Tiểu luận Bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn

MỤC LỤC

Mở đầu . .1

Nội dung .1

I. Khái quát về quyền trẻ em 1

1.định nghĩa quyền trẻ em . .1

2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em . 2

3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em . .4

II. Cơ sở bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn . 6

1. Cơ sở thực tiễn . 6

2. Cơ sở pháp lý .7

III. Thực trạng về việc bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn.

1. Thành tựu . .7

2. Hạn chế . .8

3. Giải pháp 10

3.1. Giải pháp về mặt pháp lý .10

3.2 Giải pháp về mặt xã hội .11

Kết luận .12

Danh mục tài liệu tham khảo .13

 

 

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6140 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Ly hôn là một hiện trạng xã hội diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là mặt trái của quan hệ hôn nhân, giải quyết những mâu thuẫn trầm trọng không thể duy trì cuộc sống chung được nữa giữa những cặp vợ chồng, nhưng đằng sau những cuộc ly hôn là những hậu quả hết sức nặng nề. Hậu quả đó có thể là những thiếu thốn vật chất, có thể là những tổn thất về tinh thần, đặc biệt là đối với những người con bé nhỏ trong gia đình. Những đứa trẻ đã quen được hưởng sự yêu thương, chăm sóc, sự giáo dục quý giá từ tình phụ tử, mẫu tử bởi vậy nên khi cha mẹ chúng ly hôn thi cuộc sống không hạnh phúc, thậm chí nhiều trẻ nhỏ vì hận cha mẹ mình đã bỏ nhà ra đi, thinh thần suy sụp trở nên bất cần đời và xa vào các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút, giết người,...Chính vì vậy, chúng ta cần phải bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn. NỘI DUNG I. Khái quát về quyền trẻ em 1.định nghĩa quyền trẻ em Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn.Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển. Công ước về quyền trẻ em quy định về các nhóm quyền trẻ em: Quyền sống còn bao gồm quyền trẻ em được sống cuộc sống bình thường và đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất.Đó là mức sống đủ có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời. Quyền được phát triển, gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hóa, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát triển hài hòa. Quyền được bảo vệ, bao gồm những quy định như trẻ em phải được bảo vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao động, bắt buộc và xâm hại tình dục, lạm dụng ma túy, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. Trẻ em còn được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư. Quyền được bảo vệ bao gồm cả không bị tra tấn, đánh đập và lạm dụng trong trường hợp trẻ am làm trái pháp luật hay bị giam giữ. Quyền được tham gia: tạo mọi điều kiện cho trẻ em được tự do bày tỏ quan điểm và ý kiến về vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Trẻ em còn có quyền kết bạn, giao lưu và hội họp hòa bình, được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp. 2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em Nhiều thập kỷ qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được quan tâm ở những mức độ khác nhau, song do các yếu tố chủ quan và khách quan như thiên tai, mất mùa, chiến tranh, hoặc do trình độ dân trí thấp… trẻ em vẫn còn phải gánh chịu những nỗi đau, những thiệt thòi, trẻ em vẫn bị đói rét và vẫn bị giết hại trong những cuộc chiến, thậm chí vẫn bị bắt buộc cầm súng ra trận, hoặc phải tự lao động để nuôi thân, hoặc bị mua bán xâm hại… Đặc biệt là sau hai vụ thảm sát của phát xít Đức gây ra ở làng Liđisơ - Tiệp Khắc ngày 10/6/1942 và làng Ôrađua - Pháp ngày 10/6/1944, hàng trăm em thiếu nhi của hai làng bị giết hại, đã gây ra sự chấn động dư luận. . Vì vậy nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên và nhi đồng là trách nhiệm của toàn xã hội. Ngày 10/2/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua và tuyên bố nghị quyết số 217A về Quyền con người. Tại điều 25, Liên hợp quốc đã thông báo rằng: “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ em trong hay ngoài giá thú đều được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau”. Tháng 2/1949 Hội phụ nữ châu Á họp ở Bắc Kinh đã có sáng kiến đề nghị Hội Phụ nữ dân chủ thế giới chọn một ngày thiếu nhi quốc tế để kêu gọi toàn thế giới đấu tranh chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ nhi đồng và là ngày đoàn kết thiếu nhi quốc tế. Trong một phiên họp đã quyết định chọn ngày 1/6 hàng năm là ngày “Quốc tế bảo vệ thiếu nhi” và nhắc nhở mọi người tưởng nhớ vụ thảm sát man rợ ở Liđisơ và Ôrađua. Kể từ năm 1950 trở đi ngày 1/6 đã được tổ chức ở khắp thế giới. Tháng 4/1952, Hội nghị Bảo vệ thiếu nhi thế giới có 64 nước tham gia họp tại Viên - Áo đã nhất trí chính thức lấy ngày 1/6 là ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi, điều đó khẳng định trẻ em là “đối tượng” được nhân loại toàn thế giới luôn quan tâm. Vì vậy ngày 20/11/1989, Liên hợp quốc đã thông qua và phê chuẩn “Công ước về quyền trẻ em” bao gồm 54 điều khoản có hiệu lực từ ngày 20/11/1990. Trong lời mở đầu, công ước đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông… Trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để sống cuộc sống cá nhân trong xã hội và cần được nuôi dưỡng theo tinh thần các lý tưởng được nêu ra trong hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt trong tinh thần hòa bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết”. Công ước cũng định nghĩa trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi (trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn). Có thể nói Công ước về quyền trẻ em là một công ước đầy sự tiến bộ xã hội, với tinh thần nhân đạo sâu sắc. Công ước đã chỉ ra tất cả những quyền lợi mà trẻ em ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đều được hưởng thụ để trưởng thành đúng nghĩa một con người. Có thể điểm qua những quyền trẻ em rất cơ bản của công ước như: “Không phân biệt đối xử” - điều 2; Công ước quan tâm đến “lợi ích tốt nhất của trẻ em” - điều 3; Quyền “sống còn và phát triển” - điều 6; Đoàn tụ gia đình - điều 10; Công ước còn quan tâm đến “mức sống” của trẻ em - điều 27; “Bảo vệ trẻ em không gia đình” - điều 20; “Lao động trẻ em” - điều 22; “Lạm dụng ma túy” - điều 23; “Chống buôn bán và bắt cóc” - điều 35… Điểm qua như vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ tinh thần cao đẹp, tiến bộ, cũng như sự cần thiết của công ước, nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Công ước nhắc nhở tất cả chúng ta hãy vì một tương lai tốt đẹp của trẻ em, cũng chính vì một tương lai tốt đẹp của đất nước, của dân tộc, của nhân loại mà hành động cho đúng đắn, hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Việt Nam là quốc gia phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990 và Công ước đã được dịch, in ấn, phát hành rộng rãi bằng những cuốn sách nhỏ có thể bỏ túi. Nội dung Công ước được tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần giác ngộ và giáo dục, bồi dưỡng một thái độ đúng đắn về việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa có thể yên tâm về những việc đã làm được mà phải thấy hết những mặt còn tồn tại. Vẫn còn không ít trẻ em sống trong cảnh nghèo khó, thiếu thốn mọi bề, chưa được ăn no mặc ấm, chưa được đi học, phải lao động quá sức mình, thậm chí có nơi có lúc còn xảy ra tình trạng bạo hành hay buôn bán trẻ em. Đó là những tệ nạn xã hội hoàn toàn trái ngược với bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Chừng nào trên trái đất còn trẻ em đói rét, còn trẻ em bị ngược đãi, bắn giết, chừng nào trẻ em còn chưa được tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát triển đúng cách thì Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vẫn là tiếng chuông báo hiệu, nhắc nhở mọi người, nhắc nhở mọi quốc gia hãy hành động vì tương lai tốt đẹp của trẻ em. 3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em Trẻ em là đối tượng được quam tâm đặc biệt của mọi quốc gia. Và Việt Nam cũng là quốc gia nằm trong quy luật chung đó. Việt Nam là quốc gia có kết cấu dân số trẻ. Thanh thiếu niên Việt Nam chiếm tỉ lệ khá cao so với dân số của nước. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 85 789 573 triệu người, trong đó trẻ em từ 0 – 14 tuổi chiếm 29,4%, từ 15 – 64 tuổi chiếm 65%. Đồng thời, trẻ em Việt Nam thông minh, hiếu học, dũng cảm vượt khó… Cám em sẽ là những người góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của đất nước, làm rạng ngời dân tộc Việt. Xuất phát từ tinh thần nhân văn, nhân đạo và từ sự coi trọng con người, coi trọng trẻ em, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng ghi nhận vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, đảm bảo điều kiện tốt nhất cho trẻ em phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Sự ghi nhận này mang lai có ý nghĩa rất to lớn: Trước hết, nó thể hiện sự quan tâm sâu sác của Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ cũng như chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ, hướng đến mục tiêu điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình, cụ thể hơn là đem lại các quyền lợi chính đáng cho con cái, cho trẻ em. Đây là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo thực hiện quyền công dân, quyền con người trong phạm vi quốc gia. Cơ sở pháp lý làm căn cứ xử lý các trường hợp vi phạm đảm bảo ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Qua đó điều chỉnh các quy định không đảm bảo tính khả thi trong thực tế. Và thể hiện sự cam kết về mặt pháp lý của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Từ đó đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp thu thụ động của người lớn mà trở thành những chủ thể có quyền, có khả năng tạo dựng cuộc sống phù hợp; Ngoài ra, thông qua các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em phản ánh bản chất tiến bộ vượt bực của chế độ ta, của pháp luật XHCN. Trải qua các hình thái kinh tế - xã hội, qua nhiều hệ thống pháp luật nhưng chỉ đến khi Nhà nước và pháp luật XHCN ra đời ở Việt Nam, quyền lợi của cha mẹ và con cái mới được bảo vệ thỏa đáng như những gì mà họ xứng đáng được hưởng. II. Cơ sở bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn 1. Cơ sở thực tiễn Ly hôn là sự kết thúc của một cuộc hôn nhân, dẫn đến những thay đổi lớn trong gia đình. Việc cần làm nhất là một nền tảng của gia đình mới phải được thiết lập và được sự ủng hộ của cả người lớn lẫn con trẻ. Ly hôn đang dần trở thành một vấn đề phổ biến trong xã hội . Một điều rõ ràng là ly hôn làm cho trẻ em bị ảnh hưởng rất nhiều khi mà nền tảng gia đình truyền thống bị tan vỡ. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến trẻ là quan hệ đối kháng giữa cha mẹ, sự không chắc chắn cho tương lai, ảnh hưởng tài chính của gia đình, sự di chuyển chỗ ở, và khả năng mất liên lạc với một trong cha hoặc mẹ hoặc anh em của mình. Có ba giai đoạn trong quá trình ly hôn. Đầu tiên là giai đoạn cấp tính, thường kéo dài trong 2 năm xảy ra với sự chia cách về mặt cảm xúc và ly thân. Trong giai đoạn chuyển tiếp, cha mẹ sẽ trải nghiệm sự dao động lên và xuống rất lớn về tinh thần khi họ ly hôn. Giai đoạn 3 là giai đoạn hậu ly hôn, khi cha mẹ thiết lập một cuộc sống mới, có thể là cha mẹ đơn thân hoặc tái hôn. Hậu quả của ly hôn như thế nào đến sự phát triển của con cái? Ảnh hưởng của ly hôn thay đổi rất nhiều tùy theo độ tuổi của trẻ khi ly hôn xảy ra. Trẻ con trước tuổi đến trường mặc dù đau buồn, thường là đối tượng ít nhận biết nhất về sự việc đang xảy ra. Ở tuổi thiếu niên, chúng dễ nhận ra sự thay đổi hơn, nhưng thường có lòng mong muốn rằng cha mẹ sẽ tái hợp một ngày nào đó. Với trẻ con tuổi tiền thanh niên, phản ứng có thể thường là xấu hổ hoặc giận dữ, và có thể là đối kháng với cha mẹ.  Những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình có bố mẹ ly hôn là những đứa trẻ bất hạnh, khi mà ngay từ khi còn nhỏ chúng đã không thể được hưởng sự chăm sóc dạy dỗ từ cả hai phía cha và mẹ. Điều đó ảnh hưởng tâm lý nặng nề của trẻ. Khi bố mẹ ly thân cũng có nghĩa là trẻ không được hưởng một cách trọn vẹn các quyền của mình khi mà quyền đó cần được thực hiện xuất phát từ cả hai phía cha và mẹ. Do đó, khi bố mẹ ly hôn không có nghĩa là có thể phủ nhận quyền của trẻ mà thay vào đó phải có sự thỏa thuận giữa hai bên để có thể đảm bảo quyền lợi mà một đứa trẻ đương nhiên được hưởng.  Quyền được bảo vệ và chăm sóc, Quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ, Quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được học hành, quyền được sống trong môi trường lành mạnh, quyền được giải trí…. tất cả đều đã được quy định rõ trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Trẻ em ngay từ khi sinh ra đã được hưởng những quyền và lợi ích đảm bảo cho sự phát triển một cách toàn diện, cho nên dù hoàn cảnh gia đình có thế nào, giữa bố mẹ chúng có sự hòa thuận hay không thì đương nhiên, họ vẫn phải có trách nhiệm thực hiện các quyền và lợi ích cho sự phát triển của trẻ. Đó là nghĩa vụ và trách nhiệm của những bậc cha mẹ. 2. Cơ sở pháp lý Bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn được quy định tại các điều 56 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn; điều 92 quy định về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn; điều 93 quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; điều 94 quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn; điều 95 quy định về nguyên tắc chia tài sản sau khi ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Ngoài ra con được quy định tại: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 Nghị định 71/2011/NĐ- CP hướng dẫn luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nghị quyết của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn TAND các cấp áp dụng một số quy định của luật hôn nhân và gia đình. III. Thực trạng về việc bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn. 1. Thành tựu: Về vấn đề giải quyết ly hôn ở các địa phương trong cả nước cho thấy, tòa án đã vận dụng tốt các quy định về việc cha mẹ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn. Thông qua công tác hòa giải, tòa án đã giải thích cho vợ, chồng hiểu rõ nghĩa vụ của mỗi bên đối với con chung khi họ ly hôn. Pháp luật quy định cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi ly hôn là vì quyền lợi của con cũng là vì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ. Dưới sự giúp đỡ của tòa án, trong phần lớn các vụ ly hôn, vợ chồng đã thỏa thuận về việc nuôi con và cấp dưỡng cho con một cách thỏa đáng. Đồng thời do ý thức được vấn đề nên cha mẹ đều thỏa thuận người trực tiếp nuôi con (chiếm 73% đến 75%), có trường hợp cả 2 bên có nguyện vọng tha thiết nuôi con kể cả khi có 1 con chung (chiếm 20%-24%) đặc biệt có những cặp vợ chồng vì những lý do này khác mà cả cha mẹ đều dứt khoát không nhận trách nhiệm nuôi con (chiếm 0,3 – 0,5%) 2. Hạn chế : Thứ nhất, về vấn đề khi ly hôn toàn án hỏi ý kiến nguyện vọng của các em từ 9 tuổi trở lên trong gia đình về vấn đề lựa chọn ở với ai ( khoản2 điều 92 – Luật hôn nhân gia đình) các em thường dè dặt thậm chí sợ hãi và thông thường là không thể hiện được rõ nguyện vọng của mình đặc biệt là khi trẻ em đều có tình cảm sâu sắc với cả cha và mẹ. Đây chỉ là sự lựa chọn thiên về cảm tính mà chưa đạt được mục đích mà nhà làm luật đặt ra. Thứ hai, do điều kiện sống xa, công việc khác nhau, mối quan hệ không tốt với người trực tiếp nuôi con nên những người không trực tiếp nuôi con ngại thực hiện quyền quyền thăm nom, chăm sóc con ( điều 94 – Luật hôn nhân gia đình) và có hiện tượng gian lận trong quá trình thực hiện. Một số trường hợp vì mâu thuẫn thù ghét nhau mà vợ chồng ( là cha mẹ của con chung) đã quên lợi ích của con. Có trường hợp, người được giao nuôi con đã giáo huấn con căm ghét chính người cha, người mẹ của mình; bên trực tiếp nuôi con cũng như người thân thích đã đe dọa, cấm đoán không cho bên kia thực hiện quyền thăm nom con theo đúng quy định pháp luật. Có trường hợp người không trục tiếp nuôi con đã thực hiện hành vi đánh cắp con mình gửi giấu đi cho người thân ở nơi khác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Do đó, bên trục tiếp nuôi con cùng người thân thích đã yêu cầu tòa án giải quyế hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự gây nên tình trạng căng thẳng mất trật tự an ninh xã hội. Thứ ba, nhiều khi tòa an khó xác định thời điểm người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong thời điểm bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật không trùng với thời điểm người không trực tiếp nuôi con không cùng sống chung và đóng góp nuôi con với người trực tiếp nuôi con, các tòa án vẫn có những quan điểm khác nhau trong việc xác định mốc thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu. Một số tòa án xác định từ khi con sống dưới sự trực tiếp nuôi dưỡng của một người mà người kia không có sự đóng góp vào việc nuôi con mặc dù họ có điều kiện. Một số tòa án xác định thời điểm này là lúc bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật. Tình huống : Anh A và chị B kết hôn với nhau có đăng kí kết hôn tại UBND xã và có 2 con chung. Anh A đi làm việc ở Ba Lan. Do quá trình làm việc ở nước ngoài, anh A không liên lạc với gia đình, không gửi tiền về nuôi con nên tình cảm vợ chồng nhạt phai. Vì vậy, chị B đã làm đơn ra tòa đòi ly hôn. Tại bản án sơ thẩm số 29 ngày 21/9/2006 của TAND tỉnh X, đã quyết định : giao con cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cho đến khi các cháu thành niên, buộc anh A có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi 2 con, mỗi cháu 150.000đồng/tháng tính từ tháng 10/2006 đến khi các con thành niên. Như vậy, quyền lợi của con cái không được bảo vệ thực sự. Anh A bỏ bê công việc từ khi anh ra nước ngoài mà không có phần nào đóng góp cho việc nuôi con. Quyết định buộc anh A cấp dưỡng từ ngày bản án có hiệu lực là chưa thỏa đáng. Thứ tư, vấn đề bảo vệ quyền lợi hợp pháp của con thuộc diện cần cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn do một bên mất tích hoặc một bên vắng mặt chưa thực sự thỏa đáng. Hầu hết các trường hợp tòa án đều ra quyết định giao con cho bên ở nhà trực tiếp nuôi mà không quyết định bên kia phải cấp dưỡng. Do đó mà quyền và lợi ích của con không được đảm bảo Thứ năm, về việc đóng góp phí tổn nuôi con sau khi cha mẹ ly hôn ( từ khi đứa con còn nhỏ đến tuổi thành niên) còn gặp nhiều khó khăn khi thi hành án, nhiều vụ án không thi hành được. Vì trong suốt quá trình đứa con lớn thì hoàn cảnh sống và mức thu nhập của mỗi người cũng có những thay đổi thậm chí gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, trong thực tiễn chúng ta còn thấy xuất hiện một số hiện tượng về việc trẻ em bị bỏ rơi, không được giáo dục nuôi dưỡng, phải sống lang thang hoặc sống trong các trại trẻ mồ côi sau khi cha mẹ ly hôn, dẫn đến quyền lợi của các em bị xâm phạm nghiêm trọng. 3. Giải pháp 3.1. Giải pháp về mặt pháp lý. - Tòa án cần có sự can thiệp trong trường hợp thỏa thuận của các cặp vợ chồng tại khoản 2 điều 92 về việc ai sẽ là người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Đó là sự can thiệp nhằm đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý về mặt nội dung của các thỏa thuận nhưng sự can thiệp này không phải là sự áp đặt mà chỉ có tính chất gợi mở, hướng dẫn, giải thích sao cho người cha, người mẹ hiều cần phải làm gì để đem lại lợi ích tốt nhất cho người con. - Ngoài ra, cần quy định một căn cứ chung để xác định thời điểm người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Thời điểm này phải đảm bảo đáp ứng các nhu cầu và lợi ích hợp pháp thiết yếu cho người con một cách hợp lý. Chẳng hạn đó là thời điểm mà người cha hay người mẹ không thực hiện nghĩa vụ của chính họ theo quy định pháp luật chứ không nhất thiết phải là lúc bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật thì mời buộc người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. - Hơn nữa, pháp luật cần quy định rõ hơn về trường hợp có người thứ ba chăm sóc nuôi dưỡng con chung khi cha mẹ ly hôn mà không thể nuôi dưỡng chăm sóc trực tiếp cho con chung đó. 3.2 Giải pháp về mặt xã hội. - Trong mỗi gia đình, bên cạnh việc nuôi dưỡng giáo dục và bồi đắp về thể chất trí tuệ cho các con, bậc làm cha làm mẹ còn phải là tấm gương đạo đức tốt cho con cái noi theo ngay cả khi đã ly hôn. Hơn nữa, các thành viên trong gia đình đều cần phải tích cực tìm hiểu các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của con cái. - Nhà nước, các ban ngành đoàn thể phải có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên trong việc thực hiện các quyền trẻ em nhất là sau khi cha mẹ đã ly hôn thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản chỉ đạo điều hành, các chương trình kế hoạch xã hội cụ thể. - Tích cực vận động và tạo cơ hội cho các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức kinh tế và tổ chức quốc tế giải quyết các nhu cầu bức xúc và bảo đảm các quyền của trẻ em. Đồng thời, tổ chức phối hợp thực hiện công tác gia đình giữa các cơ quan nhà nước đoàn thể nhân dân và các tổ chức cá nhân tham gia công tác hỗ trợ xây dựng và tạo điều kiện để gia đình phát triển bền vững hạn chế hiện tượng ly hôn diễn ra phổ biến trong xã hội. - Nâng cao năng lực trong việc xây dựng các chính sách, kế hoạch hàng năm, các chương trình và dự án cụ thể về việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em và thực thi chính sách kế hoạch có hiệu quả. - Giáo dục và tuyên truyền sâu rộng các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và pháp luật. Đặc biệt là pháp luật hôn nhân và gia đình, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, pháp lệnh dân số nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của mỗi gia đình và trẻ em về quyền và nghĩa vụ của chính mình nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng mà mỗi trẻ em được hưởng. KẾT LUẬN Các cặp vợ chồng nên hạn chế ly hôn khi có những mâu thuẫn xảy ra trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ phải hiểu khi mình ly hôn thì cuộc sống của các con mình sẽ ra sao và ánh mắt của những đứa con nhìn mình thế nào. Trẻ em là tương lai của đất nước, là lực lượng nòng cốt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nên quyền lợi của trẻ em phải được bảo vệ, nhất là khi cha mẹ chúng ly hôn. Chính vì vậy cần phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của trẻ nhất là trong hôn nhân gia đình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại hoc Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009. 2. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. 3. Ngô Thị Hường, chế định cấp dưỡng trong luật hôn nhân và gia đình- vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đâị học Luật Hà Nội, 2006. 4. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 5. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 6. Nghị định 71/2011/NĐ- CP hướng dẫn luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 7. Nghị quyết của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn TAND các cấp áp dụng một số quy định. * Website: http:/ www.dantri.com http:/ giadinh.net http:/lyhon.vn MỤC LỤC Mở đầu…………………………………………………………………....….1 Nội dung……………………………………………………………………..1 I. Khái quát về quyền trẻ em…………………………………………………1 1.định nghĩa quyền trẻ em …………………………………….………....1 2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em……………………...…………2 3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em……………………….………...4 II. Cơ sở bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn…………………….………6 1. Cơ sở thực tiễn…………………………………………….……………6 2. Cơ sở pháp lý…………………………………………………………...7 III. Thực trạng về việc bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn. 1. Thành tựu…………………………………………………….………….7 2. Hạn chế……………………………………………………….………….8 3. Giải pháp ………………………………………………………………10 3.1. Giải pháp về mặt pháp lý…………………………………………….10 3.2 Giải pháp về mặt xã hội……………………………………………….11 Kết luận……………………………………………………………………....12 Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………...13

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập nhóm môn hôn nhân và gia đình bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ li hôn.doc
Tài liệu liên quan