MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
MỤC LỤC 2
PHẦN MỘT 3
GIỚI THIỆU CHUNG 3
1.Biến đổi khí hậu là gì? 3
2.Nguyên nhân gây biến đôi khí hậu: 4
3.Hậu quả 4
4.Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới 5
5.Biến đổi khí hậu ở Việt Nam 9
PHẦN HAI 11
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI DU LỊCH SINH THÁI BIỂN VIỆT NAM 11
1.Hệ sinh thái Biển và Vùng bờ 11
2. Ảnh hưởng của BĐKH đối với du lịch sinh thái biển 15
3.Những lỗ lực của nhân loại 22
PHẦN BA 25
KẾT BÀI 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
28 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 5086 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng đối với du lịch sinh thái biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cuối cùng lại có sự tác động rất lớn của con người mà chúng ta gọi đó là sự làm nóng bầu khí quyển hay hiệu ứng nhà kính.Có thể hiểu sơ lược là: nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi sự cân bằng giữa hấp thụ năng lượng mặt trời và lượng nhiệt trả vào vũ trụ. Khi lượng nhiệt bị giữ lại nhiều trong bầu khí quyển thì sẽ làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Chính lượng khí CO2 chứa nhiều trong khí quyển sẽ tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của trái đất. Cùng với khí CO2 còn có một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NOx, CH4, CFC. Với những gia tăng mạnh mẽ của nền sản xuất công nghiệp và việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch (dầu mỏ, than đá..), nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ 1,4oC đến 5,8oC từ 1990 đến 2100 và vì vậy sẽ kéo theo những nguy cơ ngày càng sâu sắc đối với chất lượng sống của con người.
Có thể thấy tác hại theo hướng nóng lên toàn cầu thể hiện ở 10 điều tồi tệ sau đây: gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực, những đợt nóng, bão tố và lũ lụt, khô hạn, tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đi sự đa dạng sinh học và phá huỷ hệ sinh thái. Những minh chứng cho các vấn đề này được biểu hiện qua hàng loạt tác động cực đoan của khí hậu trong thời gian gần đây như đã có khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam Á, châu Phi và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán nghiêm trọng dễ dẫn tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu thì đang bị đe dọa xảy ra những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng như những đợt băng giá mùa đông khốc liệt. Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có nguyên nhân từ hiện tượng trái đất ấm lên trong nhiều thập kỷ qua. Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy số lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ân Độ Dương, bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia, hay cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất siêu bão Nargis đánh vào Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số lượng người thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn 135.000 người và đẩy hơn một triệu người vào cảnh không nhà cửa. Tính ra, thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn 220.000 người trong năm 2008 và gây thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành một trong những năm đáng sợ nhất trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên tai về người và của. Diễn biến mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp do thời tiết quá khô hạn vừa xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210 người và làm bị thương hơn 500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất. Một nghiên cứu với xác suất lên tới 90%.cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất.
Dự báo về mực nước biển dâng
Nhiều nghiên cứu trong khuôn khổ Tổ chức liên chính phủ về Biến đổi khi hậu (IPCC) đã đánh giá thực tế quá trình mực nước biển dâng trên thế giới trong 120 năm qua, từ 1880 đến năm 2000, và từ đó đã dự báo các kịch bản mức nước biển dâng đến cuối thế kỷ XXI, tuỳ theo các kịch bản về hiệu ứng nhà kính và tan băngMức độ nghiêm trọng của biển dâng tác động lên các châu thổ trên thế giới, tình hình xâm thực của các bờ biển, và tác động lên cư dân ở những nơi này cũng đã được dự báo.
Đối với khu vực Đông Dương, IPCC dự báo nhiệt độ sẽ gia tăng +1°C vào 2010 - 2039, và +3° đến +4°C vào 2070 – 2099; vũ lượng sẽ giảm 20 mm vào 2010 – 2039, rồi sau đó tăng +60 mm vào 2070 – 2099; mực nước biển dâng cao 6 cm/năm, đạt mức 20 cm vào 2030, và 88 cm vào 2100.
Qua các đo đạc đã được tiến hành, IPCC đã ghi nhận những biến đổi về nhiệt độ nước biển bề mặt và mực nước biển ở Đông Nam Á. Hình 4 và Hình 5.Qua các dự báo trên, Việt Nam được liệt vào các địa bàn bị uy hiếp nghiêm trọng nhất.
Hình 3. Dự báo ảnh hưởng của biển dâng đến bờ biển và cư dân ven biển
Dự báo tác động của biển dâng lên môi tường tự nhiên.Khi mực nước biển dâng, hậu quả dễ thấy nhất là nhiều vùng sẽ bị ngập. Nhưng hậu quả của biển dâng không phải chỉ có ngập tĩnh.Động lực biển vùng ven bờ và cửa sông, sóng vỡ khi tiếp cận bờ sẽ tác động mạnh hơn lên đường bờ, bãi triều. Bờ biển bị xâm thực và cơ sở hạ tầng ven biển bị đe dọa lớn hơn.
Ở các đồng bằng ven biển, độ ngập sâu hơn, thời gian ngập kéo dài hơn. Xâm nhập mặn sẽ vào sâu hơn, nguồn nước ngọt khan hiếm hơn. Chế độ thủy văn, thủy lực trên từng địa bàn và trên cả đồng bằng sẽ có những thay đổi, khiến cho động thái bồi xói bờ sông, cù lao, cồn bãi, bồi lắng phù sa trên hệ thống sông chính và vùng cửa sông cũng
5.Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐK.
Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008, được trình bày tóm tắt dưới đây.
Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990)
Năm
Nhiệt độ tăng thêm(0C)
Mực nước biển tăng thêm (cm)
2010
0,3-0,5
9
2050
1,1-1,8
33
2100
1,5-2,5
45
Chú ý: rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì của khí hậu và đặc điểm sụt hạ địa chất địa phương
Bảng 2.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990)
Năm
Tây Bắc
Đông Bắc
Đồng bằng BB
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây nguyên
Nam Bộ
2050
1,41
1,66
1,44
1,68
1,13
1,01
1,21
2100
3,49
4,38
3,71
3,88
2,77
2,39
2,80
Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990
Kịch bản / năm
2050
2100
A1F1
13,7
39,7
A2
12,5
33,1
A1B
13,3
31,5
B2
12,8
28,8
A1T
12,7
27,9
B1
13,4
26,9
Chú ý: số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ địa chất địa phương
Tính trung bình của cả 6 kịch bản thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt đô có khả năng tăng thêm 2,80C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan băng mà chỉ tính đến sự dãn nở nước đại dương. IPCC cũng dự báo rằng cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể tăng thêm tối đa 81 cm .Tuy nhiên các nhà khoa học Anh cho rằng con số đó chưa phản ánh đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể tăng thêm đến 163 cm- tức là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC.
Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam:
Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam
Nhiệt độ ở các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa
Đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có thể tăng thêm từ 4,0 đến 4,50C theo kịch bản cao nhất và 2,0 đến 2,20C theo kịch bản thấp nhất
Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo tất cả các kịch bản, măc dù vậy vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với dự báo của IPCC năm 2007
- BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm chí còn gây khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động này ở Nam Trung Bộ lớn hơn Bắc Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây Nguyên
Những nhận định trên đây là cơ sở để nhận diện một số tác động của BĐKH đối với biển Việt Nam.
PHẦN HAI
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI DU LỊCH SINH THÁI BIỂN VIỆT NAM
1.Hệ sinh thái Biển và Vùng bờ
Biển Đông (vùng biển đông Việt Nam) là một biển rìa lục địa (marginal sea), một phần của Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích từ Singapore tới eo biển Đài Loan với diện tích áng chừng khoảng 3.500.000 km². Đây là một hình thể biển lớn nhất sau năm đại dương. Các đảo ở Biển Đông có số lượng nhiều, tập hợp thành một số quần đảo. Vùng biển này và phần lớn các đảo không có người ở của nó là mục tiêu tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia xung quanh. Những tranh chấp đó cũng thể hiện ở số lượng tên gọi được sử dụng để chỉ vùng biển này.
Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa địa chính trị vô cùng quan trọng. Nó là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo tổng lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm, hơn 50% đi qua Eo biển Malacca, Eo Sunda, và Eo Lombok. Hơn 1.6 triệu m³ (10 triệu barrel) dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày, nơi thường xảy ra các vụ hải tặc, nhưng hiện đã giảm nhiều so với giữa thế kỷ 20.
Vùng này đã được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 1.2 km³ (7.7 tỷ barrel), với ước tính tổng khối lượng là 4.5 km³ (28 tỷ barrel). Trữ lượng Khí gas tự nhiên được ước tính khoảng 7.500 km³ (266 nghìn tỷ feet khối).
Theo những nghiên cứu do Sở môi trường và các nguồn lợi tự nhiên Philippine, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái.
Việt Nam được thiên nhiên ưu ái cho một bờ biển dài, có rất nhiều đảo và giàu tài nguyên; các hệ sinh thái biển chủ yếu được phân bố dọc theo vùng lãnh hải gần bờ và gồm có các rặng san hô, tảo biển và rừng ngập mặn.
Các hệ sinh thái có năng suất sinh học cao được phân bố dọc theo vùng lãnh hải gần bờ mặc dù chúng nhỏ hơn rất nhiều lần so với các hệ sinh thái ở xa bờ. Trong số những hệ sinh thái đó có các vùng đầm lầy thủy triều, các khu rừng ngập mặn, vùng cửa sông, các khu đầm phá, vịnh nhỏ, những rặng san sô, các vùng châu thổ, các bãi cát ven biển, đảo, bãi đất lầy theo thủy triều, thềm lục địa mềm và cung, các đìa nuôi trồng thủy sản nước lợ. Những khu hệ sinh thái này có các cấu trúc và chức năng khác nhau, như điều hòa khí hậu, nhưng là nơi cư trú vô cùng quan trọng và là nơi sinh sản của hàng ngàn loài sinh vật biển và các loài chim nước.
Việt Nam có 3.260 km bờ biển, đứng thứ 27 trong 156 quốc gia có biển trên thế giới; với vùng biển rộng gần 1 triệu km2 và khoảng 3.000 hòn đảo lớn nhỏ..., Việt Nam có quá nhiều lợi thế để phát triển du lịch biển, đảo so với nhiều nước trong khu vực. Việt Nam có đủ các điều kiện tự nhiên phát triển đa dạng các loại hình du lịch biển đảo như du lịch sinh thái, khoa học, lặn ngầm, tắm biển, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thể thao giải trí, lặn biển, du ngoạn... lặn biển...
Đánh giá về tiềm năng phát triển du lịch biển, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho rằng: Du lịch biển Việt Nam có nhiều lợi thế phát triển hơn so với du lịch trên đất liền. Vì nước ta có nhiều bãi biển khá bằng phẳng, nước biển trong, sóng gió vừa phải, không có chỗ nước xoáy, không có sinh vật gây hại. Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên biển-đảo, hang động ngầm, cảnh quan ngầm của các rạn san hô với phong cảnh thiên nhiên và các giá trị văn hoá xã hội vùng ven biển...
Các giá trị vốn có nói trên rất thích hợp cho việc phát triển các cụm hoặc khu du lịch tập trung với các loại hình đa dạng như du lịch sinh thái, khoa học, lặn ngầm, tắm biển, thể thao giải trí, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, mạo hiểm du ngoạn, du lịch lặn... Hiện nay, các loại hình du lịch biển này đã bắt đầu phát triển ở Nha Trang dựa trên cơ sở khai thác các giá trị dịch vụ của rạn san hô. Bên cạnh đó, nước ta còn có lợi thế phát triển du lịch biển là do có vùng biển rộng, bờ biển dài, nhiều đảo khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, lại giàu đa dạng sinh học, nhiều phong cảnh đẹp, và di tích lịch sử ven biển.
Dọc ven biển nước ta đã xác định được khoảng 126 bãi cát biển có thể chứa khoảng vài chục đến vài trăm ngàn người, trong đó có khoảng 20 bãi cát biển đạt tiêu chuẩn quốc tế, dài 16km. Đó là chưa kể đến hàng trăm bãi biển nhỏ, đẹp, nằm ven các vụng, vũng tĩnh lặng, ven các đảo hoang thuộc quần đảo Tây Bắc vịnh Bắc Bộ, quần đảo Cát Bà, Cù Lao Chàm, cụm đảo Hòn Mun, Lý Sơn, Côn Đảo, Phú Quốc. Tuy sức chứa khách không lớn, nhưng rất thích hợp với loại hình du lịch picnic, du ngoạn của các nhóm nhỏ du khách yêu thiên nhiên.
Những phong cảnh đẹp, kỳ thú trên biển cũng là lợi thế thu hút khách du lịch đến với Việt Nam như: năm 1994, vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới; năm 2003, vịnh Nha Trang (năm 2003), vịnh Lăng Cô (năm 2009) được công nhận là một trong 30 vịnh đẹp nhất thế giới. Việt Nam còn có 17 khu bảo tồn biển đang được quy hoạch trình Chính phủ phê duyệt sẽ góp phần phát triển du lịch sinh thái biển và là nơi phát triển các nghề mới cho người dân như câu cá, đánh cá giải trí, nuôi cá cảnh san hô; hai thành phố ven biển là Huế và Hội An được công nhận là Di sản văn hoá Thế giới. Ngoài ra, các khu di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn và Động Phong Nha đều nằm ven biển. Tất cả, không chỉ để duy trì nguồn lợi đa dạng sinh học cho vùng biển, mà còn là "cơ sở tài nguyên" để phát triển thành những cụm du lịch liên hoàn và du lịch sinh thái biển trong tương lai.
Du lịch sinh thái biển Việt Nam
2. Ảnh hưởng của BĐKH đối với du lịch sinh thái biển
Trong lịch sử xa xôi hàng trăm, ngàn triệu năm trái đất đã trải qua những biến động kiến tạo dữ dội với sự trao đổi năng lượng – nhiệt độ khổng lồ giữa các lớp dung nham bên trong và lớp vỏ thạch quyển, thủy quyển, khí quyển trên mặt: làm dung nham trào và phun ra ngoài; làm hình thành, chia tách, xô đẩy, xoay chuyển các lục địa và mảng lục địa; Làm biến mất các đại dương cổ, xuất hiện đại dương mới; tạo các dãy núi cao, hẻm vực sâu ở đại dương và trên lục địa v.v…
Gần ngày nay nhất, Kỷ Đệ tứ (từ năm triệu năm đến nay) được coi là thời kỳ tương đối yên tĩnh song các vận động của quả đất cũng đã trải qua nhiều thời kỳ biến động lớn khí hậu bề mặt địa cầu. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn.
Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ băng hà nhiệt độ bề mặt trái đất khô lạnh.
Vào các thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ giao động của mực nước biển (dâng, hạ) lên đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với biên độ giao động mực nước biển 2-3 mét hoặc hơn. Các chu kỳ biến động không phải đều đặn liên tục mà có những thời đoạn ngừng nghỉ hoặc đột biến.
Việt Nam và nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á với vị trí địa lý của mình, không phải làvùng có băng vĩnh cửu kể cả trong hiện tại và quá khứ song cũng là vùng chịu tác động của các thời kỳ băng hà, gian băng với các dấu tích của biển lùi, biển tiến, và biến động khí hậu lớn có tính toàn cầu khá rõ rệt.
Trong thế kỷ XX, nhất là trong nửa cuối thế kỷ XX hàng loạt các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, các nước trong khu vực và quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là địa chất học, khảo cổ học, hải dương học, cổ sinh vật học… về Kỷ Đệ tứ đã đưa ra nhiều kết luận quan trọng về những vấn đề nêu trên. Nhưng kết luận rất đáng chú ý là:
- Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong Kỷ Đệ tứ- băng hà Uôc 2 (Wurm 2) đạt đỉnh cao cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía biển Đông. Dấu vết đường bờ biển thời đó hiện nằm ở độ sâu 100-120m so với mực nước biển hiện tại trên thềm lục địa. Thời đó toàn bộ vùng vịnh Bắc Bộ và thêm Sunda (nối liền Nam bộ Việt Nam với Indonesia), Vịnh Thái Lan còn là đất liền.
- Thời kỳ gian băng lớn nhất gần ngày nay (thời kỳ biển tiến Flandrian) diễn ra vào khoảng 6.000 – 4.000 năm trước đây. Vào thời kỳ này mực nước biển dâng cao hơn 4 –5 m so với mực nước biển hiện tại. Vào thời đó vịnh Hạ Long và vịnh Thái Lan mới bị ngập nước như ngày nay.
Biển còn lấn sâu và phủ trùm gần như toàn bộ đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long cũng như các đồng bằng châu thổ các sông ven biển miền trung Việt Nam. Các đồng bằng này như chúng ta thấy được ngày nay chỉ được hình thành và được con người chiếm lĩnh, khai thác dần khi biển rút bắt đầu từ khoảng 4.500 năm đến nay.
-Những tài liệu nghiên cứu chi tiết về địa chất học và khảo cổ học còn cho biết, từ cách đây 4.000 năm đến nay, xu hướng chung là biển lùi song vẫn có một số chu kỳ tiến, lùi với biên độ giao động mực nước biển 2 – 3 m vào khoảng trước 3.000 năm, trước 2.000 năm, sát trước và sau công nguyên. Thời đoạn từ 1.000 – 1.200 năm sau công nguyên đến nay, toàn vùng đang nằm trong chu trình biển tiến.
- Có thời đoạn có dấu hiệu của biển dâng đột biến khiến cư dân tiền sử phải dịch chuyển địa bàn cư trú không bình thường, rõ nhất là ở khoảng giao thời hậu kỳ đá mới sang sơ kỳ kim khí ở ven rìa đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Mã, ở ven biển cũng như ở ven đồng bằng sông Cửu Long.
Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy nếu theo chu kỳ biển tiến, biển lùi với biên độ thời gian khoảng 800 - 1.000 năm thì hiện tại chúng ta đang ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh lên hoặc có đột biến.
Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra nằm trong chu trình chung của biển tiến cộng thêm tác động nhanh do hiệu ứng nhà kính gây ra chỉ càng làm chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một cách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược lại. Dù nguyên nhân nào thì việc nhận thức được để có kế hoạch ứng phó vì sự tồn tại và phát triển bền vững cho mỗi quốc gia dân tộc cũng như cho toàn nhân loại là điều con người có thể và phải làm được
Biến đổi khí hậu đến nay là một thực tế đã được khoa học khẳng định. Việt Nam, với bờ biển dài 3.260 km và có hai trong số các châu thổ lớn nhất thế giới, là một trong những nước dễ bị ảnh hưởng bởi thay đổi khí hâu nhất. Khoảng 20% dân số Việt Nam sống dưới mức chuẩn nghèo. Hầu hết trong số họ sống trong các vùng giàu tài nguyên nhưng nhiều biến động chịu nhiều rủi ro liên quan đến khí hậu.
Thay đổi khí hậu không thể bỏ qua trong khi chúng ta đang nỗ lực gìn giữ thiên nhiên và hỗ trợ người nghèo và dễ bị tổn thương. Những thay đổi khí hậu được dự đoán gồm tăng quay vòng gió mùa, tăng nhiệt độ bề mặt, tăng mức độ và tuần suất của những đợt mưa lớn, và mực nước biển dâng cao. Những thay đổi này có thể dẫn tới những tác động to lớn tới các hệ sinh thái quốc gia và khu vực; tới thủy học và tài nguyên nước; tới nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; tới các vùng núi và duyên hải; tới những nơi cư trú và sức khỏe của con người. Thích ứng với thiên tai giờ không phải là sự lựa chọn nữa, mà là sự bắt buộc, nếu chúng ta muốn tránh những tác động tồi tệ nhất của thay đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam đã đề cao ưu tiên đối với các vấn đề thay đổi khí hậu mới nảy sinh. IUCN coi thay đổi khí hậu là một trong những trọng tâm quan trọng của mình và đang xây đựng những kiến thức sâu rộng về những tác động tiềm tàng của thay đổi khí hậu, đặc biệt chú trọng tới đa dạng sinh học và các mối liên kế.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm thường vượt quá 20oC, lượng mưa trung bình 1500mm. Mùa lạnh và khô từ tháng 11-4, còn mùa nóng và mưa diễn ra từ tháng 5-10. Tuy nhiên các chỉ số này thay đổi theo chiều dài đất nước và theo cả địa hình cho nên mùa mưa với lũ lụt và mùa khô với hạn hán thưòng mang tính cực đoan và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Việt Nam nằm dọc theo đường di chuyển bão Tây-Bắc Thái Bình Dương và là một trong 10 nước trên thế giới được coi là dễ bị tổn thương nhất trước áp thấp nhiệt đới. Trung bình mỗi năm có 6-7 trận bão hay áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến vùng bờ biển của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc và miền Trung.
Nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy, từ năm Từ 1900 đến 2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0.1°C một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn với nhiệt độ trung bình các tháng hè tăng từ 0.1°C đến 0.3°C một thập kỷ. nếu so với năm 1990, nhiệt độ chắc sẽ tăng trong khoảng từ 1.4-1.5°C vào năm 2050 và từ 2.5-2.8°C vào năm 2100. Điều này cho thấy xu thế tăng nhiệt độ cứ qua 10 năm lại lớn lên. Mùa nóng sẽ khắc nghiệt, và lượng mưa cùng với cường độ mưa sẽ tăng lên đáng kể ở phía Bắc. Sự biến đổi thất thường của thời tiết còn được thể hiện qua đợt mưa lớn trái mùa tại các tỉnh miền Bắc. Ví dụ: từ ngày 30/10 đến chiều 01/11/2008. Tại thủ đô Hà Nội lượng mưa lên tới gần 500mm đã gây ra cảnh úng lụt trầm trọng, thiệt hại cả về người và tài sản của nhân dân. Mùa khô sẽ càng sâu sắc và có nguy cơ biến các vùng dễ bị tổn thương như Nam Trung bộ thành bán hoang mạc. Phần lớn diện tích vùng ven bờ của Việt Nam bị đe doạ ngập lụt hàng năm, trong đó đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 75% tổng diện tích, và 10% diện tích của đồng bằng Sông Hồng. Ở một số khu vực như các tỉnh miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long, lũ xuất hiện với cường độ ngày càng tăng. Các trận bão gần đây mà Việt Nam phải hứng chịu đã trở nên khốc liệt và quỹ đạo các trận bão dường như đã chuyển hướng về phía Nam, vốn là những mảnh đất an toàn, trong những năm gần đây. Theo Chương trình môi trường LHQ (1993) mực nước biển bao quanh Việt Nam đã dâng cao 5cm từ giữa 1960 đến những năm 1990. Tổng cục Khí tượng-Thuỷ văn ước tính mực nước biển đang dâng cao với tốc độ trung bình là 2mm/năm. Xói lở bờ biển cũng đã và dang xãy ra, ví dụ ở Cà Mau có một số địa phương bị xói lở 600 ha, với các dải đất rộng 200m bị mất.
Mực nước biển dâng cao chắc chắn còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển trở nên tồi tệ, gây nên sự khó khăn trong khai thác nước ngọt phục vụ tưới và sinh hoạt. Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa cả nước với hơn 1.5 triệu ha đất nhiễm mặn, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất. Biến đổi khí hậu chắc chắn có tác động đáng kể đến nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam, với sự biến mất các loài cá quý hiếm, làm suy giảm mạnh sinh vật phù du sẽ dẫn đến tình trạng di cư và giảm mạnh khối lượng lớn cá. Do mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản buộc phải di dời và kéo theo đó là việc phải tái đầu tư vốn, thay đổi tập quán cũng như định cư sản xuất. Miền Trung Việt Nam là khu vực hay bị thiên tai nhất ở Việt Nam và có tỷ lệ nghèo cao. Hàng năm, khu vực này phải đương đầu với mọi loại hình thiên tai, đặc biệt là lũ lụt. Chỉ riêng trận lụt lịch sử diễn ra vào cuối năm 1999 đã cướp đi 800 sinh mạng và gây thiệt hại hơn 300 triệu USD. Thêm vào đó, chúng ta hẳn vẫn còn nhớ đến sự tàn phá của cơn bão Xangsane (tháng 10/2006) với sức gió mạnh lên đến trên cấp 13 (149km/h), gió giật lên đến 205km/h làm sóng biển dâng cao 7m. Trận bão này hầu như đã làm các tỉnh miền Trung “xơ xác”, đặc biệt là các địa phương như Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi với
hơn 20 vạn người chạy đi lánh nạn, hàng trăm người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản do cơn bão lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng.
Vùng duyên hải miền Trung được cấu tạo bởi một dải đất kẹp giữa dãy Trường Sơn về phía Bắc, và vùng cao Nguyên Nam Trung Bộ (Tây Nguyên) về phía Nam, và Biển Đông. Dải đất bị chia cắt bởi nhiều nhánh núi Trường Sơn vươn ra đến tận biển, và một số con sông ngắn mà lưu vực chuồi về phía Biển Đông.
Từ vài thập kỷ gần đây, rừng đầu nguồn phía Tây bị tàn phá nhiều, địa mạo vùng duyên hải Trung Bộ trở nên ngày càng không ổn định, thể hiện rõ nhất là lỡ núi, lòng các hồ đập bị lấp dần , các cơn lũ tràn và lũ quét đổ ra Biển Đông. Lòng sông, địa mạo các cửa sông thay đổi nhiều sau mỗi mùa lũ. Hậu quả của các cơn bão, các trận lũ quét đối với hạ tầng cơ sở là khá nặng nề .
Với mực nước biển dâng, sự không ổn định của địa mạo còn đến từ phía Biển Đông nghĩa là đến từ hai phía của dãi đất hẹp miền Trung. Những năm gần đây, tình hình bờ biển bị xâm thực xảy ra nhiều hơn. Khác với hậu quả của các cơn bão hay lũ quét thường xảy ra vào mùa mưa bão hàng năm, sự đe dọa của biển dâng lên hạ tầng cơ sở dọc bờ biển theo mùa, theo kỳ triều và thường xuyên hơn.
Bờ biển miền Trung dài 1200 km và gồm các tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Dảy Trường Sơn chạy suốt theo bờ biển, nên đồng bằng ở miền Trung rất hạn hẹp. Có nhiều sông tương đối khá lớn, như Sông Gianh ở Quảng Bình, Sông Thạch Hản ở Quảng Trị, Sông Hương ở Huế- Thừa Thiên, Sông Thu Bồn ở Quảng Nam, Sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi. Sông, suối nhiều nhưng chiều dài các sông đa số ngắn và có độ dốc lớn. Lưu vực các sông thường là đồi núi nên nước mưa đổ xuống rất nhanh. Các cửa sông lại hay bị bồi lấp làm cản trở việc thoát lũ cho vùng đồng bằng
Hàng năm những trận bão biển và gió mùa Đông Bắc đã gây nên những trận mưa lớn ở miền Trung. Những năm gần đây, do ảnh hưỡng của biến động thời tiết trên toàn thế giới như dòng nước El Nino và La Nina, những trận bão biển và mưa lớn xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11, và trung bình hàng năm có 4 cơn bão. Trong những năm 1995-1999, miền Trung đã chịu ảnh hưỡng của 13 cơn bão, 5 áp thấp nhiệt đới và 23 đợt gió mùa Đông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng đối với du lịch sinh thái biển.doc