MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI 2
1. Khái niệm 2
2. Ý nghĩa của biện pháp bắt người 2
3. Lịch sử hình thành các quy định về biện pháp bắt người 3
II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ BẮT NGƯỜI 4
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS) 4
1.1. Căn cứ áp dụng 4
1.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 1 Điều 80) 5
1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 2 và khoản 3 Điều 80) 5
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003) 6
2.1. Căn cứ áp dụng (khoản 1 Điều 81) 7
2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Khoản 2 Điều 81) 8
2.3. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp (khoản 3 và khoản 4 Điều 81) 9
3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS 2003) 10
3.1. Căn cứ áp dụng 10
3.2. Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã 11
3.3. Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã 11
4. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt (Điều 83, 85 BLTTHS 2003) 12
III. THỰC TIỄN THI HÀNH BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN 13
1. Thực tiễn thi hành biện pháp bắt người 13
1.1. Yêu cầu đặt ra khi áp dụng biện pháp bắt người 13
1.2. Thực tiễn thi hành 13
1.3. Nguyên nhân 14
2. Hướng hoàn thiện 15
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3875 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân.
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp quyết định.
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân (TAND) và Toà án quân sự (TAQS) các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà toà phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo quy định tại BLTTHS 2003 thu hẹp hơn so với BLTTHS 1988, bỏ thẩm quyền của Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện; Thẩm phán TAND tỉnh hoặc thẩm phán TAQS cấp quân khu được phân công chủ toạ phiên toà. Đồng thời, quy định của BLTTHS 2003 cũng quy định ngắn gọn, chặt chẽ có tính khái quát cao về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 2 và khoản 3 Điều 80)
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lí do bắt. Lệnh phải có chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu cơ quan. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo yêu cầu pháp lý nêu trên mới có giá trị thi hành.
Hiện nay, CQĐT các cấp vẫn dùng mẫu lệnh bắt tạm giam bị can để bắt bị can. Trong lệnh này ghi cả thời hạn tạm giam bị can, trong khi đó "bắt bị can, bị cáo để tạm giam" và "tạm giam" là hai biện pháp ngăn chặn độc lập mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Có ý kiến cho rằng nên dùng hai mẫu lệnh: lệnh bắt bị can để tạm giam và lệnh tạm giam bị can. Như vậy sẽ đảm bảo tính khoa học, rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật nhưng gặp khó khăn là VKS không thể phê chuẩn lệnh tạm giam trước khi CQĐT bắt được bị can vì không biết thời hạn tạm giam tính từ ngày nào; trường hợp bắt được bị can rồi mới ra lệnh tạm giam và xin phê chuẩn thì phải có quy định của luật về thời hạn phê chuẩn lệnh và trong thời gian chờ phê chuẩn của VKS, bị can, bị cáo chưa thể tam giam thì xử lý như thế nào? Như vậy, việc sử dụng lệnh kép như hiện nay là tương đối thuận tiện và hợp lý.
Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Người bị bắt có quyền yêu cầu người thi hành lệnh bắt đọc toàn văn lệnh bắt và giải thích lệnh. Trong trường hợp có nghi ngờ về lệnh bắt, người bị bắt có quyền yêu cầu cho xem lệnh bắt. Những yêu cầu đó phải được người thi hành lệnh bắt chấp nhận.
Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ củ người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu có liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng kí tên vào biên bản. Nếu không có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì họ có quyền ghi vào biên bản và kí tên.
Nhằm đảm bảo sự tôn trọng quyền con người, tránh những tác động trái pháp luật có thể xảy ra trong quá trình thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo ở những địa điểm khác nhau, đảm bảo cho việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS quy định: Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến; khi tiến hành bắt người tại nơi làm việc của họ phải có mặt đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm việc chứng kiến; khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành việc bắt chứng kiến. Quy định này là tương đối cụ thể, rõ ràng, đầy đủ và hợp lý, khắc phục thiếu sót của BLTTHS 1988. Bộ luật năm 1988 quy định rất chung chung, mới chỉ giới hạn các yêu cầu bắt buộc về thủ tục phải chấp hành khi bắt trong phạm vi hẹp là bắt người ở nơi cư trú và nơi làm việc.
Do tính chất không cấp bách của việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam và để đảm bảo sinh hoạt bình thường của gia đình người bị bắt cũng như không gây ảnh hưởng đến hàng xóm của họ, luật quy định không bắt người vào ban đêm (từ sau 22 giờ tối ngày hôm trước đến trước 6 giờ sáng ngày hôm sau) trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang (khoản 3 Điều 80).
Việc quy định và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định nêu trên về bắt bị can, bị cáo để tạm giam vừa thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vừa là sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, tránh mọi tác động trái pháp luật tới các quyền này.
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003)
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
2.1. Căn cứ áp dụng (khoản 1 Điều 81)
Điều 81 BLTTHS quy định một cách cụ thể các trường hợp bắt khẩn cấp:
a. Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đây là trường hợp hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm chưa xảy ra, mới được thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện tội phạm và hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn.
Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo hai điều kiện:
Có căn cứ khẳng định một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Những căn cứ này có thể do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp xác định qua việc theo dõi, kiểm tra đối tượng, xác minh các nguồn tin do quần chúng cung cấp đã khẳng định người đó đang tìm kiếm công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm như bàn mưu, tính kế, lập kế hoạch, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm. Những hành vi trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại đến lợi ích của nhà nước và công dân nhưng đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe doạ, cần thiết phải được bảo vệ kịp thời.
Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt ngiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội phạm còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội phạm nên không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 17 BLHS quy định chỉ người nào chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, muốn bắt khẩn cấp một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm phải xác định tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
b. Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay, bỏ đi nơi khác. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu CQĐT xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Trong trường hợp này, tính chất của tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện không đóng vai trò quyết định trong việc xác định lý do bắt khẩn cấp. Lý do phải bắt đối với người phạm tội ở đây chính là việc có đủ cơ sở để khẳng định người đó đã thực hiện tội phạm và nếu không bắt ngay họ sẽ trốn.
Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đó đã thực hiện tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Việc xác nhận phải mang tính khẳng định, chứ không thể “hình như”, “nhìn giống như” người đã thực hiện tội phạm. Nếu việc xác nhận không phải do người trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội thì không coi là điều kiện để bắt khẩn cấp, bởi lẽ nếu bắt trong trường hợp đó dễ dẫn đến việc bắt nhầm người không thực hiện tội phạm.
Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn thường là: đang có hành động bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước, lí lịch không rõ ràng). Đối với trương hợp khác thì vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án mà không cần bắt khẩn cấp.
c. Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó thực hiện tội phạm, nhưng qua việc phát hiện thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người đó mà người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ thì bắt khẩn cấp.
Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Qua những hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính… cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của tội phạm. Đó có thể là những vật chứng như công cụ, phưong tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm.. cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể người bị nghi thực hiện tội phạm.
Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Những căn cứ cho rằng người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn cũng tương tự như căn cứ cho rằng người phạm tội trong những trường hợp khẩn cấp thứ hai bỏ trốn. Tuy nhiên, nếu xác định người bị nghi thực hiện tội phạm không bỏ trốn nhưng lại có căn cứ cho rằng người đó đang tiêu huỷ chứng cứ như đang xoá dấu vết tội phạm, đang cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội, đang tẩu tán tài sản vừa lấy được hoặc đang có hành vi làm giả chứng cứ làm sai lệch các tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội nhằm gây khó khăn cho việc điều tra xác định tội phạm thì những hành vi đó vẫn được coi là điều kiện để bắt khẩn cấp.
2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Khoản 2 Điều 81)
Khoản 2 Điều 81 BLTTHS quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp;
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Do tính chất cấp bách của việc bắt người trong trường hợp này cũng như phụ thuộc vào vị trí không gian đặc biệt nơi bắt người nên luật đã quy định cho một số chủ thể không phải là người tiến hành tố tụng nhưng vẫn có quyền bắt người.
2.3. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp (khoản 3 và khoản 4 Điều 81)
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản giống như bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Tuy nhiên, vẫn có một số điểm khác:
Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành. Quy định như vậy nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu quả và kịp thời, bởi nếu trì hoãn không tiến hành ngay sẽ mất thời cơ ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm.
Sau khi đã bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xét và phê chuẩn. VKS phải kiểm sát chặt chẽ các căn cứ bắt khẩn cấp trước khi quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt. Trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt. Có thể thấy pháp luật đã quy định cụ thể, tỉ mỉ việc kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS trong việc bắt khẩn cấp nhằm nâng cao trách nhiệm của VKS. Luật quy định thời hạn xét và phê chuẩn là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn nhằm tránh tình trạng dây dưa kéo dài làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị bắt cũng như làm chậm giải quyết những vấn đề có liên quan. Nếu VKS không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Trong trường hợp khẩn cấp, do tính chất cấp bách của việc bắt người nên được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ngày hay đêm. Liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng này, TS. Nguyễn Vạn Nguyên cho rằng: “Khi tiến hành bắt người trong trường hợp khẩn cấp, không cần phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú, làm việc và người chứng kiến” vì “quy định này làm cho việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp không còn tính cấp bách và đi ngược lại những đòi hỏi của việc áp dụng kịp thời chặn đứng tội phạm”. Quan điểm này chưa thật sự chính xác bởi lẽ do tính cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, tiêu huỷ chứng cứ của người bị nghi thực hiện tội phạm cho nên pháp luật TTHS mới quy định lệnh bắt khẩn cấp được thi hành trước khi có sự phê chuẩn của VKS. Còn việc quy định khi tiến hành bắt người phải có người chứng kiến là để đảm bảo tính công khai, minh bách của việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt và việc mời những người chứng kiến không phải là việc khó làm với những người thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, còn vấn đề nảy sinh là trong trường hợp bắt người trên tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng thì xác định người chứng kiến là ai thì luật chưa quy định rõ.
3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS 2003)
3.1. Căn cứ áp dụng
a. Bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải điều tra, xác minh.
Điều 82 BLTTHS quy định những trường hợp phạm tội quả tang:
Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội quy định trong BLHS nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện. Hành vi đang thực hiện tội phạm có thể đã gây ra hậu quả vật chất như đã huỷ hoại một phần tài sản của người khác và vẫn đang huỷ hoại tiếp. Trong trường hợp hành vi đang thực hiện tội phạm có cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra vẫn coi là hành vi đang thực hiện tội phạm. Hành vi đang thực hiện tội phạm có thể diễn ra trong một thời gian ngắn hoặc diễn ra trong một thời gian dài (như hành vi tàng trữ vũ khí quân dụng).
Trường hợp thứ hai: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đây là trường hợp vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xoá dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Trong trường hợp người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại cũng được coi là phạm tội quả tang.
Trường hợp thứ ba: Đang bị đuổi bắt.
Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện hành vi pham tội hoặc ngay sau thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội phạm. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về thời gian so với hành vi chạy trốn thì không được bắt quả tang mà bắt theo trường hợp khẩn cấp.
b. Bắt người đang bị truy nã
Người đang có lệnh truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù thì bỏ trốn. Hành vi của người đang bị truy nã không phải hành vi đang thực hiện tội phạm hay ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên người bị truy nã không phải là người phạm tội quả tang. Tuy nhiên, trong thực tế, việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn chặn phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng áp dụng như người phạm tội quả tang.
3.2. Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Để huy động và phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân, BLTTHS quy định bất kì người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, đồng thời được tước vũ khí của họ. Có thể thấy biện pháp này có phạm vi chủ thể áp dụng rộng nhất.
3.3. Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào. Mọi công dân đều có quyền bắt và có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, người bắt phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan công an, VKS hoặc UBND gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. Việc quy định này còn điểm chưa hợp lý, bởi việc xác định cơ quan công an, VKS hay UBND nơi gần nhất là không dễ dàng với người bắt nếu người đó không phải là dân ở địa phương đó.
Việc bắt một số đối tượng đặc biệt ngoài việc tuân theo quy định tại Điều 80, 81, 82 BLTTHS 2003 còn phải tuân thủ một số quy định khác của pháp luật:
Việc bắt người phạm tội là người thuộc cơ quan dân cử như đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp còn phải đảm bảo một số thủ tục được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân. Sở dĩ có quy định như vậy nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm được tốt chứ không phải là một sự phân biệt hay thiên vị hay đặc quyền có tính chất ngoại lệ nhằm bảo vệ cho bất cứ một cá nhân nào.
Đối với người chưa thành niên phạm tội, do đây là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quan tâm và bảo vệ (đối tượng chưa có sự phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, nhận thức còn hạn chế, bồng bột, nông nổi, khả năng cải tạo lớn) nên pháp luật quy định những thủ tục và điều kiện chặt chẽ hơn (theo Điều 303 BLTTHS).
Đối với người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, do họ có địa vị pháp lý khác nhau nên khi phạm tội thì thẩm quyền, thủ tục bắt họ cũng khác. Khi bắt người nước ngoài, ngoài việc tuân thủ các quy định từ Điều 80 đến Điều 82 BLTTHS, cần tuân thủ: theo Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ dành cho cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993 đối với người nước ngoài được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao; còn với đối tượng khác thì phải xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài ra, nếu bắt những đối tượng như nhân sĩ, trí thức, chức sắc trong tôn giáo, dân tộc thì phải được VKSND tối cao và Bộ Nội vụ đồng ý bởi lẽ việc bắt những đối tượng này thường bị các thế lực nước ngoài, thế lực phản động lợi dụng để chống phá Nhà nước.
4. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt (Điều 83, 85 BLTTHS 2003)
Cần tiến hành giao nhận người bị bắt để cơ quan có thẩm quyền sớm có biện pháp điều tra, khám phá tội phạm. Khi giao, nhận hai bên phải lập biên bản. Ngoài những điểm ghi như biên bản bắt người, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang, CQĐT phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hay trả tự do cho người bị bắt. CQĐT lấy lời khai nhằm xác định sự việc để ra quyết định tạm giữ hay trả tự do cho người bị bắt, tránh tình trạng giữ người quá thời hạn luật định mà không có lệnh tạm giữ, vi phạm quyền tự do thân thể của công dân.
Đối với người bị truy nã, sau khi lấy lời khai, CQĐT nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt và sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Cơ quan này sau khi nhận được thông báo phải ra ngay quyết định tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được VKS cùng cấp phê chuẩn cho CQĐT nhận người bị bắt. Sau khi nhận lệnh tạm giam, CQĐT nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người bị bắt đến giam tại trại tạm giam nơi gần nhất.
Người ra lệnh bắt, CQĐT nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Việc thông báo đó để họ khỏi phải tổ chức việc đi tìm hay thông báo về việc mất tích gây hoang mang lo lắng cho gia đình và người thân thích. Nếu xét thấy thông báo cản trở cho việc điều tra thì người ra lệnh bắt, CQĐT nhận người bị bắt không phải thông báo. Nhưng khi những cản trở không còn nữa thì phải thông báo ngay.
III. THỰC TIỄN THI HÀNH BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Thực tiễn thi hành biện pháp bắt người
1.1. Yêu cầu đặt ra khi áp dụng biện pháp bắt người
Yêu cầu về chính trị: Quy định của BLTTHS về bắt người là sự cụ thể hoá đường lối, chính sách của nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc áp dụng biện pháp này như là một trong những phương tiện hữu hiệu nhằm đạt được mục đích bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của công dân, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Yêu cầu về pháp luật: Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Ngược lại, việc bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận.
Yêu cầu về nghiệp vụ: Việc bắt người có một ý nghĩa quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi cơ bản của công dân. Vì vậy, đòi hỏi những cơ quan, cá nhân tiến hành việc bắt người phải có năng lực chuyên môn nghiệp vụ ở trình độ nhất định để đảm bảo việc bắt người hiệu quả. Hơn nữa, những người phạm tội phần lớn đã ý thức được trách nhiệm mà mình phải gánh chịu nên sẽ tìm mọi cách để lẩn trốn, vì vậy, việc bắt người là không hề dễ dàng, đòi hỏi phải có những chiến thuật linh hoạt, đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ, nhanh chóng.
1.2. Thực tiễn thi hành
Thực hiện, việc bắt người đã phát huy được tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Việc bắt người kịp thời đã ngăn chặn một số lượng lớn các đối tượng đang chuẩn bị thực hiện tội phạm thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời giúp sức đắc lực cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cũng như thi hành án được diễn ra thuận lợi.
Bên cạnh đó, vẫn còn xảy ra tình trạng bắt oan, sai dẫn đến việc số lượng người bị bắt, bị tạm giam trái pháp luật hoặc bị bắt nhưng không xử lý hoặc xử lý tuyên vô tội phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án có chiều hướng gia tăng. Một số vi phạm thường gặp như:
Bắt người không đủ căn cứ, bắt không đúng đối tượng. Trên thực tế, trong những năm qua còn tồn tại những trường hợp do xác định căn cứ để áp dụng các trường hợp cụ thể còn lúng túng dẫn đến lạm dụng việc bắt khẩn cấp, bắt người chưa đáng bắt.
Sai về thủ tục khi bắt người: Có trường hợp sau khi bắt khẩn cấp không báo ngay cho VKS để xem xét, phê chuẩn; việc xem xét, phê chuẩn của VKS trong một số trường hợp thụ động, hình thức. Ví dụ: Ngày 24/3/2003, VKSND huyện TT, tỉnh ST đã phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp với Phạm Thanh, sinh ngày 10/10/1988 về hành vi cố ý gây thương tích, nhưng đến ngày 27/3/2003 phải trả tự do cho người bị bắt vì chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Khi bắt người không lập biên bản hoặc lập biên bản không có chữ ký của người chứng kiến. Vi phạm pháp luật khi bắt người dễ dẫn đến tình trạng bắt người tràn lan, không đảm bảo được mục đích của biện pháp ngăn chặn, để lại những hậu quả rất nặng nề cho nạn nhân và gia đình họ, gây cho họ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nội dung và thực tiễn thi hành biện pháp bắt người trong Tố tụng hình sự.doc