Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.Đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Phân tích sự kết hợp hữu cơ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, ta có thể thấy Hồ Chí Minh đã vạch ra hướng đi vô cùng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Đó là chìa khóa đi đến thành công của cách mạng Việt Nam bởi vì:
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2963 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện chứng giữa vấn đề của dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h công, đại thành công”.
Như vậy, vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khá rõ ràng. Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Bởi vậy, “chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”. Học thuyết về đấu tranh giai cấp là một nội dung quan trọng trong chủ nghĩa Mác. Khi vận dụng học thuyết này vào Việt Nam, bằng sự hiểu biết và suy tư sâu sắc về thực tiễn phương Đông và thực tiễn Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định suy nghĩ riêng của mình về vấn đề đấu tranh giai cấp ở phương Đông. Ngay ở dòng đầu tiên của Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày ngắn gọn và dứt khoát ý kiến cho rằng, ở phương Đông và ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây” (phương Tây diễn ra quyết liệt và đẫm máu hơn). Bởi vì, ở phương Tây, có đấu tranh giai cấp vì có xung đột về quyền lợi giữa các giai cấp, nhưng ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, theo Nguyễn Ái Quốc, “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu”. Vì sao giảm thiểu, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích rất cụ thể và thuyết phục như sau: ở Việt Nam, “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc”. Để làm rõ quan điểm này, Nguyễn Ái Quốc đã so sánh đặc điểm trên ở phương Đông với tình hình ở phương Tây, từ đó, dựa trên một chuẩn chung theo học thuyết của Mác về giai cấp để nhìn nhận mức độ đấu tranh giai cấp ở phương Đông. Nguyễn Ái Quốc đã phác họa ra kẻ bóc lột ở phương Đông là “những kẻ mà ở đó được coi là địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ” và “những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả thôi”.
Như vậy, khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận đấu tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là động lực duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm vụ cứu nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại.
Tuy nhiên người luôn trung thành với quan điểm, đường lối tư duy của Quốc tế Cộng sản và Chủ nghĩa Mac – Lênin. Người đã vận dụng linh hoạt sang tạo trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra một cách rầm rộ: các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái… nhưng kết cục tất cả đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do sự bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế và bối cảnh của thời đại, nên không xác định được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu của xã hội cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam. Những nhà nho, sĩ tu yêu nước tuy mang trong mình tấm lòng yêu nước thương dân , tinh thần dân tộc lớn lao nhưng lại thiếu một yếu tố quan trọng đó là lập trường tư tưởng đúng đắn.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Người ra đi mang theo chủ nghĩa yêu nước bên mình, quyết chí tìm lời giải cho sự bế tắc đó. Người tiếp xúc với ánh hào quang chân lí của chủ nghĩa Mac – Lênin, để rồi từ đó mở ra con đường sang chói cho dân tộc Việt Nam. Như đã trình bày ở trên trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Điều đó thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc, sự kế thừa trung thành của Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mac – Lênin vế vấn đề này cũng như mọi vấn đề khác của chủ nghĩa xã hội. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh được thể hiện ở những điểm sau:
Một là: Người khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng Sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Hai là: Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Bốn là: Thiết lập chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Năm là: Gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đi lên từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh một mặt đi theo lí luận của chủ nghĩa Mac – Lênin, một mặt vẫn luôn nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc. Người cho rằng: giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết và trước hết, nhưng giải phóng để giành độc lập dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh khác với con đường giải phóng của ông cha ta – gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến ( cuối thế kỉ XIX), với chủ nghĩa tư bản ( đầu thế kỉ XX). Độc lập dân tộc ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư bản không tránh khỏi những hạn chế và mâu thuẫn bắt nguồn từ bản chất kinh tế - chính trị của các chế độ ấy. Những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Vượt qua hạn chế đó chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Giải phóng dân tộc dẫn tới độc lập dân tộc là phạm trù thuộc về vấn đề dân tộc. Nhưng chủ nghĩa xã hội là phạm trù thuộc về vấn đề giai cấp. Năm 1960, Người nói: “ chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “ chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sống tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất…” Trong xã hội chủ nghĩa không còn mâu thuẫn giai cấp nữa, vấn đề giai cấp được giải quyết triệt để. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, xóa bỏ đến tận gốc rễ của quan hệ bóc lột giai cấp thiết lập một nhà nước mới thực sự của dân, do dân, vì dân. Tất cả đều mang tính dân tộc trên cơ sở nền tảng tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, thì mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Như vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn phải gắn với mục đích để sao cho vấn đề giai cấp cũng đồng thời được giả quyết. Người khẳng định rằng: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây của Nguyễn Aí Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu giả pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam. Đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quĩ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mac – Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải là phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “ Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh vừa phản ánh qui luật khách quan của sự ngiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói:
Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vấn đề dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện tiên quyết để giải phóng giai cấp bị trị khỏi sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Chính vì vậy lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Điều này hoàn toàn phù hợp với lập luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp đã đề cập ở trên. Trong tiến trình cách mạng, nhất là ở những thời điểm có ý nghĩa quyết định như khi chuẩn bị tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám – 1945 hay những năm tháng cực kì cam go của cuộc kháng chiến chống Mĩ sau này. Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền lợi dân tộc lên trên hết và trước hết. Tháng 5/1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “ Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Bởi vì “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.Đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Phân tích sự kết hợp hữu cơ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, ta có thể thấy Hồ Chí Minh đã vạch ra hướng đi vô cùng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Đó là chìa khóa đi đến thành công của cách mạng Việt Nam bởi vì:
Trước hết, muốn giành được thắng lợi triệt để thì cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải được lãnh đạo bởi chính Đảng của giai cấp công nhân nhưng phải có toàn dân tham gia trong đó lực lượng nòng cốt là liên minh công – nông. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ mà theo Người, chỉ khi nào toàn dân tộc cùng tham gia đấu tranh mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh dân tộc - giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Nhưng trước hết và trên hết là phải giải quyết được vấn đề dân tộc , giải phóng dân tộc. “ Chính lập trường và lợi ích của giai cấp công nhân đòi hỏi phải giải phóng dân tộc’. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, vấn đề giai cấp được thể hiện ở vấn đề dân tộc còn vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân chứ không phải là hi sinh cái nọ cho cái kia.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa. Dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước. Tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.
Từ quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người đã khẳng định: Cách mạng giải phóng trong thời đại mới phải do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo và “ Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất”. Theo Hồ Chí Minh, “ Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”. Phát triển sáng tạo học thuyết Mac – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là “ Đảng của giai cấp vô sản” đồng thời là “ Đảng của dân tộc Việt Nam”, “ Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ Quốc và nhân dân ( trích: Hồ Chí Minh toàn tập). Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sang lập đã qui tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc việt nam. Nhờ đó ngay từ đầu Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Điều này cũng thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trung thành với những quan điểm của V.I.Lênin, Bác vẫn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn thế nữa Bác còn giữ được tinh thần dân tộc trong quan điểm của mình. Trong báo cáo chính trị tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ( thắng 2/1951) Hồ Chí Minh nêu rõ: “ Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1953, Bác viết: “ Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc…Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là đảng của toàn dân”. Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳn định: “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Năm 1961, Bác tiếp tục khẳng đinh: “ Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị”. Năm 1965, Người cho rằng: “ Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Qua hàng loạt các cách thể hiện khác nhau như vậy, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định được bản chất giai cấp của Đảng ta là Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của toàn dân tộc. Quan điểm này có ý nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình. Trong thành phần của Đảng, ngoài công nhân, còn có những người ưu tú trong giai cấp công nhân, trí thức và các thành phần khác. Đảng ta cũng khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kì cách mạng. Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác. Nghị quyết Đại Hội lần VII của Đảng đã chỉ rõ: “ Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mọi biểu hiện tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp coi nhẹ vấn đề dân tộc hoặc quá nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà xem nhẹ vấn đề giai cấp đều đi ngược lạị với quan điểm của Hồ Chí Minh. Vì vậy mà một trong bốn nội dung về công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận, có nôi dung như sau: Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chú ý chống giáo điều, cơ hội, chống chủ nghĩa cá nhân…Thực tiễn đã cho thấy, trong 80 năm tồn tại và phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt Nam 80 năm qua luôn “ cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi và cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25387.doc