Tiểu luận Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển Vũng Tàu

Biến đổi khí hậu được biểu hiện qua nhiệt độ bề mặt trái đất tăng cao, mưa bão diễn biến bất thường theo không gian và thời gian, hạn hán xảy ra cực đoan, mực nước biển dâng cao, dẫn tới nhiều vùng bị ngập lụt, nước mặn xâm nhập tiến sâu vào nội đồng v.v. Hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu là những thảm họa khó lường mà loài người phải đối mặt.

Theo kết quả nghiên cứu của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC) [1], cùng với những quan trắc các chuỗi số liệu thực đo như nhiệt độ, mưa, triều và mực nước tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận, có thể nhận thấy rằng tại khu vực TP.Hồ Chí Minh trong những năm qua đã có những biểu hiện rõ nét về biến đổi khí hậu và thiên tai bất thường.

 

doc34 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2611 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c khu vực cửa sông, trong đó có rất nhiều vùng có mật độ dân cư dày đặc, sẽ bị tác động trong suốt thời kì khô hạn kéo dài. Một mối đe dọa khác đối với các nguồn nước trong lòng đất và trên bề mặt có nguyên nhân từ bãi chon lấp rác ở các khu vực bị ngập lụt trong tương lai và sự tích tụ các chất gây ô nhiễm trong các lớp trầm tích của các đồng bằng và cửa sông của những con sông bị ô nhiễm nặng. Các chất độc có thể sẽ bị huy động bởi những biến đổi về tình trạng đất bồi và sự xâm nhập của nước mặn. Một sự dâng cao của mực nước biển sẽ phá hủy nhiều hộ sinh thái khác nhau, trong đó co nhiều hệ thống chỉ có chất độc nhất. Điều này sẽ xảy đến với các vùng đất ẩm, vốn có những chức năng sau đây Nuôi dưỡng đất cho 1/3 lượng cá mà ta tiêu dung Cung cấp nơi cư trú thống nhất cho một lượng lớn các chủng loại thực vật và động vật Đóng vai trò một barie tự nhiên trong việc chống lụt. Sự đa dạng chủng loài của trái đất sẽ bị giảm sút do sự phá hoại đất ướt, đụn cát và sự trắng háo của các đá san hô ngầm. Những tác động của sự phát triển này hiện nay đã được qua tâm. Hơn nữa, còn tồn tại nguy cơ ngành ngư nghiệp sẽ bị tác động nặng nề. IV. NHỮNG HIỂM HỌA ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ XẢY RA Ở VIỆT NAM Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ tứ (băng hà Wurm 2) lạnh nhất cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía đông. Các tài liệu khoan thăm dò dầu khí đã ghi nhận dấu vết đường bờ biển thời đó nằm trên thềm lục địa ở độ sâu 100-120 m so với mực nước biển hiện tại. Thời đó, toàn bộ vùng Vịnh Bắc Bộ và thềm Sunda (nối liền Nam Bộ Việt Nam với Indonesia), vịnh Thái Lan còn là đất liền. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó dự đoán thấp hơn so với ngày nay khoảng 5-7°C. Băng bắt đầu tan và mực nước biển bắt đầu dâng lên từ khoảng 15.000 năm cách nay. Nhiệt độ Trái đất cũng như đường bờ biển đạt đến mức như bây giờ vào khoảng 10.000 năm cách nay. Tuy nhiên, Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên và băng tiếp tục tan, biển vẫn tiến lấn sâu hơn vào so với đường bờ hiện tại. Nhiều bằng chứng thực vật ở Đông Nam Á cho thấy, nhiệt độ trung bình ấm hơn ngày nay chừng 2°C ở khoảng 8.000 năm cách nay, nhưng phải đến khoảng 6.000-5.000 năm cách nay, băng mới ngừng tan và nước biển mới dừng ở độ cao 4-6 m so với mực nước biển ngày nay (biển tiến Flanđri). Các nhà nghiên cứu khảo cổ Việt Nam đã phát hiện nhiều bằng chứng về con người trong lịch sử đã chịu ảnh hưởng của các đợt biển tiến do nhiệt độ Trái đất ấm lên đó. Do mực nước biển dâng cao hơn ngày nay 4-6 m, biển lấn sâu vào lục địa có chỗ tới hàng trăm km. Dấu tích đường bờ biển đương thời xuất lộ ngay ở sát rìa Hà Nội, đến tận sát chân các dãy núi đá vôi thuộc Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh miền Trung. Biển phủ ngập hầu như toàn bộ đồng bằng Nam Bộ. Sau đó, biển đã rút, để lại một đồng bằng phù sa màu mỡ vào khoảng 3800-3500 năm cách nay, tạo điều kiện cho sự xuất hiện nở rộ những làng trồng lúa sớm trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đến khoảng 3200 năm, các nhà khảo cổ phát hiện những chứng cứ cư dân đương thời rời chân núi lên cư trú trên các đỉnh núi cao trong các đồng bằng ven biển từ Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình ra đến Quảng Ninh. Thức ăn họ để lại trên các chỏm núi đá đó bao gồm nhiều loại nhuyễn thể biển. Điều đó phản ánh một đợt biển tiến có tính đột biến đã diễn ra. Những tài liệu nghiên cứu chi tiết về địa chất học và khảo cổ học còn cho biết, từ đó đến nay, xu hướng chung là biển lùi, song vẫn có một số chu kỳ tiến, lùi với biên độ dao động mực nước biển trên dưới 2-3 m vào khoảng trước 3000 năm, sát trước và sau công nguyên và khoảng 1000 – 2000 năm sau công nguyên đến nay. Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy, nếu chu kỳ biển tiến, lùi với biên độ thời gian khoảng 800-1000 năm thì hiện tại chúng ta đang ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều hoặc có đột biến. Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra nằm trong chu trình chung của biến động, cộng thêm tác động nhanh do hiệu ứng nhà kính gây ra, làm cho chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một cách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược lại. Dù nguyên nhân nào thì việc nhận thức được để có kế hoạch ứng phó, vì sự tồn tại và phát triển bền vững cho mỗi quốc gia dân tộc cũng như toàn nhân loại là điều con người có thể và cần phải làm. Trong tình hình biển tiến hiện nay, bà Susmita Dagupta, chuyên gia kinh tế, đồng tác giả của báo cáo “Ảnh hưởng khi mực nước biển tăng lên ở các nước phát triển: Phân tích so sánh” do Ngân hàng Thế giới công bố hồi đầu năm nay cho biết: mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1 m thì sẽ gây nên hiểm họa lớn đối với các nước có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp dọc ven biển. Việt Nam là một trong những nước sẽ bị tác động lớn; khi đó sẽ có đến 10,8% dân số Việt Nam bị tác động nặng nề, do có 2 đồng bằng thấp chủ yếu là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Về phía Việt Nam, chúng ta thấy gì và nghĩ gì về những hiểm họa này trước thực tế và thực tiễn Việt Nam ? Tôi cho rằng những biến động thời tiết bất thường gây thiệt hại lớn cho đời sống dân cư và đất nước mà chúng ta gọi là thiên tai cần được nghiên cứu, xem xét theo chiều hướng có sự báo động toàn cầu về gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất và mực nước biển ngày càng dâng cao: nhiệt độ khí quyển và thủy quyển tăng lên kéo theo những biến động khác thường (hiện tượng El Nino) làm cho chế độ thời tiết gió mùa bị xáo động bất thường; bão có xu hướng gia tăng về cường độ, bất thường về thời gian và hướng dịch chuyển; thời tiết mùa đông nói chung ấm lên, mùa hè nóng thêm; xuất hiện bão lũ và khô hạn bất thường. Hiện tượng ngập úng vùng đồng bằng châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng dân cư tập trung ở 2 bờ trên nhiều khu vực từ Bắc chí Nam. Hiện tượng này cũng đồng thời tạo cồn, bãi bồi, lấp dòng chảy các sông, nhánh sông ở vùng hạ du; ở những sông đã xây dựng hệ thống đê kiên cố thì có hiện tượng bồi lấp ngay chính dòng sông cũng như tuyến khống chế giữa hai bờ đê, tạo nên thế địa hình ngược; những dòng sông nổi cao hơn cả đồng bằng hai bên sông. Vào mùa khô, hiện tượng phổ biến là nước triều tác động ngày càng sâu về phía trung du, hiện tượng nhiễm mặn ngày càng tiến sâu vào lục địa. Ở vùng ven biển, đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phễu (hiện tượng estuary) trên những diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là vùng hạ du hệ thống sông Thái Bình - Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống sông Đồng Nai, ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Vào mùa khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã không thể đóng vai trò tiêu thoát nước về phía biển, biến thành những dòng sông, kênh tù đọng với mức độ ô nhiễm nhân tạo gây nguy hại cho đời sống của những vùng dân cư đông đảo (thuộc diện này có thể kể đến cả vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, Châu Giang ở phía tây nam Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình) Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa. TÁC ĐỘNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN THIÊN TAI KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. 1. Biểu hiện biến đổi khí hậu và thiê tai thành phố HCM. Biến đổi khí hậu được biểu hiện qua nhiệt độ bề mặt trái đất tăng cao, mưa bão diễn biến bất thường theo không gian và thời gian, hạn hán xảy ra cực đoan, mực nước biển dâng cao, dẫn tới nhiều vùng bị ngập lụt, nước mặn xâm nhập tiến sâu vào nội đồng v.v... Hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu là những thảm họa khó lường mà loài người phải đối mặt. Theo kết quả nghiên cứu của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC) [1], cùng với những quan trắc các chuỗi số liệu thực đo như nhiệt độ, mưa, triều và mực nước tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận, có thể nhận thấy rằng tại khu vực TP.Hồ Chí Minh trong những năm qua đã có những biểu hiện rõ nét về biến đổi khí hậu và thiên tai bất thường. 1.1. Nhiệt độ tăng cao Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đầu trên thế giới công bố, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm gần đây (từ 1980 đến 2005). Nhiệt độ trái đất tăng lên, không chỉ là nguyên nhân gây ra lũ lụt, hạn hán cục đoan, bão tố v.v… mà còn trực tiếp gây ra nhiều loại bệnh tật, bệnh dịch, làm giảm sức khỏe cộng đồng. 1.2. Mưa thay đổi bất thường Theo Tổ chức Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) thì sự nóng lên của khí hậu trái đất làm cho mưa trở nên thất thường hơn. Những vùng mưa nhiều, lượng mưa trở nên nhiều hơn, cường độ mưa lớn hơn. Các vùng hạn trở nên hạn hơn. Tần suất và cường độ hiện tượng El Nino tăng đáng kể, gây lũ lụt và hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Xu thế biến đổi của lượng mưa không nhất quán giữa các khu vực và các thời kỳ. Tổng lượng mưa năm không tăng nhưng cường độ mưa, thời gian mưa từng cơn đang có xu hướng tăng lên rõ rệt [1]. 1.3. Nước biển dâng. Hệ quả tất yếu của tình trạng bề mặt Trái đất nóng lên là băng tan hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao, thể tích nước biển giản nở do nhiệt là mực nước biển dâng cao, và như vậy nhiều hòn đảo, nhiều vùng đồng bằng có cao trình thấp ven biển bị chìm ngập. Các số liệu quan trắc mực nước biển ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy trong vòng 50-100 năm qua mực nước biển mỗi năm tăng thêm 1,8 mm. Nhưng trong vòng 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình khoảng 3 mm/năm. Theo báo cáo của IPCC, đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm. Cũng theo tổ chức này, mực nước biển dâng trong tương lai còn phụ thuộc vào cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên đối với mức độ xả thải khí nhà kính [1]. Ở nước ta theo tài liệu thực đo mực nước biển tại Vũng Tàu từ năm 1980 tới nay cho thấy, mực nước biển lớn nhất năm đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Tương quan mực nước đỉnh triều thể hiện ở hình 8 chỉ rõ, mực nước biển tại Vũng Tàu tăng từ 0,2-0,6 cm mỗi năm. Mực nước triều tăng cao là nhân tố chính làm gia tăng mực nước trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Mực nước tại Phú An đang có sự gia tăng đột biến trong những năm gần đây. Theo tài liệu thực đo cho thấy mực nước đỉnh triều tại Phú An tăng lên khoảng 0,3-0,8 cm một năm. Như vậy, mực nước này tăng nhanh hơn mực nước triều trạm Vũng Tàu, điều này còn có thể giải thích do tốc độ san lấp mặt bằng để xây dựng các đô thị mới làm giảm các khu trữ, vì thế thủy triều tiến nhanh hơn, đạt đỉnh xa hơn, thời gian duy trì mực nước triều cao lâu hơn. Tình trạng nước biển dâng ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã gây nên những khó khăn lớn cho sinh hoạt, kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế xã hội. Nhiều vùng trong thành phố bị ngập vào những ngày triều cường. Hàng trăm cống thoát nước thành phố nằm sâu dưới mực nước triều, làm giảm năng lực tiêu thoát nước. Vào thời điểm triều lớn gặp mưa kéo dài thành phố gần như bị tê liệt, nhiều đường phố bị ngập lâu, ngập sâu, lan truyền ô nhiễm rất đáng báo động. Hình 11: Triều cường gây ngập đường thành phố Mực nước biển dâng không chỉ gây ngập thành phố nhiều hơn, nặng hơn mà còn làm cho lưu lượng trên các sông kênh tăng lên, vận tốc dòng chảy thay đổi gây xói lở, bồi lắng khó kiểm soát. Hình 15 thể hiện hình ảnh sạt lở bờ song Sài Gòn khu vực thành phố Hồ Chí Minh và biểu đồ vận tốc dòng chảy tại Phú An, ứng với các kịch bản hiện trạng, khi nước biển dâng thêm 0,5 m và 1,0 m. Khi mực nước biển dâng cao, danh giới mặn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cũng có sự thay đổi, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Kết quả tính toán xâm nhập mặn mùa khô năm 2005 (mặn ảnh hưởng lớn nhất tới thành phố Hồ Chí Minh), với kịch bản hiện trạng, độ mặn tại Phú An đạt 8 g/l, kịch bản nước biển dâng thêm 50 cm, độ mặn tương ứng đạt 9 g/l và khi mực nước biển tăng cao 100 cm, độ mặn là 10,3 g/l. Ranh giới mặn 4 g/l (giới hạn trên của lúa chịu mặn) cũng tiến sâu hơn. Khi mực nước triều tăng lên 50 cm ranh giới mặn 4g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 3,5 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 2,0 km. Khi mực nước triều tăng lên 100 cm ranh giới mặn 4 g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 8,0 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 4,8 km. Ranh giới mặn 0,25 g/l (tiêu chuẩn cấp nước cho sinh hoạt) cũng tiến sâu hơn. Khi mực nước triều tăng lên 50 cm ranh giới mặn 0,25g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 1,5 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 0,8 km. Khi mực nước triều tăng lên 100 cm ranh giới mặn 0,25 g/l trên sông Sài Gòn tiến sâu hơn 3,5 km và trên sông Đồng Nai vào sâu hơn 1,8 km. Hình 16: Ranh giới mặn hiện trạng năm 2005 Hình17: Ranh giới mặn năm 2005 khi mực nước triều dâng cao 50 cm Hình 18: Ranh giới mặn năm 2005 khi mực nước triều dâng cao 100 cm Biến đổi khí hậu dẫn tới nước biển dâng sẽ là nguyên nhân làm thay đổi hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ. Đây là vấn đề rất cần được các nhà khoa học và các cấp lãnh đạo quan tâm. 1.4. Gió Bão. Biến đổi khí hậu toàn cầu, dẫn tới trái đất nóng dần lên, nhiệt độ bề mặt Đại Dương tăng lên và phân bố theo quy luật trước đây và như vậy gió bão sẽ xảy khó lường. Biểu hiện bất thường của gió bão trong những năm qua là đã xảy ra những trận bão lớn tràn vào vùng đất Nam Bộ. Đây chính là nguy cơ dẫn tới những thiệt hai lớn đối với thành phố Hồ Chí Minh, nơi ngường dân chưa có kinh nghiệm tránh bão, nơi có nhiều nhà ổ chuột, nhiều nhà mỏng manh, không có khả năng đứng vững trước nhưng cơn bão nhỏ. Hồ 2. Giải pháp để thích ứng với biến đổi khí hậu. Để giảm thiểu thiệt hại do những tác động bất lợi do biến đổi khi hậu gây ra cho thành phố Hồ Chí Minh, thì chúng ta cần tiến hành một số giải pháp chính sau: - Giáo dục cộng đồng giảm thiểu phát thải khí nhà kính; - Đổi mới, hiện đại hóa trạng thiết bị đảm bảo tiêu chuẩn xả khí thải; - Rà soát lại tiêu chuẩn, tần suất thiết kế các công trình, đảm bảo làm việc an toàn trước tình trạng biến đổi khí hậu; - Xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa các nhà máy thủy điện và công trình thủy lợi phía thượng nguồn; - Nhanh chóng thực hiện dự án chống ngập cho thành phố Hồ Chí Minh, do Bộ Nông nghiệp & PTNT đề xuất; - Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với đa dạng sinh học đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngập nước khu dự trữ sinh quyển của Thế giới Cần Giờ, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp bảo tồn và thích ứng. - Cần chuẩn bị nguồn nhân tài vật lực để có đủ khả năng bị đối phó và thích ứng với biển đổi khí hậu trong khu vực. - Thực hiện phong trào phủ xanh đất trống để giảm khí thải. V. DU LỊCH LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU. Tình trạng nóng lên trên toàn cầu đang có nguy cơ ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động du lịch, và một số địa chỉ du lịch hấp dẫn rất có khả năng sẽ bị ngập dưới nước biển do hiện tượng băng tan khiến nước biển dâng lên. Tuy nhiên, theo Giám đốc Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) Achim Steiner, ngành công nghiệp du lịch vừa là đối tượng bị ảnh hưởng bởi tình trạng biến đổi khí hậu, vừa là tác nhân góp phần làm tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới, việc vận chuyển và một số hoạt động khác liên quan đến du lịch hiện chiếm từ 4 đến 6% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, tác động của du lịch đối với tình trạng biến đổi khí hậu sẽ tăng gấp đôi trong vòng 30 năm tới, và các vùng bờ biển, các khu du lịch trên vùng núi cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Du lịch sinh thái đã và đang là sự lựa chọn, là niềm đam mê của nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Vì vậy, phát triển du lịch sinh thái là tất yếu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm về loại hình du lịch này. Cái nắng hanh hao, gió vàng, cát trắng... từ bao đời vốn là “đặc sản” của thiên nhiên miền Trung. Nằm ở phần địa đầu dải đất ấy, Thanh Hóa một mặt phải sống chung cùng sự “đỏng đảnh” của thời tiết, mặt khác vùng đất này lại được thiên nhiên ưu ái hơn khi dành tặng một loạt “công trình” mà chỉ có bàn tay sắp đặt của tạo hóa mới trở nên sống động, hài hòa đến vậy. Đó là Sầm Sơn, Hải Hòa, Hải Tiến... vùng ven biển; là Bến En, Cẩm Lương, Pù Luông, Pù Hu, Cửa Đạt, Lam Kinh... vùng trung du miền núi. Dựa trên sự sắp đặt ấy, loại hình du lịch sinh thái cũng tập trung phát triển ở hai địa bàn: Trung du miền núi và vùng biển. Du lịch sinh thái biển  gắn liền với các loại hình dịch vụ, du lịch biển như lưu trú, nghỉ ngơi, tắm biển, bơi lặn, chèo thuyền, lướt ván, tìm hiểu văn hóa, ẩm thực, hệ động thực vật biển... So với các vùng biển khác trong tỉnh, Sầm Sơn  cơ bản đáp ứng nhu cầu của loại hình du lịch này. Sầm Sơn ví như chim đại bàng mà ức của nó là dãy Trường Lệ hướng ra biển Đông, cánh phía bắc bắt đầu từ đền Cô Tiên trở về Quảng Cư, còn cánh phía nam là một dải biển thuộc Quảng Xương. Mùa du lịch, trong khi phía bắc đang thả sức sải cánh bay, thì phía nam vẫn “ngủ quên” im lìm trong tiếng phi lao và sóng biển. Bởi đôi cánh vẫn chưa thật khỏe, chưa thật đều nên đại bàng vẫn chưa thể cất mình bay cao, bay xa như nó muốn, như chúng ta vẫn chờ đợi. Đó là chưa kể bản thân cánh phía bắc của nó cũng còn không ít khiếm khuyết, ví như  những vấn đề về xúc tiến đầu tư, quy hoạch đô thị, quy hoạch bãi tắm, vệ sinh môi trường, cải tạo nước biển... Nối liền với Sầm Sơn là vùng biển Hải Tiến (Hoằng Hóa). Biển Hải Tiến đa phần còn nằm ở trạng thái khá nguyên sơ, núi chắn nước, nước ôm chân núi, bờ biển chạy dài qua một loạt các xã ven biển. Nếu Khu du lịch Hải Tiến đi đúng quy hoạch và tiến độ thì đây sẽ là nơi san sẻ cho Sầm Sơn nhiều gánh nặng, đồng thời trở thành một trong những trọng điểm du lịch  của tỉnh và cả nước. Nằm ở phía nam Thanh Hóa, biển Hải Hòa (Tĩnh Gia) có lợi thế hơn nhiều vùng biển khác bởi trong thời gian tới nó sẽ là đầu mối đón Khu đô thị mới Nghi Sơn. Biển Hải Hòa đúng như tên gọi của nó: vẻ đẹp hài hòa của hệ sinh thái chưa chịu nhiều tác động từ bàn tay con người. Khác với du lịch sinh thái biển thiên về vui chơi, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái rừng hồ (Bến En, Cửa Đạt), sinh thái văn hóa (suối cá Cẩm Lương, quần thể di tích Lam Kinh) hay văn hóa sinh thái cộng đồng (đang bước đầu triển khai tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Pù Hu) có phần thiên về khám phá, tìm hiểu. Hãy bắt đầu cuộc hành trình từ Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (nằm trên địa bàn 2 huyện Quan Hóa, Bá Thước). Sự phong phú, đa dạng của thảm thực vật và hệ động vật với hàng nghìn loài, trong đó có nhiều loài quý hiếm, đặc hữu ít thấy trong các khu bảo tồn khác là thế mạnh lớn nhất tạo nên sức hút những du khách ưa tìm hiểu, gần gũi với thiên nhiên. Giữa khí hậu trong lành, mát mẻ hòa trong cái hoang sơ, kỳ vĩ của cảnh vật, hãy tưởng tượng buổi sớm mở cửa ra ta có thể đón tất cả khí trời vào lồng ngực hay thả mình trôi trong đêm hội rượu cần để men say lẫn vào câu khặp, điệu xòe của cô gái Thái... Xuôi về Cẩm Lương (Cẩm Thủy) vào Suối Cá thần - thắng tích có một không hai trong nước hay ngược sang Bến En (Như Thanh) tham quan quần thể hơn 20 đảo “trôi nổi” giữa hơn 4.000 ha mặt nước  và các hang động còn dấu tích của những năm tháng chiến tranh ác liệt... Với hệ thống các danh thắng, hang động, thác nước tương đối lớn chưa được khai thác như một điểm du lịch sinh thái do điều kiện giao thông, hạ tầng du lịch còn nhiều bất cập, có thể nói tiềm năng của loại hình du lịch sinh thái ở Thanh Hóa là rất lớn. Nhưng có lẽ tạm gác lại những điểm thắng tích còn ở dạng “tiềm tàng” này, vấn đề cần quan  tâm là hiệu quả khai thác cần phải song hành với tiềm năng từ các điểm du lịch đã có trong “Sổ tay” của du khách vừa điểm qua. Mỗi năm Thanh Hóa đón hàng triệu khách du lịch nhưng đa số tập trung ở Sầm Sơn vào mùa hè. Bản thân đô thị du lịch này cũng chỉ thỏa mãn được một phần nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi của du khách. Nhiều dự án xây dựng hạ tầng du lịch đang “tạm gác” không thời hạn do vô số lý do mà Khu du lịch Hải Tiến là một ví dụ. Các điểm du lịch sinh thái rõ ràng có rất nhiều lợi thế về tính độc đáo, đẹp, đa dạng, có sức hút đối với du khách nhưng khách tham quan tìm đến khá khiêm tốn... Đó là thực trạng ngành du lịch đang phải đối mặt. Lý giải cho thực trạng ấy có hàng chục lý do lớn nhỏ. Đó là kiến thức và năng lực quản lý du lịch của các ban quản lý cấp huyện, xã và đội ngũ cán bộ chuyên trách còn hết sức hạn chế. Điều này tất yếu dẫn đến nhiều hiện tượng hay cách làm khiến du khách chưa thật hài lòng mỗi mùa du lịch. Chẳng hạn việc đặt quá nhiều trạm thu phí ở suối cá Cẩm Lương chưa hẳn là cách làm phù hợp. Thay vì để một đơn vị vừa quản lý bảo dưỡng, vừa khai thác cầu treo để thuận cho việc giám sát và điều tiết lượng vé bán ra cho phù hợp thì việc giao cho một đơn vị quản lý, một đơn vị khai thác như hiện nay đã dẫn đến tình trạng ùn tắc hàng giờ trên cầu, gây không ít khó chịu cho du khách. Việc lồng ghép các chính sách phát triển toàn diện có sự phối hợp giữa các ngành du lịch, quốc phòng, nông - lâm nghiệp thực hiện chưa tốt dễ dẫn đến chồng chéo, lãng phí trong quản lý, khai thác tại các điểm du lịch. Ngành du lịch hiện vẫn thiếu một doanh nghiệp đủ lực làm đầu tầu trong lĩnh vực kinh doanh du lịch, tạo tiền đề cho du lịch phát triển theo hướng xã hội hóa, bởi vẫn chưa có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư cho du lịch... Với mục đích tạo “cú hích” thu hút khách du lịch đến Thanh Hóa, Chủ tịch UBND tỉnh đã ra Quyết định 311/QĐ-UBND ngày 4-2-2009 về việc “Phê duyệt danh mục các chương trình xúc tiến du lịch năm 2009” gồm 9 nội dung: Tổ chức sự kiện, hội chợ, quảng bá, thay mới các panô, xuất bản ấn phẩm về du lịch Thanh Hóa, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, khảo sát thị trường, tổ chức “Trung tâm thông tin du lịch tại Sầm Sơn” và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực. Với việc thực hiện quyết định trên, du khách và người quan tâm có thể hi vọng nhìn thấy một diện mạo mới của du lịch tỉnh nhà. VI. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI BÀ RỊA- VŨNG TÀU 1.Giới thiệu chung Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007 [6]).. Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu-global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đai. Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn.. Bà Rịa- Vũng Tàu cũng không tránh khỏi sự đe dọa của BĐKH. Để có thể xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững BR-VT đến 2020, những dự báo tác động của BĐKH là việc làm bức xúc. Mặc dù vậy, những dự báo dưới đây chưa thể có độ chính xác cao mà chỉ mang tính nhận diện vấn đề. Để dự báo tốt cần triển khai đề tài nghiên cứu đánh giá thích hợp. 2. BĐKH ở Việt Nam – cơ sở của dự báo đối với BR-VT Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008, được trình bày tóm tắt dưới đây. Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990) Năm Nhiệt độ tăng thêm(0C) Mực nước biển tăng thêm (cm) 2010 0,3-0,5 9 2050 1,1-1,8 33 2100 1,5-2,5 45 Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Chú ý rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì của khí hậu và đặc điểm sụt hạ địa chất địa phương Bảng 2.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990) Năm Tây Bắc Đông Bắc Đồng bằng BB Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây nguyên Nam Bộ 2050 1,41 1,66 1,44 1,68 1,13 1,01 1,21 2100 3,49 4,38 3,71 3,88 2,77 2,39 2,80 Nguồn:Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990 Kịch bản / năm 2050 2100 A1F1 13,7 39,7 A2 12,5 33,1 A1B 13,3 31,5 B2 12,8 28,8 A1T 12,7 27,9 B1 13,4 26,9 Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1] chú ý số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ địa chất đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiến đổi khí hậu và du lịch sinh thái biển vũng tàu.doc
Tài liệu liên quan