Tiểu luận Bảo hiểm thất nghiệp và tình huống

MỤC LỤC

 

I. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp 1

1. Khái niệm 1

1.1. Định nghĩa 1

1.2. Đặc điểm của BHTN 2

2. Ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp: 4

II. Giải quyết tình huống 6

1. Quyền lợi ASXH của anh H: 6

2. Quyền lợi ASXH cho thân nhân của anh H. 10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12

 

 

docx13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6806 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bảo hiểm thất nghiệp và tình huống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC BÀI LÀM Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp Để giải quyết tình trạng thất nghiệp, nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp trong thời gian chưa tìm được việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm công việc mới. Nếu như trong Bộ luật lao động đã đưa ra một số biện pháp nhằm hỗ trợ cho những người lao động bị thất nghiệp như trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc thì trong lĩnh vực An sinh xã hội chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) áp dụng bắt buộc đối với người lao động và người sử dụng lao động; có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội (LBHXH) số 71/2006/QH11 đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI - kỳ họp thứ chín thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006; Nghị định số 127/2008/NĐ-CP - ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp; thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH - ngày 25 tháng 10 năm 2010 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP - ngày 12 tháng 12 năm 2008 nêu trên. Khái niệm Định nghĩa Dưới góc độ kinh tế xã hội, BHTN được hiểu là: giải pháp nhằm khắc phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp người thất nghiệp tạm thời đảm bảo cuộc sống và tìm kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ quỹ này được hình thành do sự đóng góp của người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ), có sự hỗ trợ của Nhà nước, được sử dụng để trả trợ cấp cho người thất nghiệp, cũng như tiến hành các biện pháp nhằm nhanh chóng giúp người thất nghiệp có được việc làm mới. Theo công ước 102 của ILO BHTN là một trong chín nhánh của Bảo hiểm xã hội (BHXH). Việc chi trả trợ cấp thất nghiệp nhằm hỗ trợ một phần thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và giúp họ có điều kiện học nghề, tạo cơ hội tiếp tục tham gia thị trường lao động. Cùng với các chế độ BHXH khác chế độ BHTN đã góp phần hoàn thiện và nâng cao khả năng bảo vệ NLĐ của hệ thống pháp luật BHXH. Đẻ phù hợp với công ước của ILO, dảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật lao động, phù hợp với mục đích của BHTN, trong định hướng xây dựng chế độ BHTN ở Việt Nam, BHTN được coi là một chế độ của BHXH. Theo đó, “Bảo hiểm thất nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho người lao động bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc” Trường đại học luật Hà Nội, Giáo luật an sinh xã hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2010, trang 203. . BHTN vì thế thường được hiểu là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho NLĐ bị mất thu nhập do thất nghiệp. Đặc điểm của BHTN Giống như các chế độ BHXH khác, BHTN cũng xuất phát từ quan hệ lao động, có mục đích bù đắp thu nhập của NLĐ. Bên cạnh đó, BHTN còn có một số đặc trưng riêng: Thứ nhất, BHTN xuất phát từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại chủ yếu thuộc về lĩnh vực việc làm. Việc thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp luôn được gắn liền với vấn đề giải quyết việc làm cho NLĐ. BHTN do đó vừa có chức năng hỗ trợ khó khăn cho người thất nghiệp khi tạm thời mất thu nhập vừa có chức năng xức tiến những hoạt động tìm kiếm và tạo việc làm cho NLĐ. Thứ hai, BHTN không chỉ thu và chi trả trợ cấp thất nghiệp mà còn thực hiện các biện pháp để đưa NLĐ trở lại thị trường lao động. Do đó, cơ quan BHTN vừa có trách nhiệm đăng ký thất nghiệp, kiểm tra các điều kiện của NLĐ trước khi trả trợ cấp thất nghiệp vừa phải kịp thới nắm bắt các thông tin về thị trường lao động để giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác biệt giữa hoạt động quản lý thất nghiệp với các loại hình BHXH khác. Đồng thời, vấn đề này cũng tạo nên những quan điểm thống nhất về việc nên giao cho cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý hoạt động BHTN. Có ý kiến cho rằng nên giao cho cơ quan BHXH thống nhất quản lý các chế độ BHXH (trong đó có BHTN). Nhưng cũng có những ý kiến khác cho rằng nên giao cho cơ quan quản lý lao động các cấp quản lý để chủ động thực hiện chức năng đăng ký thất nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp, cũng như tiến hành các hoạt động tìm kiếm và giới thiệu việc làm. Như vậy khác với cơ quan quản lý BHXH thông thường chỉ thực hiện chức năng thu, chi BHXH các cơ quan quản lý BHTN còn phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm giải quyết việc làm, bên cạnh các nghiệp vụ BHXH thuần túy. Thứ ba, đối tượng áp dụng chế độ BHTN là những người trong độ tuổi lao động, có sức lao động nhưng bị mất việc làm, tạm thời không có thu nhập và sẵn sàng trở lại làm việc. Như vậy,khác với các loại hình BHXH khác, đối tượng của BHTN là những NLĐ bị chấm dứt quan hệ lao động một cách không tự nguyện. Còn đối tượng của các chế độ BHXH khác là những người lao động vẫn đang tồn tại quan hệ lao động như chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản hoặc chấm dứt quan hệ lao động do không có khả năng tiếp tục làm việc như tử tuất, hưu trí. Thứ tư, việc thực hiện chế độ BHTN rất phức tạp và khó quản lý. Quy mô và tỷ lệ thất nghiệp không thể dự đoán chính xác , gây khó khăn rất lớn trong việc hạch toán và cân đối thu – chi của quỹ BHTN. Hoạt động của BHTN lại có mối quan hệ mật thiết với hệ thống đào tạo nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm và chương trình quốc gia về việc làm nên đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý BHTN với các cơ quan chức năng khác trong lĩnh vực lao động việc làm. Đây là hai chức năng cơ bản của BHTN và cũng là điểm khác biệt cơ bản của BHTN so với các chế độ BHXH khác. Thứ năm, việc xác định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp khó khăn hơn so với các chế độ BHXH khác. Sở dĩ như vậy vì ranh giới để phân định giữa có việc làm và không có việc làm, giữa có thu nhập và không có thu nhập không rõ ràng, khó xác định và kiểm tra trong thực tế. Vì vậy, việc xác định đúng các đối tượng đủ điều kiện để chi trả trợ cấp thất nghiệp trong thực tế gặp nhiều khó khăn. Ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp: BHXH - trong đó có BHTN cho NLĐ là một chế định rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó góp phần phát triển một xã hội hài hòa các lợi ích của NLĐ cũng như của NSDLĐ, cho nên hướng phát triển của nền kinh tế thị trường sớm hay muộn cũng cần thiết phải đưa định chế này vào.. Đây là một điểm mới và cần thiết, việc thực hiện BHTN góp phần đáp ứng nguyện vọng của đông đảo NLĐ, đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì tình trạng NLĐ mất việc làm là điều dễ xảy ra. BHTN sẽ tạo thế chủ động trong việc hỗ trợ NLĐ trong thời gian mất việc làm và là cơ sở từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO. Đối người lao động, việc thực hiện BHTN góp phần đáp ứng nguyện vọng của đông đảo NLĐ, đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì tình trạng NLĐ mất việc làm là điều dễ xảy ra. BHTN sẽ tạo thế chủ động trong việc hỗ trợ NLĐ trong thời gian mất việc làm BHTN vừa giúp đỡ họ ổn định cuộc sống khi bị mất việc làm thông qua khoản trợ cấp thất nghiệp, vừa tạo cơ hội để cho họ có thể tiếp tục tham gia thị trường lao động. BHTN là một chế độ mới rất cần thiết đối với NLĐ trong nền kinh tế thị trường và có tính nhân văn cao vì nó không những đảm bảo mức sống của chính NLĐ khi bị mất việc mà còn là sự chia sẻ rủi ro của những NLĐ đang làm việc đối với người bị mất việc làm. Đối với NSDLĐ, nhờ có chế độ BHTN nên khi những NLĐ trong doanh nghiệp bị mất việc làm, họ không phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để giải quyết chế độ cho NLĐ. Nhờ vậy gánh nặng tài chính của doanh nghiệp được san sẻ, đặc biệt trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều NLĐ thất nghiệp. Hơn nữa, khi tham gia BHTN và biết rõ quyền được trợ cấp thất nghiệp, NLĐ sẽ yên tâm làm việc tạo ra năng suất và chất lượng trong quá trình sản xuất. Điều này góp phần tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng sức lao động. Đối với nhà nước, BHTN là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ NLĐ khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội đối với đất nước. Nhờ có BHTN ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt chi phí khi nạn thất nghiệp gia tăng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tạo sự chủ động về tài chính cho nhà nước. Nhờ được hỗ trợ khó khăn khi mất việc làm, quan hệ giữa NLĐ với doanh nghiệp và Nhà nước bớt căng thẳng, các cuộc bãi công, biểu tình cũng được hạn chế. Nhà nước nhờ đó giảm bớt các mối lo đối phó với sự bất ổn gia tăng về chính trị - xã hội. Các tệ nạn xã hội và phạm tội do thất nghiệp cũng hạn chế ở một mức độ nhất định. Đặc biệt đối với những nước phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường thì chế độ BHTN thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế, hạn chế những mặt tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Về mặt pháp lý, BHTN thể hiện tính ưu việt trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. BHTN thể hiện tính ưu việt hơn so với trợ cấp thôi việc và mất việc ở chỗ người lao động tham gia BHTN không chỉ được đảm bảo trợ cấp bằng tiền để trang trải cho cuộc sống mà còn được giúp đỡ về mặt tinh thần, không phải lo lắng khi ốm đau, được hỗ trợ đào tạo nghề và tìm việc. Tham gia BHTN còn có lợi cho người sử dụng lao động thể hiện ở chỗ: trước đây khi chi trả trợ cấp thôi việc, mất việc người sử dụng lao động phải lập quỹ dự phòng trợ cấp mất việc từ lợi nhuận của doanh nghiệp; chi trả trợ cấp thôi việc bằng chi phí đầu vào và hạch toán vào giá thành, làm tăng chi phí cho sản xuất kinh doanh. Nay tham gia BHTN NSDLĐ chỉ đóng góp 1% quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Còn lại mọi chi trả trợ cấp cho người lao động do cơ quan BHXH chi trả, ngành lao động, thương binh và xã hội chịu trách nhiệm quản lý lao động thất nghiệp, đào tạo và giới thiệu việc làm cho người lao động Nguyễn Thị Thúy Vân, Vấn đề lao động mất việc làm và chính sách BHTN ở nước ta hiện nay, tạp chí quản lý nhà nước, Học viện Hành chính, Số 174(7/2010). . Do đó, sự ra đời của BHTN đã tạo ra sự đồng bộ trong việc ban hành văn bản pháp luật. Giải quyết tình huống Quyền lợi ASXH của anh H: Theo tình huống đưa ra anh H là công nhân nhà mấy hóa chất Y từ năm 1990, như vậy có thể tính thời gian anh H đóng BHXH là từ năm 1990. Năm 2007 anh H bị mắc bệnh nghề nghiệp và vào viện điều trị 2 tháng. Do đó theo tình huống, anh H sẽ được hưởng chế độ BHXH đối với bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Điều 38, 40 Luật BHXH. Mặt khác, sau khi mắc bệnh nghề nghiệp và vào viện điều trị 2 tháng vào năm 2007 anh H được xác định có mức suy giảm khả năng lao động là 45% (>31%). Vậy anh H sẽ được hưởng trợ cấp hàng tháng với mức hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 43 LBHXH: “ 1. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng”. 2. Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau: a) Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung; b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị”.  Theo đó mức hưởng trợ cấp hàng tháng của anh H là: 30% + (45% - 31%) x 2% = 58% (mức lương tối thiểu chung) Ngoài khoản trợ cấp trên hàng tháng anh H còn được hưởng một khoản trợ cấp tính theo số năm đóng bảo hiểm theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 43 LBHXH. Do anh H đóng bảo hiểm từ năm 1990 nên tính tới năm 2007 khoản trợ cấp này sẽ được tính như sau: 0.5% (mức tiền lương tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị) của năm đầu tiên đóng BHXH là năm 1990 cộng với 0.3% x (2007 – 1991) (mức tiền lương tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị). Như vậy khoản trợ cấp này sẽ là: 0.5% + (2007 – 1991) x 0.3% = 5.3% (mức tiền lương tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị) Sang năm 2008 mức trợ cấp hưởng thêm hàng tháng sẽ là: 5.3% + 0.3% = 5.6% (mức tiền lương tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị) Ngoài ra theo quy định tại Điều 48 LBHXH thì nếu như sau khi điều trị xong ra viện mà sức khỏe còn yếu thì thì anh H được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ từ năm ngày đến mười ngày. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung. Năm 2009, anh H bị tái phát phải vào viện điều trị 1 tháng do đó anh H sẽ được hưởng Bảo hiểm y tế đối với việc nằm viện và giám định lại mức suy giảm khả năng lao động. Sở dĩ như vậy là do NSDLĐ chỉ có trách nhiệm chi trả phí điều trị, giám định với việc điều trị bệnh nghề nghiệp lần đầu của người lao động. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 22 Luật bảo hiểm y tế 2008 thì anh H sẽ được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với mức 80%. Ngoài ra, Anh H sẽ được hưởng chế độ BHXH theo chế độ bảo hiểm ốm đau. Trong tình huống đưa ra, anh H đã làm việc tại nhà máy hóa chất. Theo quyết định 1152/2003/QĐ – BLĐTBXH về việc ban hành công việc nặng nhọc độc hại nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm do Bộ lao động thương binh xã hội và Bộ y tế ban hành thì hóa chất được xếp vào danh mục công việc đặc biệt nặng nhọc độc hại nguy hiểm. Vì vậy, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 23 Luật BHXH có thể xác định anh H làm công việc nặng nhọc độc hại nên có thời gian nghỉ ốm đau là 50 ngày Điều 23. Thời gian hưởng chế độ ốm đau Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 của Luật này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần và được quy định như sau: …… b) Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng bốn mươi ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm năm; năm mươi ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm năm đến dưới ba mươi năm; bảy mươi ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi năm trở lên. Đồng thời theo Điều 25 Luật BHXH anh H cũng được mức hưởng trợ cấp ốm đau là 75% mức tiền công tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Sau khi điều trị và giám định lại, mức suy giảm khả năng lao động của anh H là 63%. Vì vậy anh A sẽ được hưởng mức trợ cấp BHXH nghề nghiệp mới theo quy định tại khoản 2 Điều 43 LBHXH như đã phân tích ở trên: 30% + (63% - 31%) x 2% = 94% (mức lương tối thiểu chung) Ngoài ra anh A còn được hưởng thêm trợ cấp thêm hàng tháng mới mức hưởng: 0.5% + (2009 – 1991) x 0.3% = 5.9% (mức tiền lương tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị) Năm 2010,theo tình huống đưa ra do sức khỏe yếu nên 48 tuổi anh H đã làm đơn xin được giải quyết chế độ hưu trí. Tính đến năm 2010 anh H đã đóng BHXH được 20 năm, hơn thế nữa anh đã làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và có mức suy giảm khả năng lao động là 63%. Do đó mặc dù chưa đủ 60 tuổi hoặc đủ 55 tuổi như quy định tại Điều 50 LBHXH về điều kiện được hưởng lương hưu nhưng theo quy định tại Điều 51 Luật BHXH về điều kiện được hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động thì anh H vẫn được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi xin nghỉ hưu ở tuổi 48. Cụ thể: “ Điều 51. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 2 của Luật này đã đóng bảo hiểm xã hội đủ hai mươi năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 50 của Luật này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên; 2. Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.”  Có thể thấy, môi trường làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm khiến sức khỏe người lao động giảm sút nhanh chóng. Chính vì lý do đó khi người lao động làm việc trong môi trường đó pháp luật đã dành ưu ái cho họ khi họ chưa đủ tuổi về hưu có thể được nghỉ hưu trước. Theo đó anh H được hưởng mức lương hưu hàng tháng với mức hưởng theo quy định tại Điều 52 Luật BHXH: “Điều 52. Mức lương hưu hằng tháng 1. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 50 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 58, Điều 59 hoặc Điều 60 của Luật này tương ứng với mười lăm năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. 2. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 51 của Luật này được tính như quy định tại khoản 1 Điều này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 1%”. Như vậy, mức hưởng lương hưu được hưởng hàng tháng của anh H được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 52 BLBHXH là: 45% + ( 20 – 15 ) x 2% - ( 55 – 48 )% = 48% (mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH). Quyền lợi ASXH cho thân nhân của anh H. Theo tình huống đưa ra, mẹ anh H là bà mẹ Việt Nam anh hùng do đó, theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11(sửa đổi, bổ sung năm 2007) thì mẹ anh H sẽ được hưởng ưu đãi xã hội dành cho bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cụ thể, Điều 15 Pháp lệnh quy định: “Các chế độ ưu đãi đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng bao gồm: Các chế độ ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ quy định tại Điều 14 của Pháp lệnh này; Phụ cấp hàng tháng; Nhà nước và nhân dân tặng nhà tình nghĩa hoặc hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người”. Theo đó theo Điều 14, Điều 15 Pháp lệnh mẹ anh H sẽ được hưởng những ưu đãi sau: Tiền trợ cấp tuất 1 lần khi báo tử; Trợ cấp tuất hàng tháng; Được nhà nước mua BHYT, điều dưỡng phục hồi sức khỏe, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết căn cứ vào hoàn cảnh , khả năng của nhà nước; Nhà nước và nhân dân tặng nhà tình nghĩa hoặc hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của bà mẹ anh H; Phụ cấp hàng tháng. Ngoài ra, theo Điều 7 Nghị định 54/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công thì mẹ anh H còn được hưởng trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng. Các mức trợ cấp trên được tính tùy vào từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường đại học luật Hà Nội, Giáo luật an sinh xã hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2010. Đỗ Thu Hằng, Chế độ bảo hiểm thất nghiệp và việc tổ chức thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010. Phạm Văn Hải, Bảo hiểm thất nghiệp – thực trạng và giải pháp hoàn thiện ở Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2010. Nguyễn Thị Thúy Vân, Vấn đề lao động mất việc làm và chính sách BHTN ở nước ta hiện nay, tạp chí quản lý nhà nước, Học viện Hành chính, Số 174(7/2010). Luật An sinh xã hội 2006. Luật bảo hiểm y tế 2008. Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 (sửa đổi, bổ sung năm 2007). Nghị định 54/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công Quyết định 1152/2003/QĐ – BLĐTBXH về việc ban hành công việc nặng nhọc độc hại nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm do Bộ lao động thương binh xã hội và Bộ y tế ban hành

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBảo hiểm thất nghiệp và tình huống - học kỳ an sinh xã hội.docx