MỤC LỤC
Lời mở đầu .1
Nội dung .1
I-Bắt người trong tố tụng hình sự .1
1. Khái quát chung .1
2. Các trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự .2
3. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt 8
II- Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự .9
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp bắt người
trong tố tụng hình sự .9
2. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự .12
Kết luận .14
Danh mục tài liệu tham khảo .15
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2411 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể của công dân, một trong những quyền nhân thân quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định việc bắt.
Bắt người trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng. Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Ngược lại, việc bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống lại nhà nước.
2. Các trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người sau:
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
a/Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS năm 2003)
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr.206
Về đối tượng và điều kiện áp dụng:
Đúng với tên gọi của điều luật là “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” thì đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt để tạm giam. Tuy nhiên việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam chỉ được áp dụng nếu xét thấy cần thiết, không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam. Vì vậy cơ quan tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án để xác định có cần thiết phải bắt bị can, bị cáo để tạm giam hay không.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS quy định những chủ thể sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Đây là một thủ tục pháp lý bắt buộc. Thời hạn để Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam là ba ngày kể từ khi Viện kiểm sát nhận được công văn đề nghị xét phê chuẩn cũng các tài liệu có liên quan.
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định.
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 BLTTHS thì:
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu cơ quan. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải bảo đảm yêu cầu pháp lý nêu trên mới có giá trị thi hành.
Trước khi bắt, người thi hành lệnh phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe và phải lập biên bản về việc bắt người.
Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện của chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không được tiến hành vào ban đêm trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang
b/Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003)
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, tr.210
Đối tượng và điều kiện áp dụng:
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được áp dụng với những người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và người đã thực hiện tội phạm có hành vi bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Để đảm bảo cho việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp đúng pháp luật, đồng thời hạn chế tới mức tối đa sự vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khoản 1 Điều 81 BLTTHS quy định một cách cụ thể, rõ ràng các trường hợp khẩn cấp sau đây :
Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi hoặc kiểm tra, xác minh các nguồn tin qua đó có căn cứ để khẳng định:
Một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Việc chuẩn bị thực hiện tội phạm có thể thông qua các hành vi: tìm kiếm công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm như bàn mưu, tính kế, lập kế hoạch, lôi kéo người khác cũng thực hiện tội phạm. Những hành vi này chưa trực tiếp xâm hại đến lợi ích của Nhà nước và công dân nhưng đã đặt các lợi ích đấy vào tình trạng bị đe dọa, cần thiết phải bảo vệ kịp thời.
Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như chúng ta đã biết căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà tội phạm được phân loại thành 4 nhóm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà Điều 17 Bộ luật hình sự 1999 quy định chỉ người nào chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó muốn bắt khẩn cấp một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm thì phải xác định rội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng (tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình).
Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo hai điều kiện sau:
Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể là người bị hại hoặc người khác đã chính mắt trông thấy người phạm tội và hành vi phạm tội được thực hiện. Việc xác định phải mang tính chất khẳng định để tránh việc bắt nhầm người không thực hiện tội phạm.
Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn. Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn thường là: Đang có hành động bỏ trốn; đang chuẩn bị trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng). Với những trường hợp không cần ngăn chặn việc người phạm tội bỏ trốn thì vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án mà không cần bắt khẩn cấp.
Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó thực hiện tội phạm, nhưng qua việc phát hiện thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần bảo đảm điều kiện:
Thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm thông qua những hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính… Dấu vết của tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ phương tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm… hoặc dấu vết của tội phạm trên thân thể của người bị nghi thực hiện tội phạm.
Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Những căn cứ cho rằng người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn tương tự như ở trường hợp khẩn cấp thứ hai. Căn cứ cho rằng người bị nghi thực hiện tội phạm đang tiêu hủy chứng cứ: xóa dấu vết tội phạm, đang cất dấu công cụ, phương tiện phạm tội, đang tẩu tán tài sản vừa lấy được hoặc đang có hành vi làm giả chứng cứ, làm sai lệch các tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội nhằm gây khó khăn cho việc điều tra.
Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Khoản 2 Điều 81 BLTTHS quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Xuất phát từ tính chất cấp bách của việc ngăn chặn hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội. Do đó thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp có khác với thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam ở những điểm sau :
Thứ nhất, lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành
Thứ hai, sau khi đã bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xem xét và phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
c/Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS 2003)
Đối tượng áp dụng là người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Những trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện,
Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp bỏ trốn, đang cất dấu công cụ, phương tiện phạm tội, đang xóa dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện.
Đang bị đuổi bắt. Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội.
Bắt người đang bị truy nã: Người đang có lệnh truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội, đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì bỏ trốn.
Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã:
Để huy động và phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm rội và trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân, BLTTHS quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã.
Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã:
Khi bắt người phạm tội quả tang và người đang bị truy nã không cần lệnh cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào. Mọi công dân đều có quyền bắt, quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, người bắt phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Việc bắt đối với một số đối tượng khác ngoài việc phải tuân thủ các quy định về bắt người nói chung còn phải căn cứ vào một số quy định khác của pháp luật.
3. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
Theo quy định tại Điều 83 và Điều 84 BLTTHS thì ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải tiến hành ngay những việc sau đây:
Cần tiến hành giao nhận người bị bắt để cơ quan có thẩm quyền sớm có biện pháp điều tra, khám phá tội phạm. Khi giao nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ, phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Đối với người bị truy nã, sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt và sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Cơ quan này sau khi nhận được thông báo phải ra ngay quyết định tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người bị bắt đến giam tại trại tạm giam nơi gần nhất.
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết. Nếu xét thấy việc thông báo cản trở cho việc điều tra thì người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt không cần phải thông báo ngay nhưng khi những cản trở cho việc điều tra không còn nữa thì phải lập tức thông báo.
II – Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.
BLTTHS năm 2003 ra đời đã khắc phục những điểm hạn chế trong các quy định về bắt người của BLTTHS năm 1988, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng bộc lộ một số điểm hạn chế trong thực tiễn áp dụng:
Thứ nhất, mặc dù pháp luật đã quy định cụ thể đối tượng, điều kiện áp dụng, thẩm quyền và trình tự, thủ tục tiến hành đối với từng trường hợp bắt người nhưng trong thực tế vẫn tồn tại tình trạng bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, vi phạm trình tự, thủ tục tiến hành làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Có thể kể đến một số trường hợp như: Trường hợp của chị Trương Thị Thu Vân (xã Đông Phước A, huyện Châu Thành, Hậu Giang) và hai người em ruột là Trương Tấn Tài, Trương Tấn Phước (huyện Phụng Hiệp, Hậu Giang) bị công an huyện Châu Thành bắt nhầm. Vào tối ngày 23/12/2010, khi đang đón cháu gái đi chơi về ở gần chợ Long Thạnh thì ba chị em anh Tài bất ngờ bị còng tay, đưa về trụ sở công an xã Long Thạnh lấy lời khai do nghi ngờ ba người có liên quan đến đường dây bán dâm. Đến nửa đêm, họ mới được thả ra vì công an phát hiện bắt nhầm người. Sau sự việc trên, Giám đốc công an tỉnh Hậu Giang đã chỉ đạo thanh tra ngành kết hợp với lãnh đạo công an huyện Châu Thành tiến hành kiểm điểm, kỷ luật những cán bộ liên quan đến vụ bắt nhầm đồng thời tiến hành xin lỗi công khai đối với ba chị em ông Trương Tấn Tài. Hay như trường hợp của anh Phạm Vũ (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng): Tháng 4/2006, anh Phạm Vũ bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích (chém trọng thương một thanh niên). Đến tháng 5/2006, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng đã ra quyết định phê chuẩn lệnh bắt tạm giam anh Vũ của Công an huyện Đức Trọng. Tuy nhiên tháng 9/2006, thủ phạm của vụ cố ý gây thương tích đã ra tự thú và anh Vũ được cho tại ngoại. Ngày 17/8/2011, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng đã công khai xin lỗi anh Vũ trước cộng đồng dân cư và bồi thường cho anh 101 triệu đồng vì đã phê chuẩn quyết định khởi tố, bắt tạm giam oan sai đối với anh.
Thứ hai, các quy định của BLTTHS năm 2003 về bắt người còn bộc lộ nhiều điểm bất cập:
Điều 80 BLTTHS quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Ngay tên gọi của điều luật là “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” đã dẫn đến cách hiểu sai là “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam”, gây nhầm lẫn với trường hợp cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam. Cần phải hiểu rằng lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam không thể thay thế hay đánh đồng với lệnh tạm giam.
Điều 80 không quy định căn cứ cho trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam như đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81) và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82) dẫn đến khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền trong việc xác định trường hợp nào cần phải bắt bị can, bị cáo để tạm giam và sự không thống nhất trong quy định giữa các điều luật.
Khoản 4 Điều 81 BLTTHS quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, theo đó “Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn”. Tuy nhiên trong trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng thì rất khó xác định Viện kiểm sát cùng cấp là Viện kiểm sát nơi tàu bay, tàu biển đến hay Viện kiểm sát nơi tàu bay, tàu biển khởi hành…
Điều 85 BLTTHS quy định “Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay”. Tuy nhiên Luật lại chưa quy định cụ thể trường hợp nào được coi là cản trở việc điều tra dẫn đến sự thiếu rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng và bảo đảm quyền lợi của người bị bắt.
Thứ ba, về việc áp dụng biện pháp bắt người đối với người nước ngoài không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam còn gặp một số vướng mắc:
Khi tiến hành bắt khẩn cấp hoặc bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người nước ngoài phải tuân theo quy định của BLTTHS như: đọc lệnh bắt, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, hoạt động này cần phải có người phiên dịch. Khi thi hành lệnh bắt khẩn cấp cũng rất khó thực hiện, vì trường hợp bắt này mang tính cấp bách trong khi người phiên dịch của ta còn ít, khả năng ngoại ngữ của lực lượng tiến hành bắt còn hạn chế. Vì vậy, vấn đề đọc lệnh, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt chỉ mang tính hình thức, đối tượng bị bắt không hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia Tố tụng hình sự.
Điều 24 BLTTHS cho phép người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình vì vậy mà một số đối tượng nước ngoài sau khi bị bắt cố tình sử dụng ngôn ngữ bản địa, gây khó khăn cho Cơ quan điều tra trong việc phiên dịch, thu thập tài liệu, chứng cứ ban đầu. Trên thực tế đã xảy ra trường hợp khi quần chúng bắt người nước ngoài phạm tội quả tang giao cho cơ quan Công an, do bất đồng ngôn ngữ nên cơ quan Công an không thể lấy lời khai, thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm, khi hết thời hạn phải trả tự do cho họ. Do vậy đã dẫn đến tình trạng để lọt tội phạm, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
2. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.
Nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong thực tiễn, trước hết cần phải khắc phục những điểm bất cập còn tồn tại trong các quy định của BLTTHS về bắt người theo hướng:
Thứ nhất, Điều 80 BLTTHS nên đổi thành “Bắt tạm giam bị can, bị cáo” để tránh nhầm lẫn với trường hợp cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam.
Thứ hai, cần bổ sung vào Điều 80 căn cứ để bắt người trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Có thể quy định như sau “Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Thứ ba, cần bổ sung vào khoản 4 Điều 81 quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” theo em nên quy định cho Viện kiểm sát nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên. Quy định như vậy sẽ giúp cho việc xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp và giao người bị bắt cho cơ quan có thẩm quyền được nhanh chóng, thuận tiện đồng thời bảo đảm quyền lợi cho người bị bắt có thể được trả tự do một cách nhanh chóng trong trường hợp người đó bị bắt oan, tránh sự lạm quyền của người chỉ huy tàu bay, tàu biển trong việc bắt người. Như vậy, khoản 4 Điều 81 có thể bổ sung như sau:
“Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Đối với trường hợp quy định tại điểm c, khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện kiểm sát nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên”.
Thứ tư, để đảm bảo quyền lợi cho người bị bắt, Điều 84 BLTTHS cần bổ sung quy định đối với biên bản về việc bắt người như sau: “Biên bản phải được lập thành hai bản và giao cho người bị bắt một bản” nhằm tránh sự thất lạc, mất mát, sai sót, tùy tiện của người tiến hành tố tụng đồng thời thể hiện sự tôn trọng người bị bắt.
Thứ năm, đối với quy định thông báo về việc bắt người (Điều 85 BLTTHS), cần có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể trường hợp được coi là cản trở việc điều tra để Cơ quan điều tra có thể thông báo kịp thời cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết. Việc quy định cụ thể như vậy vừa giúp Cơ quan điều tra dễ dàng thực hiện vừa đảm bảo quyền lợi cho người bị bắt, tránh tình trạng bắt người tùy tiện.
Thứ sáu, về việc áp dụng biện pháp bắt người đối với người nước ngoài không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, BLTTHS cần phải quy định thời hạn để Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt dài hơn so với trường hợp thông thường để Cơ quan điề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.doc