Tiểu luận Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ

I- PHẦN MỞ ĐẦU

_Một số nhận xét chung

_Lý do chọn đề tài

 

II- PHẦN NỘI DUNG

1. Một số khái niệm.

_ Phát triển

_ Giáo dục đào tạo

_ Khoa học công nghệ

_ Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá

_ Vài nét về thời kỳ quá độ

2. Giáo dục đào tạo trong thời kỳ quá độ.

_ Sự cần thiết phải phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ quá độ.

_ Giáo dục đào tạo nằm trong mối liên hệ phổ biến với các vấn đề kinh tế, văn hoá, chính trị.

3.Phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ quá độ.

_ Khoa học công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

_ Vai trò của khoa học công nghệ trong thời kỳ quá độ.

4.Mối liên hệ biện chứng giữa giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ.

_ Vai trò của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển khoa học công nghệ.

_Sự tác động trở lại của khoa học công nghệ đối với giáo dục đào tạo.

_ Sự thông nhất cùng phát triển của giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là tất yếu trong thời kỳ quá độ.

 

III- PHẦN KẾT LUẬN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4814 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n giản đến phức tạp theo đó cái cũ biến mất và cái mới ra đời. Đối với sự phát triển nét đặc trưng là hình thức xoáy trôn ốc. Mọi quá trình phát triển riêng rẽ đều có sự khởi đầu và sự kết thúc. Trong khuynh hướng, ngay từ đầu đã chứa đựng sự kết thúc của phát triển còn việc hình thành một chu kỳ phát triển lại đặt cơ sở cho một chu kỳ mới trong đó không thể tránh khỏi lặp lại một số đặc điểm của chu kỳ đầu tiên. Phát triển là một quá trình nội tại: Bước chuyển từ thấp lên cao xảy ra bởi vì trong cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng dẫn đến cái cao. Cái cao là cái thấp đã phát triển. _Giáo dục đào tạo? Là một hiện tượng phổ biến cho mọi giai đoạn phát triển và tồn tại vĩnh hằng cùng với xã hội loài người, giáo dục là hoạt động của thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ sau, của những người biết trước truyền lại cho những người chưa biết những kinh nghiệm về lao động và sinh hoạt cộng đồng và hoạt động của những người tiếp thu kinh nghiệm đó. Nói cách khác cụ thể hơn, giáo dục đào tạo là một quá trình bao gồm tất cả những hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực cũng như phẩm chất con người để có thể phát triển nhân cách họ một cách đầy đủ và làm cho họ trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Trong quá trình phát triển, khi xã hội có sự phân công lao động chặt chẽ thì giáo dục là một phân hệ xã hội được tổ chức tạo điều kiện cho việc hoàn thành nhân cách đáp ứng nhu cầu xã hội. Xem xét từ giác độ lý thuyết hệ thống, nếu coi xã hội là một hệ thống lớn thì có thể coi giáo dục đào tạo là một phân hệ xã hội độc lập tương đối có mục đích, làm cho các thành viên xã hội chiếm lĩnh được nhiều kién thức, kỹ năng và hình thành được các thái độ để phát triển nhân cách. Những kiến thức, kỹ năng, thái độ này xét đến cùng được quy định bởi các chế độ kinh tế, chế độ xã hội và chính trị, bởi cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội. _Khoa học công nghệ? Ta cần tách biệt giũa hai khái niệm khoa học và công nghệ. Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người và về tư duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình. Từ đó chỉ ra những quy luật, kết quả của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả sự hiểu biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công nghệ trong sản xuất là một tập hợp các phương tiện vật chất các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng được con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra mộy sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội. Có ba nghĩa về công nghệ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay: Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng dụng, triển khai trong việc vận dụng các quy luật tự nhiên, các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người. Hai là, công nghệ được hiểu với các tư cách là phương tiện vật chất, kĩ thuật hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa họcđã được vật thể hoá thành các công cụ, các phương tiện kĩ thuật cần cho sản xuất và đời sống. Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ thuật, các kỹ năng có đựoc nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong các nghành khác nhau để tạo ra các sản phẩm. _Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá? Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần IX là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001. tr 89]. Theo tinh thần Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại_ là một nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế. Tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế vượt cả về GDP, cả về lực lượng lao động đều vượt trội hơn so với nông nghiệp. Xét trong điều kiện tình hình nước ta thì mục tiêu trước mắt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tập trung đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản. _Một số nhận định về thời kỳ quá độ. Tính tất yếu: thời kỳ quá độ là thời kỳ mà bất cứ quốc gia nào đi lên CNXH đều phải trải qua ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển bởi lẽ các nước này tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao nhưng vẫn còn phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên đối với những nước này về khách quan có nhiều thuận lợi hơn. Đối với nước ta một nước công nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì lại càng phải trỉa qua một thời kỳ quá độ lâu dài. Đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ đặc điểm của thời kì quá độ ở nước ta “đặc điểm lớn nhất ở nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Mục tiêu của thời kỳ quá độ: Khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triẻn sản xuất và nâng cao trình độ quản lý đảm bảo chất lượng và tốc độ phát triển của nền khinh tế. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu công nghiệp hoá theo hướng hiện đại , vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội , khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hoá, nâng cao dân trí. Giáo dục-đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học kĩ thuật, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Nhà nước có chính sách toàn diện thực hiện giáo dục phổ cập phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế, phát triển năng khiếu bồi dưõng nhân tài. Khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo được xêm là quốc sách hàng đầu [Trích Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH 1991] 2. Giáo dục đào tạo trong thời kỳ quá độ. _Sự cần thiết phải phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ quá độ. Nước ta quá độ lên CNXH trong điều kiện kinh tế hết sức khó khăn của một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển- một nền kinh tế còn lạc hậu, khoa học công nghệ còn kém phát triển, thiết bị cơ sở vật chất cho CNXH còn yếu kém, lực lượng sản xuất còn thấp. Vì vậy mà giáo dục đào tạo là một khâu rất quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ. Hơn nữa, nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng nền kinh tế dựa trên nguồn lực con người là chính do đó rất cần một đội ngũ lao động, đội ngũ cán bộ chuyên môn, tay nghề cao, có trình độ học thức để có thể tiếp thu những công nghệ mới và có như vậy mới có thể thích ứng với quan hệ sản xuất hiện đại. Mà phát triển giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí học vấn chuyên môn nghề nghiệp cho người lao độngvì thế mà giáo dục đào tạo là rất cần thiết trong thời kỳ quá độ , là nhiệm vụ không thể thiếu trong giai đoạn phát triển đất nước. Một nguyên tắc cơ bản của bài toán phát triển là “ Muốn xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN” . Buông lỏng nguyên tắc này thì sự lệch hướng là không thể tránh khỏi. Nói cách khác, để đi trên con đường đã chọn nhân dân phải coi nền giáo dục quốc gia của mình như một điểm nút quyết định sự đi lên củ toàn xã hội. [ Theo bài viết của GS. PTS. Phó trưởng ban khoa giáo Trung Ưng Đảng Phạm Tất Dong ] Giáo dục là một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng.... Chính vì vậy, coi giáo dục là một bộ phận hữu cơ quan trọng nhất trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu giáo dục phải được coi là mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển, từ đó có sự đầu tư thoả đáng cho giáo dục tương tự như việc đầu tư cho các cơ sở hạ tầng quan trọng khác, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển tương tự như đầu tư vào điện năng, đường xá. Ngược lại giáo dục phải đảm bảo nhân lực cho sự phát triển các lĩnh vực khác. Giáo dục như là một dịch vụ. Trong phạm vi này giáo dục có mối quan hệ trực tiếp và phản ứng kịp thời với nhu cầu của thị trường sức lao động. Cũng như trong phạm vi này nơi cung ứng và người tiếp nhận giáo dục có thể tính toán chi phí lợi ích. Giáo dục là một bộ phận của phúc lợi xã hội mà mọi thành viên kể cả những bộ phận thiệt thòi đều phải được hưởng. Mức độ của phúc lợi phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất và khả năng nền kinh tế, cũng như vai trò điều tiết của nhà nước. Ở nước ta hiện nay cần tạo điều kiện cho mọi người đạt trình độ phổ cập kể cả dân cư những vùng khó khăn như miền núi, hải đảo, những người sống lang thang, những người khuyết tật. _Giáo dục đào tạo nằm trong mối liên hệ phổ biến với các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội. -Mối tương quan giữa phát triển giáo dục với phát triển kinh tế. Trong quá trình phát triển của đời sống kinh tế xã hội các hoạt động kinh tế và giáo dục có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Một mặt quá trình phát triển kinh tế như sự ra tăng lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập và mức sống của các tầng lớp dân cư, tạo việc làm, giảm thất nghiệp tạo ra các nguồn lực và nhu cầu phát triển giáo dục ảnh hưởng đến mức đầu tư cho giáo dục từ nhà nước và từ nhân dân, thay đổi nhu cầu nhân lực về số lượng, cơ cấu ngành nghề và trình độ thay đổi nhu cầu giáo dục cơ bản... mặt khác phát triển giáo dục tạo cơ sở hạ tầng xã hội tạo ra nguồn vốn con người cho phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực đa dạng cho sự phát triển của các ngành kinh tế. Những tác động của nhân tố thị trường trong đời sống kinh tế (biến động cung - cầu, giá cả, cạnh tranh) cùng với quá trình phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao (khoảng từ 7% - 9%). Mặt khác tạo ra những sức ép lớn những tác động mạnh (ảnh hưởng tiêu cực và tích cực) đế giáo dục cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Các nghiên cứu về giáo dục sau 10 năn đổi mới đã chứng tỏ rằng những biến động về kinh tế (chuyển đổi cơ chế quản lý và kế hoạch, suy giảm đầu tư, lạm phát... ) có tác động mạnh đến phát triển giáo dục trên nhiều mặt đặc biệt về quy mô đào tạo. -Mối tương quan với văn hoá. Giáo dục hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách, là quá trình chọn lọc, tiếp thu vận dụng và góp phần phát triển các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc và nhân loại. Do đó văn hoá luôn là nền tảng của quá trình phát triển và ngược lại giáo dục góp phần xây dựng và phát triển các giá trị, đặc trưng của nề văn hoá. Không phải ngẫu nhiên mà Nhật Bản vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế thế giới từ đống tro tàn của cuộc chiến tranh thế giới thứ II với khẩu hiệu “tinh thần Nhật Bản – công nghệ phương Tây”. Hàn Quốc là một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hoá với các chính sách khôn ngoan về nhập công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài với việc phát huy các giá trị văn hoá truyền thống phù hợp với yêu cầu và nội dung mới của thời đại. Phát triển giáo dục nước ta hướng tới một yêu cầu xây dựng nền giáo dục Việt nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc là một quan điểm cơ bản xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển giáo dục ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. -Mối tương quan với chính trị. Giáo dục đào tạo nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với tình hình chính trị của một quốc gia. Giáo dục là một trong 3 nhiệm vụ vô cùng trọng đại là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Vì vậy mà từ chỗ 95% mù chữ dân ta đã trở thành một dân tộc có văn hoá, khoa học đủ khả năng giành độc lập tự do cho đất nước. Giáo dục cũng nâng cao trình đọ học vấn phổ thông cho người lao động, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, một thế hệ công dân, nông dân, quân dân, trí thức giàu lòng yêu nước quý trọng độc lập, tự do, tận tụy phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân biết tự rèn luyện mình theo chuẩn mực đạo đức và giá trị văn hoá tinh thần cao đẹp: cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư không ngừng khiêm tốn học hỏi, dũng cảm, năng động và sáng tạo trong lao động và chiến đấu kế tục sự nghiệp vẻ vang của Đảng và dân tộc. Trong khi đó thì Đảng và nhà nước tạo điều kiện, đưa ra các chính sách chủ trương và đầu tư cho sự phát triển giáo dục. 3. Phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ quá độ _ Khoa học công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá Phát triển khoa học công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của khoa học công nghệ là sản phẩm, là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước. Mặt khác, khoa học công nghệ phát triển mang lại những thành tựu tác động rất tích cực và trực tiếp, trở lại thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ở nước ta trong mấy năm gần đây khoa học công nghệ đã góp phần rất tích cực trong việc đổi mới công nghệ sản xuất, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, phục vụ xuất khẩu tạo sức cạnh tranh, tạo thế đứng vững trên thị trường, cho nhiều sản phẩm công nghệ như bia Hà Nội, bia Sài Gòn, dầu ăn Tường An, bánh kẹo Hải Hà, bóng đèn Điện Quang, phích nước Rạng Đông, giấy Bãi Bằng, công tơ điện của Công ty thiết bị đo điện, máy biến áp điện, động cơ diesel cỡ nhỏ của VINAPRO, dẫn điện của CADIVI. Từ kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ đã đưa vào áp dụng trong thực tế sản xuất hàng trăm quá trình công nghệ như quá trình nấu luyện kim, điện phân kim loại chất lượng cao, quá trình tổng hợp vật liệu Composit, các công trình công nghệ như công chế tạo cơ khí như công nghệ tia nước áp suất đến 2500 bar... Tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải... có những sản phẩm được dùng trong công ngiệp quốc phòng, xí nghiệp kinh doanh, một số sản phẩm được xuất khẩu hoặc được thị trường thay thế hàng nhập khẩu. Một số sản phẩm là kết quả của các đề tài nghiên cứu. Ví dụ: dây chuyền chế biến thức ăn gia xúc, dây chuyền thiết bị sản xuất phân lân, hệ thống nấu bột giấy, điều khiển tự động, máy gặt đập liên hợp, máy cày 3 lưỡi, máy tự động chọn hạt cà phê, máy bơm lưu lượng lớn 36000m3/h, cáp ngầm trung áp nhiều ruột, dây chuyền sản xuất thuốc nổ ANFO chịu nước, thiết bị phát tín hiệu báo bão khẩn cấp cho cư dân đánh bắt xa bờ… _Vai trò của khoa học công nghệ trong thời kỳ quá độ. Phát triển lực lượng sản xuất - cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH trên cơ sở thực nghiệm cơ khí hoá nền sản xuất và áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Đi liền với cơ khí hoá là điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất. Sở dĩ như vậy là vì theo quan điểm của Mác - Lênin tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất đặc biệt là của nghành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất, quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng (hay tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế). Sự phát triển của nghành chế tạo tư liệu sán xuất là cơ sở, là “đòn seo” để cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển khu vực nông – lâm – ngư nghiệp. Sự phát triển trên cho thấy đối tượng của công nghiệp hoá hiện đại hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân nhưng tước hết và quan trọng nhất là nghành công nghệ sản xuất tư liệu sán xuất. Mà phát triển khao học công nghệ đồng nghĩa với việc phát triển tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. Vì thế mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là sử dụng khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tất cả chỉ có thể thực hiện trên cơ sở một nền khoa học công nghệ phát triển đến một trình độ nhất định. Khi mà nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão khoa học trở thành một lực luợng sản xuất trực tiếp công nghệ đang trở thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất... tức là đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì khoa học công nghệ phải là động lực của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hơn nữa trong sự phát triển của lực lượng sản xuất khoa học công nghệ đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học công nghệ vào sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt tạo thành cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trương cho lao động hiện đại không còn là thói quen và kinh nghiệm cuả họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói khoa học công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. 4.Mối liên hệ biện chứng giữa giáo dục và khoa học công nghệ. Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là hai mặt của đời sống xã hội. Chúng thống nhất biện chứng với nhau thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sự phát triển của chúng có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế và sự nghiệp đi lên của đất nước. Nhân tố con người có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế. Mà giáo dục đào tạo có nhiệm vụ trọng tâm là phát triển và hoàn thiện con người tạo ra con người của thời đại . Còn khoa học công nghệ là yếu tố then chốt cho tăng trưởng kinh tế. Phát triển ứng dụng công nghệ hiện đại tạo điều kiện chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khu vực hoá trên cơ sở tăng nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh. _Vai trò của giáo dục đào tạo đối sự phát triển khoa học công nghệ. Giáo dục đào tạo có vai trò to lớn trong việc phát triển khoa học công nghệ. Ta thấy trong chiến lược phát triển giáo dục đào tạo đã chỉ rõ con người và sự phát triển của nó là yếu tố quan trọng nhất cho việc chuyển giao công nghệ và phát triển khoa học. Vì thế mà mục tiêu hàng đầu của giáo dục là đào tạo con người – đào tạo nguồn nhân lực – đào tạo một đội ngũ cán bộ có chuyên môn trình độ cao có thể tiếp nhận, phát triển và sáng tạo khoa học công nghệ. Vấn đề quyết định là tạo nguồn nhân lực đủ năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ mà trong giai đoạn hiện nay là năng lực thích nghi và làm chủ công nghệ nhập, biến nó thành công nghệ của mình. Trên cơ sở đó người lao động hình thành năng lực sáng tạo công nghệ mới, hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc nhân cách người lao động. Nền giáo dục phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nền giáo dục hướng vào mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có đủ sức đưa đất nước trở thành một quốc gia công nghiệp. Nói cách khác là nền giáo dục hướng vào mô hình nhân cách và trình độ thực sự trang bị hành trang kiến thức vững chắc của thời đại bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của sự phát triển khoa học công nghệ. Một lần nữa cần nhấn mạnh rằng trong vòng 20 năm tới yếu tố không thể thiếu trong nhân cách con người Việt Nam là năng lực làm chủ công nghệ mới, tiếp cận nhanh chóng những công nghệ hiện đại. Nếu không có năng lực này thì đất nước ta chỉ là nơi tiêu thụ những công nghệ thấp do trung tâm đẩy ra. Thông thường các trung tâm có công nghệ cao thường chuyển ra những công nghệ thấp ngoại vi. Nững nước ở ngoại vi tiếp nhận công nghệ thấp sẽ trở thành những vệ tinh phụ thuộc tức là nằm trong tình trạng “phi công nghiệp hoá” do các trung tâm tạo ra. _Sự tác động trở lại của khoa học công nghệ đối với giáo dục đào tạo. Giáo dục về đạo đức trí tuệ và tay nghề thường đòi hỏi kinh phí lớn để đào tạo thầy giáo, xây dựng và trang bị trường sở, in sách giáo khoa…và quản lý. Bởi vậy vận dụng công nghẹ cao có thể giúp cho việc mở rộng giáo dục đào tạo nhanh hơn, rẻ hơn, chất lượng cao hơn nờ sử dụng phát thanh truyền hình với công nghệ thông tin và giáo dục từ xa, giáo dục thường xuyên… Đặc biệt các phương tiện chuyển tải thông tin hiện đại giúp mọi người có thể thực hiện tự học thường xuyên, tự nâng cao trình độ và tay nghề bằng sự tiếp cận với các nguồn thông tin phong phú trong nước và từ nước ngoài. Hơn nữa công nghệ hiện đại có thể tạo khả năng mới cho mọi người có thể đa dạng hoá kiến thức và nghề nghiệp đủ sức đáp ứng thời đại đòi hỏi sự năng động của mọi người chuyển dịch lĩnh vực hoạt động. Ví dụ: Máy tính sẽ là công cụ hàng ngày tạo cho mọi người khả năng thăng tiến trong thang giá trị của xã hội hiện đại. _Sự thống nhất cùng phát triển của giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là tất yếu quan trọng trong thời kỳ quá độ . Không phải ngẫu nhiên mà nước ta coi phát triển giáo dục đào tạo cùng vơpí khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Từ mối liên hệ tác động qua lại giữa giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ đã minh chứng được phần nào tính tất yếu của việc thống nhất cùng phát triển này. Đây là trọng điểm không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đai hoá trong thời kỳ quá độ. Hiện nay công nghệ đang có vai trò rât lớn đối với các quốc gia muốn hội nhập và bước ra trường quốc tế. Nhờ các nghành công nghệ cao các nước tư bản phát triển đã thoát khỏi các tác động của cuộc khủng hoảng năng lưọng thập kỷ 70. Chẳng hạn ở các nước thuộc Tổ chức tiêu thụ dầu hoả, tỷ suất tiêu dùng năng lượng trong tổng sản phẩm nội địa năm 1985 đã giảm xuống 20% so với năm 1973. Các nước tư bản chủ nghĩa đã tiết kiệm 217,2 tỷ đô la do tiết kiệm tiêu dùng năng lượng trên cơ sở các công nghệ cao được áp dụng. Trong thời gian này, do vai trò của khoa học công nghệ cao mà các quốc gia cạnh tranh làm chủ công nghệ cao. Về điều này Lý Trung Kiệt viết: “Cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới đang tiếp tục phát triển có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế thế giới. Đặc biệt là công nghệ cao đã trở thành điểm lôi cuốn kinh tế một nước phát triển. Ai chiếm ưu thế trong lĩnh vực công nghệ cao người đó nắm quyền chủ động phát triển kinh tế và chính trị. Chính vì vậy mà cạnh tranh thế giới ngày càng trở thành cạnh tranh của khoa học công nghệ. Phần những nước có thực lực đều coi phát triển khoa học công nghệ là hướng chủ công chiến lược, coi chiến lược phát triển khoa học công nghệ là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia và an ninh quốc gia”. Và để làm được điều đó thì phát triển giáo dục đào tạo là một khâu không thể thiếu. Bởi chỉ có một nền giáo dục tốt, đào tạo lực lượng khoa học công nghệ có đủ tài đức thì mới có thể phát triển một nền khoa học hiện đại và toàn diện. Không những thế mà Mỹ_một cường quốc lớn nhất trên thế giới hàng năm đã chi một khoản rất lớn trong ngân sách nhà nước cho giáo dục là 7% năm 1970. Còn Hàn Quốc luôn luôn thực hiện chiến lược “ Nhân tài số một”. Từ năm 1991 – 2001 Chính phủ Hàn Quốc quyết địng mỗi năm tăng kinh phí cho giáo dục bằng 0,1% tổng giá trị sản phẩm quốc dân. Ở nước ta thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ không phát triẻn giáo dục thì không thực hiện được cách mạng khoa học công nghệ’ Qua một số dẫn chứng đó cho thấy việc phát triển giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là một tất yếu trong thời kỳ quá độ. III-PHẦN KẾT LUẬN Bài học kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh tế đều tập trung ở luận đề mà Việt Nam cũng như quốc tế đã thừa nhận là khoa học và công nghệ là nền tảng cho mọi sự phát triển và tiến bộ xã hội. Thế nhưng tại sao chỉ có một số nước thành công còn một số nước khác lại chưa? Câu trả lời trước hết là ở trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Điều này phụ thuộc không nhỏ vào nền giáo dục của đất nước. Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chắc chắn sẽ thành công nếu như đất nước có đội ngũ tri thức nói chung, tri thức khoa học và công nghệ nói riêng ngang tầm với thời đại, đủ sức giải quyết những nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cach mạng đặt ra và nếu như Đảng và nhà nước ta có những chính sách đúng gìn giữ và tăng cường “nguyên khí quốc gia” một cách bền vững. Bài viết của em về đề tài “Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ” đã hoàn thành. Do lần đầu tiên làm đề tài này

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60099.DOC
Tài liệu liên quan