầu tiến lên Chủ nghĩa xã hội nội dung này được biểu hiện cụ thể như sau:
Phát triển nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và các ngành kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, mở rộng kinh tế dịch vụ, khai thác triệt để các khả năng để sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành sản xuất tư liệu sản xuất, khai thác và chế biến khoáng sản nhằm trước hết phục vụ nhu cầu sản xuất nông lâm ngư nghiệp.
Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên phát triển điện, mạng lưới giao thông vận tải đường bộ, đường thuỷ, hàng không và mạng lưới thông tin liên lạc.
Xây dựng và phát triển các vùng kinh tế để hình thành cơ cấu kinh tế vùng và sử dụng có hiệu quả kinh tế nhiều thành phần.
Để tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có kết quả cần giải quyết các yêu cầu chủ yếu sau:
Tạo nguồn vốn để Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.
Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất.
Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân lành nghề.
Chương II: Đánh giá thực tiễn
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986 với khởi đầu là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Sau hơn 20 năm, bối cảnh kinh tế xã hội của nước ta đã thay đổi rất to lớn, tuy vậy, nông nghiệp, nông thôn vẫn là một trong những trọng tâm của tiến trình đổi mới. Ngay trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã khẳng định quan điểm: “Coi Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”. Qua một thời gian đổi mới chưa dài nhưng cũng đã có đủ cơ sở để chúng ta nhìn lại những thành tựu đã và đang đạt được cùng những thiếu sót, hạn chế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của nước ta. Trong khuôn khổ của tiểu luận, người viết chỉ xin được đề cập đến thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới.
I/ Những thành tựu:
Thành tựu trong nông lâm ngư nghiệp:
Trong nhiều năm qua ngành nông nghiệp là ngành đã đạt và duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục (3,9%/năm). Điều này cho thấy năng lực sản xuất nông nghiệp của nước ta đã không ngừng tăng lên. Sản lượng lương thực bình quân đầu người luôn tăng năm sau cao hơn năm trước, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia..
Trong nền nông nghiệp, đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn với tỷ trọng sản phẩm hàng hoá và xuất khẩu đạt cao, hình thành các mối liên kết giữa sản xuất- chế biến- tiêu thụ và xuất khẩu hàng hoá nông sản. Đây là cơ sở vững chắc để nước ta tiến nhanh hơn trên con đường Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
Thành tựu ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp:
Khoa học và công nghệ đã góp phần tạo ra sự chuyển biến về chất của nền nông nghiệp nước ta. Nó không chỉ nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất, sản phẩm, thúc đẩy sản xuất hàng hoá, mà còn góp phần đưa nền nông nghiệp tiến gần tới cách tiếp cận phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
Những thành tựu khoa học và công nghệ được tạo ra và ứng dụng rộng rãi trong những năm qua tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu sau đây: cơ cấu mùa vụ; cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi; các giống mới có năng suất cao, thích hợp với các điều kiện sinh thái, chống dịch bệnh; các giống lai; các biện pháp bảo vệ thực vật; các công nghệ tưới tiêu; phương thức canh tác; các công thức thức ăn; vắc-xin phòng bệnh; quy trình nuôi dưỡng; công nghệ sau thu hoạch;... Đặc biệt, công nghệ sinh học đã được nghiên cứu và ứng dụng ngày càng sâu rộng trong nông nghiệp, mở ra triển vọng phát triển tốt trong tương lai.
Dưới đây là một số thành tựu khoa học công nghệ được ứng dụng vào một số lĩnh vực nông nghiệp:
- Trong giai đoạn 1996-2004, các nhà khoa học Việt Nam đã tuyển chọn, tạo được 345 giống cây trồng nông nghiệp mới, trong đó có 149 giống lúa, 44 giống ngô, 14 giống lạc, v.v. Tính riêng trong hai năm 2003-2004, các giống cây trồng do các nhà khoa học Việt Nam tạo và sử dụng trong sản xuất chiếm tỷ lệ diện tích như sau: lúa 45,1% (Đồng bằng Sông Cửu Long 72%); ngô 46,6%; lạc 70,1%; v.v.
Cùng với giống, biện pháp canh tác tổng hợp đã được ứng dụng có hiệu quả: ứng dụng công nghệ hạt giống trong hệ thống sản xuất 4 cấp; kỹ thuật thâm canh lúa 3 giảm-3 tăng (giảm giống gieo, phân bón, thuốc trừ sâu và tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả) đã được phát triển thành công trên diện rộng ở Đồng bằng Sông Cửu Long, tăng thu nhập bình quân 1 triệu đồng/ha/vụ; kỹ thuật quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây ăn quả, cây công nghiệp,… đã làm giảm lượng thuốc trừ sâu 2-6 lần, giảm chi phí sản xuất 1,5 triệu đồng/ha/vụ; v.v.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, việc ứng dụng phương thức chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp đã nâng tỷ trọng chăn nuôi trong toàn ngành nông nghiệp tăng từ 17,9% năm 1986 lên 20% năm 2004.
Trong lĩnh vực thuỷ nông, các nhà khoa học Việt Nam đã hoàn thành luận cứ khoa học áp dụng cho công tác quy hoạch thuỷ lợi, tính cân bằng, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn nước cho 7 vùng sinh thái, đảm bảo tưới cho 7,1 triệu ha lúa, hơn 1 triệu ha rau màu, cây công nghiệp, tiêu úng cho 1,71 triệu ha đất nông nghiệp, cấp 5 tỷ m3 nước/năm cho sinh hoạt và nông nghiệp. Nhiều thành tựu cũng đạt được trong lĩnh vực cải tạo đất với việc cải tạo thau chua, rửa mặn cho 1 triệu ha đất phèn ở Đồng bằng Sông Cửu Long thành đất hai vụ lúa năng suất cao, áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, tưới nhỏ giọt cho cây vùng đồi góp phần đưa năng suất lúa, cây ăn quả, cây công nghiệp tăng khoảng 1,2- 1,5 lần lại tiết kiệm 70% lượng nước tưới.
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 144 (21/7/2005), tr. 6.
- Một bước phát triển đáng chú ý nữa là sự hình thành các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta. Đến nay, đã có một khu nông nghiệp công nghệ cao hoàn thành và đi vào hoạt động ở Hà Nội, hai khu đang trong quá trình triển khai xây dựng tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng; và các địa phương khác như Lâm Đồng, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Dương, Sơn La, Bạc Liêu, Hưng Yên, Thái Bình, Đồng Nai, Tây Ninh,… cũng đã có kế hoạch xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Đây là những khu sản xuất nông nghiệp sử dụng công nghệ gen để sản xuất giống cây trồng vật nuôi, sử dụng kỹ thuật tự động hoá, công nghệ thông tin để điều khiển các quá trình sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi. Khu nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội đi vào hoạt động từ tháng 9/2004 và cho đến nay được đánh giá là mang lại hiệu quả cao thực sự. Mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được coi là một phương thức sản xuất mới và là xu thế tất yếu để thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là ở những vùng đồng bằng và ven đô thị.
II/ Những yếu kém và vấn đề cần được giải quyết:
Bước đầu xây dựng, đổi mới chắc chắn chúng ta không thể tránh khỏi những hạn chế và yếu kém. Cuối tháng 11/2005, theo nhận định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sau khi thực hiện Chương trình giám sát thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn từ năm 2001 đến nay, những yếu kém này thể hiện ở các chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, khoa học và công nghệ, hỗ trợ vốn, tín dụng nhà nước, chính sách việc làm, thị trường nông sản và việc xây dựng quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn. Những phần dưới đây trình bày cụ thể hơn những yếu kém và những vấn đề cần giải quyết trong phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu và chuyển dịch chậm
Sự lạc hậu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta thể hiện ở chỗ ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp, trong khi đó tỷ trọng ngành chăn nuôi tương đối thấp và tỷ trọng ngành dịch vụ không đáng kể. Hơn thế nữa, cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong những năm qua chuyển dịch rất chậm chạp. Tỷ trọng các ngành biến động trồi sụt theo từng năm không theo xu hướng rõ ràng. Trong vòng 15 năm qua, tỷ trọng trồng trọt chỉ dao động trong khoảng 75,4-77,9%; tỷ trọng chăn nuôi dao động trong khoảng 17,8-22,4%; và tỷ trọng dịch vụ dao động trong khoảng 2,1-2,98%.
Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều bất cập
Một trong những cản trở lớn đối với Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn nước ta trong nhiều năm qua là tính chất nhỏ lẻ, phân tán của sản xuất hàng hoá. Mặc dù nước ta đã bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn, nhưng chúng chưa thể tạo ra được sự thay đổi căn bản về tính chất sản xuất của cả nền nông nghiệp. Hiện nay, chỉ có các vùng chuyên canh lúa, cao su, cà phê và chè là tương đối ổn định, trong khi đó các vùng chuyên canh khác mới đang trong quá trình hình thành, ít về số lượng, nhỏ về quy mô và chưa ổn định. Các vùng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động tích cực của khoa học và công nghệ, trình độ cơ giới hoá thấp, và luôn gặp khó khăn về thị trường. Trong khi đó, công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung lại rất yếu kém. Hàng loạt các quy hoạch sai về sản xuất mía đường, cà phê, nuôi cá lồng bè,… đã gây ra những hậu quả tiêu cực không nhỏ.
Trình độ khoa học và công nghệ năng suất lao động trong nông nghiệp thấp
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong khoa học và công nghệ nhưng nhìn chung trình độ kỹ thuật của nước ta còn thấp kém. Trình độ cơ giới hoá, cơ khí hoá chưa cao, công nghệ chế biến nông sản còn rất lạc hậu. Tỷ lệ nông sản được chế biến bằng công nghệ hiện đại rất thấp. Khoảng cách chênh lệch giữa các chỉ tiêu hiện tại với chỉ tiêu hoạch định cho năm 2020 để nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại là rất lớn.
Hệ quả là năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của đa số các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ. Năng suất lúa của Việt Nam mới bằng 65% của Trung Quốc; năng suất cao su mới bằng 50% của Malaysia, Thái Lan; chi phí thức ăn cho một đơn vị tăng trọng lợn cao hơn khoảng 1,5 lần so với các nước tiên tiến. Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, Việt Nam đã tụt hậu so với một số nước trong khu vực. Mặc dù trong những năm qua, các kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là khá phong phú và đa dạng, nhưng việc thương mại hoá kết quả nghiên cứu để triển khai ở quy mô công nghiệp lại rất hạn chế. Hiện nay, các nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Inđônêsia, Philippin đều đã có văn bản của Nhà nước hướng dẫn việc thử nghiệm, đánh giá và cho phép sử dụng sinh vật biến đổi gien (GMO), trong khi chúng ta chưa ban hành văn bản này. Đây cũng là một cản trở lớn làm chậm tiến độ hội nhập trong lĩnh vực công nghệ sinh học của Việt Nam.
Cho đến nay, ở nước ta chưa hình thành được các trung tâm khoa học và công nghệ nông nghiệp cao với đầy đủ các chức năng: nghiên cứu, ứng dụng, trình diễn, chuyển giao thành quả khoa học và công nghệ tiên tiến về giống cây trồng, vật nuôi, hệ thống sản xuất, bảo quản, chế biến, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm có năng suất, chất lượng cao cho các cơ sở sản xuất. Hệ thống nghiên cứu và chuyển giao khoa học và công nghệ nói chung còn nhiều bất cập; hệ thống quản lý thuỷ nông, thú y, bảo vệ thực vật, cung ứng giống, vật tư nông nghiệp, v.v. còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiệu quả cao.
Về lao động nông nghiệp, phần lớn là có trình độ thấp và lệ thuộc nặng vào mùa vụ, cộng với trình độ khoa học và công nghệ thấp như đã nêu trên đây, nên năng suất lao động trong nông nghiệp thấp. Tính bình quân chung cả nước, giá trị nông sản được làm ra trên 1 héc-ta đất chỉ đạt khoảng 17 triệu đồng/năm (trong khi nhiều nước châu Á đã đạt được 75-150 triệu đồng/héc-ta/năm). Điều này có nghĩa là bình quân một nhân khẩu nông nghiệp chỉ thu được khoảng 2,72 triệu đồng/năm, trong đó thu nhập ròng (giá trị gia tăng) khoảng 1,36 triệu đồng/năm, tức là 113,333 nghìn đồng/tháng. Đây là con số rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chương III: Nhiệm vụ, giải pháp và kiến nghị của đề tài.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững
Xu hướng hiện nay trên thế giới không phải là phát triển nhanh mà là phát triển bền vững. Theo xu thế đó, đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta chính là phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy cần định hướng các hoạt động kinh tế hướng tới công tác bảo vệ môi trường sinh thái trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững cần xác định các chủ trương và biện pháp phải gắn kết được phát triển kinh tế- xã hội với củng cố và bảo vệ môi trường. Muốn vậy, cần phải có những sự điều chỉnh chính sách cần thiết, nhất là đối với những chính sách như sau:
Chính sách đất đai, hướng tới mục tiêu sử dụng đất bền vững.
Chính sách khoa học và công nghệ, cần tăng cường các nội dung nghiên cứu và ứng dụng có liên quan đến nguyên lý phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong nông nghiệp:
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO, phải có những điều chỉnh và bổ sung về chính sách và biện pháp để nền nông nghiệp hội nhập đạt hiệu quả cao. Giải pháp tổng thể là phải phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn có năng suất và hiệu quả cao, đảm bảo sức cạnh tranh cao của hàng nông sản, chiếm lĩnh thị trường thế giới:
Thực hiện tự do hoá thương mại đối với hàng nông sản với những tính toán hợp lý, đảm bảo lợi ích cao nhất mà không vi phạm các hiệp định quốc tế, theo đó:
+ Đẩy mạnh tự do hoá xuất, nhập khẩu đối với những mặt hàng mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thuỷ sản,… Đây là những mặt hàng Việt Nam có lợi thế về điều kiện tự nhiên, lao động rẻ và có sản lượng lớn có thể xuất khẩu. Vấn đề đặt ra là cần tăng cường nghiên cứu để xác định những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trong từng giai đoạn.
+ Thực hiện các biện pháp bảo hộ có điều kiện và có thời hạn đối với những mặt hàng nông sản có khả năng cạnh tranh trung bình như cao su, chè, ngô, rau quả, tơ tằm,… Đây là những mặt hàng Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn nhân lực sẵn có nhưng năng lực của các nhà sản xuất, chế biến còn yếu. Biện pháp là áp dụng thuế quan từng bước được cắt giảm, đồng thời có thể áp dụng các biện pháp bảo hộ được quy định tại Hộp xanh lá cây và Hộp xanh da trời trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO.
+ Đối với những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh thấp như thịt gia súc, gia cầm, mía đường, bông, đậu tương, sữa,… cần áp dụng hạn ngạch để điều tiết lượng cung ứng và giá cả. Đồng thời, cần áp dụng những biện pháp hỗ trợ sản xuất với ưu tiên cụ thể theo vùng trọng điểm có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển những nông sản này. Tuy nhiên, đối với một số sản phẩm có sức cạnh tranh quá thấp, không có khả năng phát triển, thì có thể tự do hoá hoàn toàn.
Tiến hành nghiên cứu và tăng cường áp dụng các biện pháp phi thuế quan mới mà WTO cho phép trong thương mại nông nghiệp như: biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS); các biện pháp tự vệ, tự vệ đặc biệt; các biện pháp chống bán phá giá; các biện pháp đối kháng; các biện pháp liên quan đến môi trường;… Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quy định nội dung của các biện pháp này.
Về giá cả, cần thực hiện chính sách giá nông sản linh hoạt. Đối với những mặt hàng xuất khẩu lớn, cần xây dựng chính sách giá xuất khẩu tạo khả năng cạnh tranh chung cho toàn ngành sản phẩm (giá liên kết giữa các nhà xuất khẩu).
Thực hiện các biện pháp nhằm mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nông sản; tăng cường hệ thống thông tin thị trường về giá cả, sản lượng, tình hình cung-cầu về các mặt hàng nông sản trên thế giới cho người sản xuất; các bộ chuyên ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thương mại cần có những nghiên cứu dự báo thị trường, đưa ra các khuyến nghị hỗ trợ người sản xuất trong việc ra các quyết định sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại với vai trò hỗ trợ thiết yếu của Chính phủ thông qua các bộ chức năng;…
LỜI KẾT THÚC
Trong bối cảnh nước ta đang hướng tới hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, và xa hơn nữa là tiến đến một quốc gia “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều tất yếu khách quan. Riêng đối với việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vẫn luôn được đưa lên hàng đầu trong chương trình nghị sự của quốc gia. Để có một hướng đi rõ ràng, chúng ta càn nhìn nhận những thuận lợi và khó khăn chủ quan cũng như khách quan của ngành nông nghiệp nước nhà. Từ đó hoạch định các đường lối thật phù hợp với hoàn cảnh riêng của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Một cách khái quát, có thể thấy những thuận lợi và khó khăn đó là:
- Nước ta có vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng nhưng chưa được khai thác có hiệu quả, tài nguyên đang bị xuống cấp nhanh.
- Nông thôn có lực lượng lao động dồi dào, rẻ, cần cù nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, năng suất thấp, tỷ lệ lao động thất nghiệp và thiếu việc làm cao.
- Nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư có thể được huy động cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn lớn, nhưng còn ít các cơ hội và điều kiện đầu tư thực sự hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này.
- Quy mô thị trường trong nước tương đối lớn và ngày càng tăng, nhưng mức thu nhập chung của dân cư còn thấp, sự chênh lệch thu nhập tăng.
- Thị trường thế giới đang điều chỉnh trong quá trình toàn cầu hoá, nhu cầu nông sản ở nhiều nước trong vùng, nhất là Trung Quốc đang tăng nhanh, nhưng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản nước ta nhìn chung còn yếu trong bối cảnh cạnh tranh thương mại thế giới gay gắt.
- Sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, tạo điều kiện cho nước ta tận dụng tốt lợi thế là nước đi sau, tăng cường áp dụng những tiến bộ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhưng năng lực chuyển giao và hấp thụ công nghệ mới thấp.
- Trong những năm qua, nông nghiệp tuy tăng trưởng khá nhanh và liên tục nhưng chưa được tận dụng để tăng thu nhập và tăng khả năng tái sản xuất của nông dân, trong khi đó công nghiệp và dịch vụ chưa hỗ trợ đắc lực cho phát triển nông nghiệp.
- Nền kinh tế nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới ở mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã đạt được những thành quả tích cực và tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ, tuy nhiên hệ quả của cải cách đối với nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế tương đối, và đổi mới trong lĩnh vực này còn gặp phải không ít ràng buộc.
- Nông thôn Việt Nam có nhiều nhân tố truyền thống tốt đẹp và xuất hiện các nhân tố mới thúc đẩy sự phát triển, tuy nhiên vẫn còn không ít nhân tố lạc hậu và những nhân tố mặt trái kìm hãm sự phát triển.
Nhận định khái quát về thuận lợi và khó khăn trên đây gợi ra những định hướng giải pháp quan trọng, có thể nêu ra một số khâu đột phá đóng vai trò như “bí quyết” của sự thành công như sau:
- Đẩy mạnh cải cách chính sách đất đai.
- Đổi mới công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Đẩy mạnh thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn.
- Thúc đẩy sự phát triển của các loại thị trường ở nông thôn.
- Đẩy mạnh phát triển văn hoá, xã hội và bảo vệ môi trường ở nông thôn, mở rộng dân chủ, phát triển con người.
Tài liệu tham khảo:
Hướng dẫn ôn thi môn Kinh tế chính trị Mác Lenin – NXB Hà Nội năm 2000
Đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá Việt Nam – Trung tâm thông tin tư liệu CIEM.
Những chủ trương và biện pháp mới trong giai đoạn 2006-2020 về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn – Trung tâm thông tin tư liệu CIEM.
Một số vấn về đề Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá sau 20 năm đổi mới – GS. Đỗ Quốc Sam.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương- Cổng thông tin kinh tế Việt Nam- www.vnep. org.vn.
MỤC LỤC
Lời mở đầu ………………………………………………………………………2
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài……………………………………………..2
Chương II: Đánh giá thực tiễn………………………………………………….2
I/ Những thành tựu
Những thành tựu trong nông lâm ngư ngiệp
Thành tựu ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp
II/ Những yếu kém cần giải quyết
Cơ cấu nông nghiệp lạc hậu và chuyển dịch chậm
Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều bất cập
Trình độ khoa học và công nghệ năng suất lao động trong nông nghiệp thấp
Chương III: Nhiệm vụ, giải pháp, kiến nghị thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bàn về vấn đề đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá ở Việt Nam.doc