Tiểu luận Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái

A. Lời nói đầu 1

B. Nội Dung 2

I. Khái niệm 2

1. Khí hậu 2

2. Biến đổi khí hậu 2

3. Dao động khí hậu 2

4. Thời tiết 2

5. Những yếu tố ảnh hưởng đến khí hậu 2

II. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu 6

1. Hiệu ứng nhà kính 6

2. Các dòng nước đại dương 7

3. Chu kỳ mặt trời 7

4. Sự phun trao núi lửa 7

5. Sự trôi dạt của các lục địa 8

III. Biến đổi khí hậu trên thế giới 9

1. Khí nhà kính làm trái đất nóng lên 9

2. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu 10

3. Nghị định Thư Kyoto: Bước đầu tiên đầy trắc trở 10

4. VN đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu 11

IV. Ảnh Hưởng Của Biến Đổi Khí Hậu 13

1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các nước Đông Nam Á 13

2. Ảnh hưởng của BĐKH ở Việt Nam 14

V. Tình hình biến đổi khí hậu 15

1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại 15

2. Tình Hình Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và những tác hại 17

VI. Những Hành Động Cùng Biến Đổi Khí Hậu 20

1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu và

Nghị định thư Kyoto 20

2. Sáng kiến “Giờ Trái đất” 21

3. Các Bạn Trẻ Cùng Nhau Hành Động 22

VII. Biến Đổi Khí Hậu Và Du Lịch Sinh Thái 22

1. BĐKH Và Du Lịch Sinh Thái Trên Thế Giới 23

2. BĐKH và du lịch sinh thái ở Việt Nam 27

C. Lời Kết 30

Tài liệu tham khảo 31

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2397 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n sẽ suy giảm 1/3 (nguồn UNDP). Còn theo dự báo dựa vào các kịch bản khác, nếu mực nước có thể dâng cao từ 3 – 5m thì đối với VN sẽ là thảm hoạ tiềm tàng? Chính phủ VN đã phê chuẩn công ước khung LHQ về BĐKH (UNFCCC) vào năm 1994 và nghị định Kyoto vào năm 2002. Tuy chưa phải là quốc gia công nghiệp phát triển nhưng VN đang tập trung cho các hoạt động kiểm kê và giảm thiểu phát thải khí nhà kính theo nghị định Thư Kyoto. Việt Nam đang soạn thảo thông báo quốc gia số 2 (SNC) cho UNFCCC sẽ hoàn thành vào năm 2009. Chính phủ đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường VN làm đầu mối quốc gia về các hoạt động liên quan đến BĐKH. Bộ này đang phối hợp với các ngành khác xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, trong đ1o có biện pháp giảm thiểu phát thải KNK và thích ứng với các tình huống bất thường của thiên tai, đồng thời soạn thảo khung chính sách quản lý rủi ro do BĐKH gây ra. Tuy nhiên, trong báo cáo “BĐKH và phát triển con người ở VN” của hai tác giả Peter Chaudhry và Greet Ruysschaert do chương trình phát triển LHQ công bố mang tính nhận xét, đánh giá: “Khái niệm BĐKH và những tác động tiềm tàng của nó, cũng như nhu cầu thích ứng vẫn chưa được hiểu đúng ở VN (trừ cộng đồng nhỏ các nhà nghiên cứu, các chuyên gia và một số cơ quan nhà nước liên quan ở TW và địa phương).” Bão số 9 (Durian) vào đầu tháng 12/2006 gây nhiều thiệt hại ở Việt Nam IV. Ảnh Hưởng Của Biến Đổi Khí Hậu: 1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các nước Đông Nam Á: Theo một nghiên cứu mới được công bố, các nước khu vực Đông Nam Á sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, khiến nền kinh tế của các nước vốn phụ thuộc vào nông nghiệp sẽ bị suy giảm 6.7% mỗi năm vào cuối thế kỷ này Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB tập trung vào 4 nước là Indonesia, Philippines, Thailand và Việt Nam. Các nước này có dân số tập trung đông tại các vùng ven biển phải đối mặt với tình trạng mực nước biển dâng và phụ thuộc vào lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác. Do đó, việc thiếu hụt nguồn nước và tình trạng lụt lội sẽ ảnh hưởng nhiều đến các nước này. Nếu không ngăn chặn được tình trạng ấm lên toàn cầu, vào năm 2100, 4 nước Châu Á trên sẽ chứng kiến nhiệt độ tăng thêm 4.80C so với nhiệt độ của năm 1990. Lượng mưa tại các nước này cũng giảm dẫn đến tình trạng khô hạn và cháy rừng xảy ra nhiều hơn. Các cơn bão nhiệt đới có mức độ tàn phá mạnh hơn và các trận lụt xảy ra do mực nước biển dâng sẽ làm hàng triệu người thiệt mạng và phá huỷ 2.500 km2 rừng ngập mặn. Vào năm 2100, thiệt hại về mặt kinh tế sẽ bằng 2.2% GDP nếu chỉ xem xét đến khía cạnh ảnh hưởng đến các thị trường. Con số này sẽ là 5.7% nếu tính đến các chi phí về y tế và đa dạng sinh học bị mất đi và là 6.7% GDP nếu có tính đến các thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra. Con số này vượt xa con số thiệt hại dự kiến ở phạm vi toàn cầu là khoảng 2.6% GDP mỗi năm vào cuối thế kỷ này. ADB cho rằng mặc dù lượng khí thải của các nước này là rất nhỏ so với Trung Quốc và Mỹ, nhưng các nước này cần số tiền hàng tỷ USD từ các nước giàu để giải quyết vấn đề trên. Hành động cần thiết của các nước Đông Nam Á là phải bảo vệ diện tích rừng nhiệt đới còn lại đã bị suy giảm trong những năm gần đây do nạn chặt phá rừng trái phép và việc mở rộng trồng cây cọ lấy dầu. Nạn chặt phá rừng làm tăng thêm 75% lượng khí thải tại các nước này. Báo cáo của ADB khuyến nghị các nước này đầu tư vào các chương trình trồng rừng và quản lý rừng bền vững. Báo cáo cũng đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu như cải thiện mạng lưới tưới tiêu, hệ thống kiểm soát lụt lội, hệ thống cảnh báo sớm và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển. Các giải pháp này có thể tiêu tốn trung bình 5 tỷ USD mỗi năm vào năm 2020, nhưng lợi ích thu được sẽ lớn hơn mức chi phí này sau năm 2050. Vào năm 2100, lợi ích thu được về mặt kinh tế sẽ là 1.9% GDP so với mức chi phí là 0.2% GDP. Báo cáo cũng cho biết 40% lượng khí thải các – bon sẽ được cắt giảm vào năm 2020 nếu các nước đầu tư vào việc xây dựng các toà nhà sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn và các loại phương tiện giao thông tiết kiệm nhiên liệu. Thêm 40% lượng khí thải nữa sẽ được cắt giảm nếu chuyển từ việc sử dụng than đá sang khí ga tự nhiên và các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng mặt trời và năng lượng gió để tạo ra điện năng. 2. Ảnh hưởng của BĐKH ở Việt Nam: Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ sự biến đổi khí hậu (BÐKH) trái đất. Trong những năm tới, sự thay đổi về lượng mưa và giông bão, mực nước biển dâng cao thêm là nguyên nhân tác động trực tiếp tới vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Số trận lũ lụt tại các vùng đất trũng ven biển cũng tăng lên. Mưa lũ liên tiếp xảy ra làm cho hệ thống đê bao, đê ngăn mặn, đê kè sông, đê biển, kênh mương nội đồng bị sạt lở, nhiều tuyến đường giao thông, công trình di tích lịch sử bị bùn đất vùi lấp. Ngập úng trong thời gian dài sẽ làm cho các loại phân bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ nhà vệ sinh và chuồng trại chăn nuôi chảy xuống các ao, hồ, sông, làm tăng lượng chất thải gây ô nhiễm nguồn nước; các công trình cấp nước sạch tập trung hoặc hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp từ sông ô nhiễm nặng gây khó khăn cho việc xử lý nước sinh hoạt. Sự xâm nhập mặn của nước biển sẽ ảnh hưởng các hệ sinh thái, làm mất cân bằng môi trường sống của nhiều loại thủy sinh nước ngọt. Ðiều đó có thể dẫn đến diện  tích rừng ngập mặn giảm, nguồn thức ăn thực vật và dinh dưỡng của các loài sinh vật sống ở sông, biển cũng giảm. Nhiệt độ của nước tăng lên kéo theo sự thay đổi phân tầng nhiệt độ theo chiều sâu cột nước, gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường sống thủy sinh. Hơn nữa, tăng nhiệt độ nước vùng ven bờ sẽ dẫn đến tăng lắng đọng các chất khoáng và hữu cơ, gây ảnh hưởng chuỗi thức ăn, giảm số lượng cũng như chất lượng các loài thủy sản. Tại những vùng khô hạn, bán khô hạn, sự thay đổi nhỏ của nhiệt độ và nhịp điệu mưa có thể ảnh hưởng lớn tới đa dạng sinh học (ÐDSH). Những vùng đất khô hạn sẽ phải chịu nhiều áp lực của sự chuyển đổi nông nghiệp, sự nhập nội của các loài xâm lấn, sự thay đổi chế độ cháy và ô nhiễm. Vì thế, BÐKH ở những vùng đất khô hạn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với con người và nền kinh tế. Trong hai năm 2004 - 2005, có tới 43% số hộ dân thuộc tỉnh Ninh Thuận thiếu nước ngọt sinh hoạt. Hiện có khoảng gần hai triệu người dân Ninh Thuận, Bình Thuận sống phụ thuộc trực tiếp vào những vùng đất khô hạn và bán khô hạn cho sinh kế hằng ngày của họ. Trong tình trạng BÐKH gia tăng, diện tích đất đang bị thoái hóa, hoang mạc hóa và bị nhiễm mặn ở những vùng đất khô hạn, bán khô hạn sẽ càng xảy ra nhanh hơn. BÐKH không chỉ ảnh hưởng nguồn nước, vệ sinh môi trường mà còn ảnh hưởng ÐDSH trong nông nghiệp. Chính sự BÐKH tác động mạnh đến sự phân bố, gia tăng tốc độ tuyệt chủng, làm thay đổi thời gian mùa phát triển của thực vật. ÐDSH góp phần hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai. Nó có vai trò vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học, trong đó có con người. BÐKH không những cung cấp trực tiếp các phúc lợi cho xã hội như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng, năng lượng mà còn có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trong ứng dụng thực tiễn, trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp, y tế, du lịch. ÐDSH và BÐKH có liên quan chặt chẽ và tương tác lẫn nhau theo không gian và thời gian. BÐKH là nguyên nhân quan trọng dẫn đến suy giảm ÐDSH. Ngược lại, sự suy giảm ÐDSH, sự xuống cấp của các sinh cảnh tự nhiên cũng góp phần dẫn tới sự BÐKH. Có thể thấy ba tác động lớn của BÐKH tới sự ÐDSH sau: Thứ nhất là, mực nước biển dâng cao sẽ làm mất đi nhiều vùng đất thấp rộng lớn, mất đi các hệ sinh thái đất nông nghiệp ở hai đồng bằng lớn của nước ta (đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng châu thổ Sông Hồng) - vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất. Thứ hai là, nhiệt độ tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều hệ sinh thái ven biển. Các loài nhiệt đới sẽ giảm đi và có xu hướng chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các hệ sinh thái trên cạn. Các loài ôn đới giảm, cấu trúc chuỗi và lưới thức ăn cũng thay đổi. BÐKH còn làm gia tăng sự suy thoái của một số loài thực vật hoang dại - một nguồn gien quý để lai tạo các giống loài mới, đồng thời, làm mất đi một số cây do không thích ứng khí hậu. Thứ ba là, BÐKH còn làm thay đổi nhiệt độ nước và mực nước tại các khu vực sông, hồ, đầm lầy..., làm thay đổi chế độ thời tiết mưa, bão, hạn hán, cháy rừng... Do đó số lượng sinh học từ các cây trồng nông, công, lâm nghiệp giảm. Nguy cơ diệt vong của nhiều loài là không tránh khỏi. IV. Tình hình biến đổi khí hậu: 1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại: Khí hậu là trạng thái khí quyển ở nơi nào đó, được đặc trưng bởi các trị số trung bình nhiều năm về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước, mây, gió...Như vậy, khí hậu phản ánh giá trị trung bình nhiều năm của thời tiết và nó thường có tính chất ổn định, ít thay đổi. Trong lịch sử địa chất của trái đất chúng ta, sự biến đổi khí hậu đã từng nhiều lần xẩy ra với những thời kỳ lạnh và nóng kéo dài hàng vạn năm mà chúng ta gọi là thời kỳ băng hà hay thời kỳ gian băng. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã xãy ra cách đây 10.000 năm và hiện nay là giai đoạn ấm lên của thời kỳ gian băng. Xét về nguyên nhân gây nên sự thay đổi khí hậu này, chúng ta có thể thấy đó là do sự tiến động và thay đổi độ nghiêng trục quay trái đất, sự thay đổi quỹ đạo quay của trái đất quanh mặt trời, vị trí các lục địa và đại dương và đặc biệt là sự thay đổi trong thành phần khí quyển. Trong khi những nguyên nhân đầu tiên là những nguyên nhân hành tinh, thì nguyên nhân cuối cùng lại có sự tác động rất lớn của con người mà chúng ta gọi đó là sự làm nóng bầu khí quyển hay hiệu ứng nhà kính.Có thể hiểu sơ lược là: nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi sự cân bằng giữa hấp thụ năng lượng mặt trời và lượng nhiệt trả vào vũ trụ. Khi lượng nhiệt bị giữ lại nhiều trong bầu khí quyển thì sẽ làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Chính lượng khí CO2 chứa nhiều trong khí quyển sẽ tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của trái đất. Cùng với khí CO2 còn có một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NOx, CH4, CFC. Với những gia tăng mạnh mẽ của nền sản xuất công nghiệp và việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch (dầu mỏ, than đá..), nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ 1,4oC đến 5,8oC từ 1990 đến 2100 và vì vậy sẽ kéo theo những nguy cơ ngày càng sâu sắc đối với chất lượng sống của con người. Có thể thấy tác hại theo hướng nóng lên toàn cầu thể hiện ở 10 điều tồi tệ sau đây: gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực, những đợt nóng, bão tố và lũ lụt, khô hạn, tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đi sự đa dạng sinh học và phá huỷ hệ sinh thái. Những minh chứng cho các vấn đề này được biểu hiện qua hàng loạt tác động cực đoan của khí hậu trong thời gian gần đây như đã có khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam Á, châu Phi và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán nghiêm trọng dễ dẫn tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu thì đang bị đe dọa xảy ra những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng như những đợt băng giá mùa đông khốc liệt. Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có nguyên nhân từ hiện tượng trái đất ấm lên trong nhiều thập kỷ qua. Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy số lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ân Độ Dương, bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia, hay cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất siêu bão Nargis đánh vào Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số lượng người thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn 135.000 người và đẩy hơn một triệu người vào cảnh không nhà cửa. Tính ra, thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn 220.000 người trong năm 2008 và gây thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành một trong những năm đáng sợ nhất trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên tai về người và của. Diễn biến mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp do thời tiết quá khô hạn vừa xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210 người và làm bị thương hơn 500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất. Một nghiên cứu với xác suất lên tới 90%.cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất. 2. Tình Hình Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và những tác hại: Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm thường vượt quá 20oC, lượng mưa trung bình 1500mm. Mùa lạnh và khô từ tháng 11-4, còn mùa nóng và mưa diễn ra từ tháng 5-10. Tuy nhiên các chỉ số này thay đổi theo chiều dài đất nước và theo cả địa hình cho nên mùa mưa với lũ lụt và mùa khô với hạn hán thưòng mang tính cực đoan và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Việt Nam nằm dọc theo đường di chuyển bão Tây-Bắc Thái Bình Dương và là một trong 10 nước trên thế giới được coi là dễ bị tổn thương nhất trước áp thấp nhiệt đới. Trung bình mỗi năm có 6-7 trận bão hay áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến vùng bờ biển của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc và miền Trung. Nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy, từ năm Từ 1900 đến 2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0.1°C một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn với nhiệt độ trung bình các tháng hè tăng từ 0.1°C đến 0.3°C một thập kỷ. nếu so với năm 1990, nhiệt độ chắc sẽ tăng trong khoảng từ 1.4-1.5°C vào năm 2050 và từ 2.5-2.8°C vào năm 2100. Điều này cho thấy xu thế tăng nhiệt độ cứ qua 10 năm lại lớn lên. Mùa nóng sẽ khắc nghiệt, và lượng mưa cùng với cường độ mưa sẽ tăng lên đáng kể ở phía Bắc. Sự biến đổi thất thường của thời tiết còn được thể hiện qua đợt mưa lớn trái mùa tại các tỉnh miền Bắc. Ví dụ: từ ngày 30/10 đến chiều 01/11/2008. Tại thủ đô Hà Nội lượng mưa lên tới gần 500mm đã gây ra cảnh úng lụt trầm trọng, thiệt hại cả về người và tài sản của nhân dân. Mùa khô sẽ càng sâu sắc và có nguy cơ biến các vùng dễ bị tổn thương như Nam Trung bộ thành bán hoang mạc. Phần lớn diện tích vùng ven bờ của Việt Nam bị đe doạ ngập lụt hàng năm, trong đó đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 75% tổng diện tích, và 10% diện tích của đồng bằng Sông Hồng. Ở một số khu vực như các tỉnh miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long, lũ xuất hiện với cường độ ngày càng tăng. Các trận bão gần đây mà Việt Nam phải hứng chịu đã trở nên khốc liệt và quỹ đạo các trận bão dường như đã chuyển hướng về phía Nam, vốn là những mảnh đất an toàn, trong những năm gần đây. Theo Chương trình môi trường LHQ (1993) mực nước biển bao quanh Việt Nam đã dâng cao 5cm từ giữa 1960 đến những năm 1990. Tổng cục Khí tượng-Thuỷ văn ước tính mực nước biển đang dâng cao với tốc độ trung bình là 2mm/năm. Xói lở bờ biển cũng đã và dang xãy ra, ví dụ ở Cà Mau có một số địa phương bị xói lở 600 ha, với các dải đất rộng 200m bị mất. Mực nước biển dâng cao chắc chắn còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển trở nên tồi tệ, gây nên sự khó khăn trong khai thác nước ngọt phục vụ tưới và sinh hoạt. Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa cả nước với hơn 1.5 triệu ha đất nhiễm mặn, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất. Biến đổi khí hậu chắc chắn có tác động đáng kể đến nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam, với sự biến mất các loài cá quý hiếm, làm suy giảm mạnh sinh vật phù du sẽ dẫn đến tình trạng di cư và giảm mạnh khối lượng lớn cá. Do mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản buộc phải di dời và kéo theo đó là việc phải tái đầu tư vốn, thay đổi tập quán cũng như định cư sản xuất. Miền Trung Việt Nam là khu vực hay bị thiên tai nhất ở Việt Nam và có tỷ lệ nghèo cao. Hàng năm, khu vực này phải đương đầu với mọi loại hình thiên tai, đặc biệt là lũ lụt. Chỉ riêng trận lụt lịch sử diễn ra vào cuối năm 1999 đã cướp đi 800 sinh mạng và gây thiệt hại hơn 300 triệu USD. Thêm vào đó, chúng ta hẳn vẫn còn nhớ đến sự tàn phá của cơn bão Xangsane (tháng 10/2006) với sức gió mạnh lên đến trên cấp 13 (149km/h), gió giật lên đến 205km/h làm sóng biển dâng cao 7m. Trận bão này hầu như đã làm các tỉnh miền Trung “xơ xác”, đặc biệt là các địa phương như Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi với hơn 20 vạn người chạy đi lánh nạn, hàng trăm người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản do cơn bão lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Ở một mặt khác, Việt Nam gần đây đã đạt được những tiến bộ ngoạn mục cả về tăng trưởng kinh tế lẫn giảm nghèo. Sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới vào năm 2007, giao dịch thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng, tạo điều kiện để Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình. Tuy nhiên nền kinh tế định hướng thị trường của Việt Nam cũng làm gia tăng cách biệt giàu nghèo giữa vùng sâu, vùng xa và các cực tăng trưởng như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Do vậy, người nghèo vốn sống lệ thuộc vào hoàn cảnh tự nhiên, thường phải đối mặt với sự biến đổi khí hậu, và tác động của nó có thể đem lại những hậu quả đáng kể và lâu dài đối với khả năng ứng phó tổng thể của Việt Nam trong tương lai. Có thể khẳng định rằng thiên tai là trở ngại chính trên con đường đi tới phát triển bền vững và đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) ở Việt Nam. Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Hồng: Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSH như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Cửu Long: Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSCL như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau... sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) V. Những Hành Động Cùng Biến Đổi Khí Hậu: 1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto: Ý thức về những tác hại do con người gây ra cho môi trường trái đất, gần đây đã có sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những ảnh hưởng nguy hại do biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều diễn đàn quốc tế đã ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính trị cũng như các nhà hoạch định chính sách đối ngoại như Liên hợp quốc, WTO, EU, ASEM, APEC, ASEAN..., một điều chắc chắn rằng những thoả thuận kinh tế, chính trị, thương mại song phương hoặc đa phương gắn liền với vấn đề biến đổi khí hậu luôn nhận được sự tán thành và hợp tác. Những cam kết quốc tế được cụ thể hoá vào năm 1997 khi Nghị định thư Kyoto ra đời và chính thức có hiệu lực vào năm 2005 liên quan đến Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 nước kí kết tham gia chương trình này. Nghị định thư Kyoto ràng buộc 37 quốc gia phát triển đến năm 2012 phải cắt giảm khí thải xuống 5% so với mức của năm 1990. Nghị định thư cũng được khoảng 137 nước đang phát triển tham gia kí kết trong đó có Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ vốn là những nền kinh tế mới nổi và có lượng khí phát thải cao. Sự kiện chính phủ Nga, nước chiếm 17% lượng khí thải phê chuẩn NĐT vào năm 2004, và chính phủ Úc ký kết NĐT vào năm 2007, đã gây sức ép buộc Mỹ (nước chiếm 25% khí thải ) - hiện là quốc gia phát triển duy nhất không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto - phải thay đổi quan điểm trong thời gian đến. Thế giới hy vọng thái độ tích cực và sự tham gia có trách nhiệm của Mỹ sẽ được thể hiện khi chính phủ của TT Obama tham gia hội nghị Copenhagen vào tháng 12 năm nay. Như vậy, Nghị định thư Kyoto được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn đề cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”. Trong những năm tới, xu thế chung của hợp tác quốc tế và khu vực để đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu sẽ được tăng cường, tập trung vào quá trình thiết lập cơ chế hợp tác, nghiên cứu và đánh giá tác động, xây dựng biện pháp phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng mới. Mặc dù vậy, quá trình hợp tác sẽ còn gặp nhiều khó khăn, trắc trở do còn nhiều sự khác biệt về lợi ích giữa các nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu (cơ bản là việc giảm chất thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc sử dụng tiết kiệm nhiên liệu có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế của nhiều nước), việc sản xuất theo Chương trình cơ cấu phát triển sạch (The Clean Development Mechanism-CDM)) đòi hỏi đầu tư lớn và công nghệ phức tạp... Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 158/2008/QĐ - TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu và ngày 12/01/2009, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ TN&MT chính thức công bố Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. Mục tiêu chiến lược của Chương trình là đánh giá được mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và xây dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp và tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. 2. Sáng kiến “Giờ Trái đất”: Giờ Trái Đất là một sáng kiến toàn cầu của tổ chức WWF (Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên thiên) về biến đổi khí hậu. Các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và những tổ chức xã hội được kêu gọi tắt đèn trong 1 giờ để thể hiện sự ủng hộ của họ đối với hành động chống lại biến đổi khí hậu này. Sự kiện bắt đầu tại Sydney vào 31/3/ 2007, với hơn 2 triệu người và 2000 doanh nghiệp đã tham gia tắt đèn. Sáng kiến tắt đèn đã thu hút sự chú ý của hàng triệu công dân trên toàn thế giới. Trong năm 2008, hơn 50 triệu người của 35 quốc gia đã tham gia. Năm 2009, Giờ Trái Đất dự kiến thu hút 1 tỉ người và 1.000 thành phố tham gia với thông điệp “Hành động của mỗi chúng ta có thể làm thay đổi thế giới”. Chiến dịch Giờ trái đất sẽ diễn ra từ 20h30 – 21h30 ngày 28 tháng 3. Tính đến ngày 7/3/2009 đã có 931 thành phố và đô thị ở 80 quốc gia đăng ký tham gia sáng kiến giờ trái đất 2009.Chỉ tính riêng nước Úc đã có hơn 100 đô thị và thành phố tham gia vào sự kiện này. Cùng với những đô thị lớn trên thế giới, Giờ Trái Đất 2009 cũng sẽ chứng kiến đèn được tắt tại những biểu tượng nổi tiếng nhất hành tinh, bao gồm Tượng chúa cứu thế tại Rio De Janeiro, Núi Bàn ở Cape Town, Toà tháp Liên bang (Moscow), Nhà hát Opera Sydney, Sân vận động Thiên niên kỷ tại Cardiff và toà nhà Đài bắc 101 cao nhất thế giới ở Đài Loan... Giờ Trái đất 2009 hy vọng chuyển giao một sự uỷ nhiệm toàn cầu về việc cải tạo môi trường tới những nhà lãnh đạo thế giới sẽ tham dự cuộc họp về biến đổi khí hậu tại Copenhagen vào tháng 12/2009 tới để ký một thoả thuận mới nhằm thay thế Nghị định thư Kyoto. Năm nay là năm đầu tiên Việt Nam hưởng ứng sáng kiến này và Thành phố Hà Nội sẽ tắt điện lúc 20h30-21h30 ngày 28/3 để tham gia chiến dịch Giờ Trái đất. Việc tiết kiệm khối lượng điện tiêu thụ trong 1 giờ đồng nghĩa với giảm bớt lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, ngăn chặn sự biến đổi khí hậu toàn cầu.Thông điệp của sự kiện này là “tắt đèn, bật tương lai”. 3. Các Bạn Trẻ Cùng Nhau Hành Động: Thực tế cho thấy, biến đổi khí hậu đang đe doạ nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của con người trên khắp hành tinh và làm cho trái đất chúng ta ngày càng trở nên mỏng manh, dễ bị tổn thương và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong tương lai. Ngay từ bây giờ chúng ta cần phải ý thức hơn đối với môi trường thông qua từng công việc cụ thể của mỗi cá nhân. Trước tiên, đó chính là sự thay đổi thói quen hàng ngày trong cuộc sống theo hướng tiết kiệm năng lượng. Chỉ cần một cái nhấn nút tắt đèn hay các thiết bị điện, điện tử khi ra vào phòng ở hay nơi làm việc thì cũng giảm thiểu được khá nhiều chi phí phải trả. Thứ hai, cần phải nhận thức đầy đủ hơn về nguyên nhân và hậu quả của sự biến đổi khí hậu để vận dụng trong những hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là đối với những người “ra quyết định”. Ví dụ: bạn là người có quyền nhập khẩu thiết bị sản xuất thì nhất quyết phải nói không với công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhiên liệu và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Thứ ba, nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu mới vào trong hiện thực cuộc sống là sự đóng góp thiết thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiến đổi khí hậu và du lịch sinh thái.doc
Tài liệu liên quan