Tiểu luận Bảo đảm quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam

Bảo đảm quyền con người là một chính sách nhất quáncủa Đảng và

Nhà nước Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân tiến

hành Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân,

thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã long trọng công bố trước toàn thế giới bản Tuyên ngôn độc lập,

lần đầu tiên khẳng định tôn trọng các quyền công dân và quyền con người

trên đất nước Việt Nam: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.

Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạmđược, trong những

quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.

pdf33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8141 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bảo đảm quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Theo C.Mác thì con người luôn gắn liền với Nhà nước, với xã hội. Mỗi con người đều tồn tại trong một cộng đồng quốc gia, một dân tộc nhất định. Cho nên C.Mác cho là quyền con người, quyền công dân luôn nằm trong một thể thống nhất, vừa có tính độc lập, vừa có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, Lênin cũng đã khẳng định “quyền con người, quyền công dân không thể tách rời nhau một cách biệt lập được”. Ngày nay, trên thế giới, các quốc gia đều quy định trong Hiến pháp – văn bản pháp lý cao nhất các chế định về quyền và nghĩa vụ của công dân, đó là việc cụ hóa thể quyền con người, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân cũng chính là đảm bảo quyền con người. Thứ hai, Quyền con người là một khái niệm rộng, vừa ghi nhận quyền của cá nhân ở phạm vi quốc tế vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định còn khái niệm quyền công dân thì ở một mức độ hẹp hơn, chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, được pháp luật quốc gia ghi nhận, TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 10 - do đó không thể bao quát hết tất cả các quyền tự nhiên vốn có của cá nhân con người. Về chủ thể thì quyền con người ngoài những các nhân là công dân của một quốc gia thì nó còn bao gồm cả những người không phải là công dân như người nước ngoài, người không quốc tịch, người bị tước quyền công dân… Còn quyền công dân thì chủ thể của nó phải là những người có mối liên hệ đặc thù với quốc gia, phải là công dân của quốc gia. Do vậy, không thể đồng nhất hai khái niệm quyền con người và quyền công dân về mọi phương diện, tuy nhiên ở một khía cạnh nào đó, ta cũng có thể xem quyền công dân là quyền con người trong một xã hội nhất định, có một nền pháp luật cụ thể. Thứ ba, việc ghi nhận quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp cũng phải khác nhau, phải được phân định một cách rõ ràng. Các quyền về chính trị được quy định dưới dạng quyền công dân còn các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sự thì nên quy định dưới dạng quyền con người nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân có thể được hưởng quyền của mình một cách bình đẳng nhất. Như vậy, có thể thấy quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất với nhau, nhưng ở một khía cạnh nào đó thì chúng lại thống nhất với nhau. Quyền công dân không thể nằm ngoài quyền con người và ngược lại không quyền con người nào mà lại không bao hàm cả quyền công dân. Việt Nam trước đây cũng như các nước Xã hội chủ nghĩa khác, đều cho rằng quyền con người là một phạm trù tư sản, không thừa nhận hai khái niệm quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm độc lập mà luôn đồng nhất chúng với nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nhân loại, cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm hơn đến lĩnh vực quyền con người, do TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 11 - vậy, chúng ta đã có nhận thức lại một cách đúng đắn hơn về vấn đề này, tiếp thu những tư duy lý luận và giá trị pháp lý mới đúng đắn hơn nhằm ngày càng nâng cao hơn nữa quyền con người trên thực tế. 1.2.2 Mối quan hệ giữa Hiến pháp với quyền con người, quyền công dân Xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản. Tương ứng với nó là sự ra đời của 4 chế độ Nhà nước là: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng phải cho đến khi nhà nước tư bản chủ nghĩa ra đời thì Hiến pháp mới được xuất hiện. Có thể thấy rằng quyền con người và Hiến pháp cùng được sinh ra trong cách mạng tư sản, tuy nhiên, vấn đề nhân quyền lại được đặt ra sớm hơn và vì cần một thiết chế đủ mạnh để bảo đảm quyền con người được tôn trọng và bảo vệ nên Hiến pháp mới được ra đời. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao quyền con người, quyền công dân lại phải được ghi nhận và đảm bảo bằng Hiến pháp mà không phải là bất cứ một văn bản nào khác? Xét về nguồn gốc tự nhiên thì con người vốn dĩ sinh ra đã được tự do. Tuy nhiên sự tự do này không thể là tuyệt đối, vì tự do của người này sẽ ảnh hưởng đến quyền tự do cá nhân của người khác, vì vậy, để có một cuộc sống tốt đẹp, con người đã lựa chọn từ bỏ “trạng thái tự nhiên” tức sự tự do tuyệt đối đó để tuân thủ một “khế ước xã hội”. Đó cũng là lý do mà Nhà nước được ra đời để nhằm đảm bảo cho quyền con người được thực thi một cách tốt nhất. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình không thể tránh khỏi trường hợp nhà nước quá lạm dụng quyền hạn của mình và can thiệp quá sâu TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 12 - vào quyền tự do vốn có của con người, do vậy, muốn đảm bảo quyền con người được được thực hiện một cách tối ưu nhất thì vấn đề đặt ra là quyền lực nhà nước phải được hạn chế một cách phù hợp. Có nhiều cách để hạn chế quyền lực nhà nước, nhưng cách tốt nhất là Hiến pháp – đạo luật tối cao nhất phải ghi nhận các quyền tự do của con người, của công dân như là một giới hạn để quyền lực nhà nước không thể xâm phạm vào. Một mặt khác, xét về bản chất thì Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao, được coi là đạo luật gốc, do cơ quan có thẩm quyền cao nhất hoặc do chính nhân dân thông qua. Trong nội dung của mình, Hiến pháp quy định hai vấn đề quan trọng nhất là cách thức tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp có tác dụng hạn chế quyền lực của cơ quan tối cao của nhà nước, định hướng cho hoạt động của cơ quan nhà nước là nhằm mục đích bảo vệ quyền con người. Như vậy, Hiến pháp có ảnh hưởng rất to lớn trong việc điều chỉnh vấn đề nhân quyền. Ở Việt Nam, nhân quyền được đặt ra từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lược của thực dân và đế quốc nên nhân quyền cũng chính là dân quyền và cũng là chủ quyền của cả quốc gia. Do vậy, Việt Nam không có một bản tuyên ngôn nhân quyền riêng và cũng không có những quy định riêng về nhân quyền mà nội dung của nhân quyền được quy định là một nội dung của Hiến pháp và thể hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của công dân. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 13 - Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM 2.1 Quyền con người và đảm bảo quyền con người qua các bản Hiến pháp Bảo đảm quyền con người là một chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng công bố trước toàn thế giới bản Tuyên ngôn độc lập, lần đầu tiên khẳng định tôn trọng các quyền công dân và quyền con người trên đất nước Việt Nam: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Với mục tiêu đó, ngay sau khi giành được chính quyền, Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng và ban hành Hiến pháp (1946), trong đó các quyền tự do cơ bản của công dân - bộ phận quan trọng nhất của quyền con người đã được trân trọng ghi nhận. Qua quá trình hoàn thiện để đáp ứng tình hình đất nước, các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và đặc biệt là Hiến pháp 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 14 - 2.1.1 Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1946 Điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 là ở chỗ, mặc dù ra đời ngay trong những năm đầu tiên của chính quyền nhân dân còn non trẻ, đang còn phải tập trung lo toan, ứng phó với các công việc chính trị trong nước cũng như việc ngoại giao với nước ngoài nhưng vẫn dành một sự quan tâm đặc biệt to lớn tới cho vấn đề quyền công dân. Điều này thể hiện ở chỗ, mặc dù bản Hiến pháp 1946 chỉ có 70 điều, nhưng đã dành hẳn một chương bao gồm 18 điều để quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chương quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân chỉ được sắp xếp ngay sau Chương 1 – chương quy định về Chính thể. Việc quy định của Hiến pháp đã phản ánh đúng trạng thái tâm lý đổi đời trở thành một con người thực sự của toàn xã hội mà cuộc cách mạng vì nhân dân vừa đưa lại. Các quyền cơ bản của con người trong Hiến pháp 1946 được quy định cụ thể như sau: - Quyền được bình đẳng: • Điều 6: Tất cả các công dân Việt Nam ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa; • Điều 7: Tất cả các công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc…; • Điều 8: Bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc; • Điều 9: Bình đẳng nam nữ. - Quyền được tự do: TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 15 - • Điều 10: Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú…; • Điều 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ, giam cầm công dân, không được xâm phạm thư tín và nhà ở một cách trái pháp luật. - Quyền dân chủ: • Điều 7: Tất cả các công dân Việt Nam đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc…; • Điều 18: Tất cả các công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, và từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử…; • Điều 20: Quyền bãi miễn các đại biểu dân cử; • Điều 21: Quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia… - Quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội: • Điều 12: Quyền tư hữu về tài sản của công dân Việt Nam; • Điều 13: Quyền lợi của giới cần lao trí thức và chân tay được đảm bảo; • Điều 14: Quyền được giúp đỡ của công dân già cả và người tàn tật, quyền được săn sóc, giáo dưỡng của trẻ con. Có thể thấy, trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người đã gắn liền một cách sâu sắc với bản Hiến pháp 1946. Bản Hiến pháp này đã đảm bảo cho việc thực hiện nhân quyền mà thể hiện cụ thể đó là quyền TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 16 - tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam một cách bao quát và gần như là đầy đủ về cả chủ thể lẫn nội dung. Có thể trích câu nói sau đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh (trong nhận xét về bản Hiến pháp 1946) để nói hết ý nghĩa của bản Hiến pháp này: “…Bản Hiến pháp chưa hoàn toàn, nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới, nước Việt Nam độc lập; Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do; Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới phụ nữ được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của công dân… Hiến pháp đó cũng đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các dân tộc”2. 2.1.2 Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1959 Hiến pháp 1959 quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong một chương bao gồm 21 điều dựa trên sự kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946. Các quyền công dân được quy định thêm nằm trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, bao gồm: • Điều 24: Quyền được bảo hộ của bà mẹ và trẻ em, bảo hộ hôn nhân và gia đình; • Điều 25, điều 29: Quyền được biểu tình; Quyền khiếu nại và tố cáo; quyền được bồi thường khi bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước; • Điều 30, điều 31, điều 32: Quyền được làm việc; được nghỉ ngơi của người lao động. Quyền được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật, mất sức lao động; 2 Dẫn theo Nguyễn Đăng Dung – Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ quan nhà nước - Nxb Tư pháp, 2004, tr.94. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 17 - • Điều 33, điều 34, điều 35: Quyền được học tập; được tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác nghệ thuật…; được giáo dục về đức dục, trí dục, thể dục. Có thể thấy Hiến pháp 1959 đã có những bước tiến mới trong việc mở rộng và ghi nhận các quyền con người. Từ việc ghi nhận này ta có thể thấy được một cách rõ ràng sự phát triển của xã hội và cả sự quan tâm của Nhà nước đối với quyền lợi hợp pháp của công dân. Một điểm tiến bộ nữa của Hiến pháp 1959 là đã có những quy định thể hiện một cách rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo cho công dân thực hiệc các quyền của mình, “Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền…” hay “Nhà nước quy định…, để đảm bảo cho người lao động được hưởng các quyền đó…”. Điểm hạn chế của Hiến pháp 1959 là đã bỏ qua việc kế thừa một số các quyền rất tiến bộ đã được đề cập đến trong Hiến pháp 1946. Đó là quyền tham gia chính quyền và kiến quốc, quyền của dân tộc thiểu số được nhà nước giúp đỡ…, quyền được tự do ra nước ngoài và đặc biệt là một quyền rất quan trọng về chính trị đó là quyền phúc quyết về Hiến pháp. Điều này làm cho quyền công dân – quyền con người trong Hiến pháp 1959 không được hoàn thiện, bị hạn chế đi một phần. 2.1.3 Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1980 Chương quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1980 bao gồm có 27 điều, là những quy định được kế thừa và phát triển từ hai bản Hiến pháp trước đó là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong bản Hiến pháp 1980 rất đa dạng và phong phú, trải rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội. Các quy định mới của Hiến pháp 1980 bao gồm: TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 18 - • Điều 56: Quyền tham gia quản lý các công việc nhà nước và xã hội; • Điều 58, điều 61: Quyền có việc làm; quyền được bảo vệ sức khỏe; • Điều 62: Quyền có nhà ở; • Điều 70, điều 71, điều 72: Quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được bảo hộ tác phẩm, sáng chế, phát minh…; • Điều 74: Quyền được hưởng chính sách ưu đãi của thương binh và gia đình liệt sĩ… Điểm đặc biệt của Hiến pháp 1980 là các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân được xác lập trên cơ sở tư tưởng về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Điều 54 Hiến pháp chỉ rõ: “Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết hợp hài hòa những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể, và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Điều này khẳng định mối quan hệ không tách rời giữa Nhà nước và công dân, Nhà nước đảm bảo một cách tuyệt đối các quyền của công dân được thực hiện, nhưng ngược lại, công dân cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Nguyên tắc này tạo ra mối quan hệ bình đẳng hai chiều giữa Nhà nước và công dân và qua đó càng đảm bảo cho quyền công dân được thực hiện một cách tốt hơn. Việc ghi nhận quyền con người – quyền công dân phải xuất phát từ các quyền tự nhiên của con người – các quyền đã được cả thế giới thừa nhận, tuy TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 19 - nhiên, Hiến pháp 1980 lại không thừa nhận sở hữu tư nhân – một quyền về sở hữu tài sản, một quyền tự nhiên và là một quyền quan trọng nhất, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người. Có thể nói đây là điểm hạn chế nhất của Hiến pháp 1980, quy định này vừa kìm hãm sự phát triển của đất nước và vừa làm cho quyền con người không được đảm bảo một cách đầy đủ. Trên thực tế, các quy định của Hiến pháp 1980 về quyền công dân đã không phản ánh đúng được tình hình thực tế của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Hiến pháp đã quy định một số quyền mang tính lí tưởng hóa quá mức, không có tính khả thi để thực hiện trong thực tế. Đó là quy định về nhà ở (Điều 62), quy định về chế độ học không phải trả tiền (Điều 60), về chế độ khám chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61). Các quy định này chỉ có hiệu lực về mặt pháp lý - trong bản Hiến pháp chứ không có hiệu lực trên thực tế vì bản thân Nhà nước không thể có đủ điều kiện vật chất để đảm bảo cho việc thực hiện nó. Mặc dù các quy định này nhắm tới việc tạo cho con người có được một cuộc sống tốt đẹp nhất, nhưng sự thoát ly quá xa của các quy định trên khỏi khả năng thực thi của nó đã dẫn đến việc chính các quy định ấy bị mất đi ý nghĩa tích cực và xây dựng vốn có của chúng.3 2.1.4 Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung qua Nghị quyết 51) Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1992 được quy định trong chương V bao gồm 34 điều chứa đựng nhiều điểm tiến bộ vượt bậc của Nhà nước ta trong việc quy định về quyền con người và đảm bảo quyền con người. Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã dành một điều nói về quyền con người với nội dung khẳng định: "Ở 3 Lê Minh Tâm (chủ biên) – Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam – Nxb Công an nhân dân, 2006, tr273. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 20 - nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" (Điều 50). Việc ghi nhận quyền con người với tư cách là một quy định chung trước khi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã thể hiện một bước tiến mới về tư duy lý luận và sự kế thừa một cách sâu sắc giá trị tiến bộ của tư duy chính trị - pháp lý của nhân loại của Hiến pháp 1992.4 Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận khái niệm “quyền con người” với nội dung chính trị pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người trong mối quan hệ với một nhà nước nhất định, đồng thời là giá trị tổng hợp được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Một mặt khác, Nhà nước ta ghi nhận cả quyền con người và quyền công dân để vừa nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước và cá nhân con người, lại vừa tạo nên sự thống nhất giữa luật quốc gia và luật quốc tế về giá trị của con người, từng bước xóa bỏ quan niệm “khép kín” của pháp luật quốc gia trên lĩnh vực này. Việc ghi nhận “quyền con người” không tách rời "quyền công dân" chỉ ra rằng, nội dung cơ bản của quyền con người ở mỗi quốc gia chính là quyền công dân. Vì thế, Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Khái niệm quyền con người với quan niệm như vậy được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 là chiếc cầu nối tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo đảm và tăng cường hiệu lực thực hiện các quyền con người một cách mạnh mẽ hơn. 4 Trần Ngọc Đường - Phát huy vai trò của Hiến pháp, tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp – Tạp chí Cộng sản số 7 (151) năm 2008. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 21 - Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 đã có một quy định pháp lý mới có tính nền tảng chỉ đạo hoạt động lập pháp của Nhà nước là: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” (Điều 51). Quy định mới này thể hiện thái độ trân trọng và đề cao các quyền con người, quyền công dân của Nhà nước Việt Nam. Đó là các giá trị của xã hội mà Nhà nước phải có nghĩa vụ thể chế bằng Hiến pháp và các đạo luật là những hình thức pháp lý cao nhất. Nhờ đó, mà các giá trị của xã hội với tư cách là các quyền của con người, quyền công dân tồn tại một cách ổn định, được thừa nhận và bắt buộc chung, được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy nhà nước. Bằng quy định này, Nhà nước đã hướng tới việc hạn chế, ngăn ngừa các cá nhân, tổ chức và cơ quan Nhà nước tùy tiện đặt ra các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật mà có thể sẽ vi phạm quyền con người, quyền công dân. Thứ ba, Hiến pháp 1992 đã quy định thêm những quyền hoàn toàn mới mang tính thiết yếu cho công dân trong nhà nước pháp quyền trên nhiều lĩnh vực: - Quyền về chính trị: quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và của địa phương; quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 53). - Quyền về kinh tế: quyền tự do kinh doanh…(Điều 57); quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất … (Điều 58). - Quyền về tự do cá nhân: quyền được ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về … (Điều 68); quyền được thông tin (Điều 69); quyền được bảo hộ những nơi thờ tự (Điều 70); quyền của người bị bắt, bị giam giữ (Điều 72); quyền của người Việt Nam ở nước TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 22 - ngoài (Điều 75) và quyền của người nước ngoài ở Việt Nam (Điều 81)… Thứ tư, Hiến pháp 1992 đã tiến hành sửa đổi phần lớn các quy định về quyền công dân không mang tính khả thi trong Hiến pháp 1980 trở nên rõ ràng, đầy đủ và phù hợp hơn. Đối với quyền “có nhà ở” trong Hiến pháp 1980 thì trong Hiến pháp 1992 đã được sửa thành quyền “được xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật…”, Hiến pháp 1980 quy định công dân có quyền “có việc làm” và Nhà nước phải “tạo thêm việc làm và sắp xếp công việc” cho người lao động được Hiến pháp 1992 sửa thành “Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Một mặt khác, các quy định không mang tính thực tế như “khám chữa bệnh không phải trả tiền, học không phải trả tiền” đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Với những tư duy chính trị - pháp lý mới nói trên, Hiến pháp năm 1992 trong chương “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã có bước phát triển trong việc thể chế và ghi nhận các quyền về chính trị, quyền tự do cá nhân, các quyền về kinh tế, các quyền của người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Theo đó hàng loạt các quy định đề cao và phát huy nhân tố con người quy định trong Hiến pháp đã được thể chế hóa trong các bộ luật, đạo luật. Các quyền về chính trị được đổi mới và hoàn thiện trong các Luật về Bầu cử, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ... Các quyền về kinh tế - dân sự - lao động được đổi mới trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp... Các quyền tự do bất khả xâm phạm về thân thể, cư trú, đi lại được đổi mới và quy định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Cư trú... Các quyền về tự do ngôn luận, báo chí được thể chế và ghi nhận trong Luật Báo chí, Luật Xuất bản... và nhiều văn bản luật khác. Có thể nói, các quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp năm 1992 ghi nhận đã từng bước được thể chế hóa qua hoạt động lập TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 23 - pháp của Quốc hội tạo thành một hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người và công dân Việt Nam mang tính chất dân tộc và quốc tế sâu sắc, không thua kém hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản được Hiến pháp, luật của các nước phát triển ghi nhận. 2.2 Mở rộng và đảm bảo quyền con người – quyền công dân trong Hiến pháp và trong thực tiễn 2.2.1 Thực tiễn quyền con người và đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay Ở Việt Nam, các quyền cơ bản của con người đã và đang được thực hiện trên thực tế và được Hiến pháp, pháp luật và Nhà nước bảo vệ. Đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trước đây và hiện nay luôn là tôn trọng và bảo đảm quyền con người, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Thực tế những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đặc biệt trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Thứ nhất, công tác xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền con người và cải cách tư pháp đã và đang được đẩy mạnh và tăng cường. Cho đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật khá đồng bộ, tương đối đầy đủ, như: Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Báo chí, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Đặc xá, Luật Giám sát của Quốc hội, Luật Bồi thường Nhà nước, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường cho những người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 24 - động tố tụng hình sự gây ra, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo... đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Thứ h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfB7842O 2727842M QUY7872N CON NG4317900I TRONG L7882CH S7916 L7852P HI.pdf
Tài liệu liên quan