Tiểu luận Biện pháp bảo lãnh trong các giao dịch dân sự

Có thể thấy quyết định số 03/2004/HĐTP – KT của Tòa án nhân dân tối cao cũng như bản án kinh tế phúc thẩm số 10/KTPT ngày 27 – 02 – 2003 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn đúng pháp luật bởi các lý do sau:

Về nội dung của bảo lãnh bên bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc tự mình thực hiện một công việc để chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ hoặc gây ra thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh. Về đối tượng của bảo lãnh người bảo lãnh phải bằng một tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh. Khoản 2 Điều 366 BLDS năm 1995 quy định: “Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện công việc.”

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5452 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện pháp bảo lãnh trong các giao dịch dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứ ba cam kết với người có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà người đó không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện. 2. Chủ thể của bảo lãnh Quan hệ bảo lãnh thực chất là một quan hệ tay ba giữa người có quyền, người có nghĩa vụ và người thứ ba. Vì vậy, chủ thể của bảo lãnh không chỉ là các bên trong quan hệ nghĩa vụ chính. Thông qua việc cam kết giữa người thứ ba trên cơ sở sự đồng ý của người có quyền hình thành một quan hệ, trong đó người thứ ba được gọi là người bảo lãnh, người có quyền là người nhận bảo lãnh và người có nghĩa vụ được gọi là người được bảo lãnh. Người bảo lãnh phải là người có đầy đủ năng lực hành vi, có khả năng tài sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). 3. Đối tượng và phạm vi bảo lãnh - Nếu đối tượng của nghĩa vụ chính là việc thực hiện một công việc mà chỉ thông qua việc thực hiện công việc đó, quyền lợi của bên có quyền mới được thỏa mãn, thì đối tượng của bảo lãnh phải là việc thực hiện một công việc (người bảo lãnh phải là người có khả năng thực hiện công việc đó). - Nếu đối tượng của nghĩa vụ chính là một khoản tiền hoặc một tài sản có giá trị khác, thì đối tượng của bảo lãnh phải là một tài sản thuộc sở hữu của người bảo lãnh. - Phạm vi bảo lãnh có thể là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ, tùy thuộc vào sự cam kết, xác định của người bảo lãnh. 4. Nội dung của bảo lãnh - Bên bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc tự mình thực hiện một công việc để chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ hoặc gây ra thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh. Khi bên bảo lãnh thực hiện xong những cam kết trước bên nhận bảo lãnh, thì quan hệ nghĩa vụ chính cũng như việc bảo lãnh được coi là chấm dứt. Khi đó bên bảo lãnh có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh; bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu có thỏa thuận giữa họ với người được bảo lãnh hoặc pháp luật có quy định. - Trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ, thì họ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh. - Nếu người bảo lãnh được người nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ, thì người được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó đối với người có quyền. Trong trường hợp người nhận bảo lãnh chỉ miễn cho một người trong số những người bảo lãnh liên đới việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của người đó, thì những người bảo lãnh khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi mà họ đã bảo lãnh. - Nếu nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ nhưng họ đã thỏa thuận và cam kết trước người có quyền về việc mỗi người chỉ bảo lãnh một phần nghĩa vụ độc lập hoặc pháp luật đã quy định từng phần nghĩa vụ độc lập, thì mỗi người bảo lãnh chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ trong phạm vi mà mình đã cam kết bảo lãnh. II. CÁC VỤ VIỆC CÓ TRANH CHẤP VỀ BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ VAY TIỀN: 1.Vụ việc thứ nhất: 1.1 Tóm tắt vụ việc: – Nguyên đơn: Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long Trụ sở: số 17 Bến Chương Dương, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. – Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại sản xuất Lam Giang Trụ sở: số 171 Trần Hưng Đạo, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. – Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Ông Nguyễn Đắc Cường, địa chỉ: số 197/6 Nguyễn Đình Chiểu, phường 11, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Bà Trần Thị Thanh Mỹ, địa chỉ: số 531 Hoà Hảo, phường 7, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long (gọi tắt là bên A) và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại sản xuất Lam Giang (gọi tắt là bên B) có ký hợp đồng tín dụng số 101.01.99- HĐTD ngày 23-11-1999 với số tiền vay là 800.000.000đ. Thời hạn vay 06 tháng kể từ ngày 24-11-1999 đến ngày 24-05-2000 gia hạn đến 24-11-2000. Lãi suất cho vay là 0,85%/tháng, lãi suất quá hạn 125%/tháng. Lãi phạt chậm trả là 5% tính trên số lãi chậm trả. Thời hạn hợp đồng (điểm 2 Điều 12 Hợp đồng tín dụng 101.01.99) có hiệu lực từ ngày ký tới ngày bên B hoàn trả xong cả gốc và lãi cho bên A như thoả thuận. Tài sản đảm bảo cho khoản nợ vay nói trên là căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh có công chứng số 78898 ngày 23- 11-1999 của Phòng công chứng Nhà nước số 2 thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Đắc Cường đứng ra bảo lãnh (hành động nhân danh cá nhân) được uỷ quyền của vợ là bà Trần Thị Thanh Mỹ theo hợp đồng uỷ quyền số 20754 do Phòng công chứng Nhà nước số 2 thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 06-05-1998. ; căn nhà này bà Mỹ đứng tên mua của Công ty xây dựng dịch vụ quận 10, thành phố Hồ Chí Minh đang chờ làm giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở. Ngày 06-05- 1998 bà Mỹ làm hợp đồng uỷ quyền cho ông Cường thay mặt bà làm các thủ tục hợp thức hoá căn nhà trên đứng tên bà Mỹ là chủ sở hữu; ngày 25-11-1998 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng nhà đứng tên bà Mỹ đã hoàn thành; ngày 17-08-1999 bà Mỹ và ông Cường ly hôn. Trước đó tại hợp đồng uỷ quyền ngày 06-05-1998 giữa bà Trần Thị Thanh Mỹ (bên A) và ông Nguyễn Đắc Cường (bên B) có nội dung như sau: 1. Bên B được quyền thay mặt bên A: – Làm thủ tục hợp thức hoá nhà (xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở). – Sau khi hợp thức hoá xong, bên A được quyền quản lý, sử dụng, mua bán, thế chấp, sang nhượng căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. – Trường hợp có thế chấp, nếu ông Cường không trả được nợ, tôi bằng lòng để Ngân hàng phát mại căn nhà. 2. Trong phạm vi uỷ quyền, bên B được quyền lập văn bản, ký tên trên các giấy tờ liên quan và thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Thực hiện hợp đồng tín dụng, ngày 24-11-1999 bên A đã giải ngân cho bên B vay 800.000.000đ. Từ ngày 24-11-1999 đến ngày 24-10-2000 bên B chỉ trả được 75.933.000đ tiền lãi, số tiền gốc 800.000.000đ vẫn nợ lại. Do hợp đồng đã quá hạn và đôn đốc nhắc nhở nhiều lần bên B vẫn không thanh toán được nợ, ngày 19-04-2001 bên A đã có đơn khởi kiện yêu cầu bên B và phía bảo lãnh là ông Nguyễn Đắc Cường nhanh chóng thanh toán tiền nợ cho bên A. Theo biên bản làm việc với Toà án cấp sơ thẩm cũng như tại bút ký phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, bà Mỹ đều khai ông Cường mang căn nhà đi bảo lãnh cho Công ty TNHH Lam Giang (của bà Hứa Thị Phấn) vay tiền bà Mỹ không hề biết, điều này còn được chứng minh tại hợp đồng bảo lãnh số 0041 .99/HĐ-BL ký ngày 23-11-1999 giữa ông Nguyễn Đắc Cường, bà Hứa Thị Phấn (Giám đốc bên B) và Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long có tên của bà Trần Thị Thanh Mỹ là bên bảo lãnh nhưng không có chữ ký của bà Mỹ. Theo văn thư bà Mỹ gửi Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long ngày 03-01-2001 nội dung giao toàn quyền sở hữu nhà cho ông Cường. Nhưng tính pháp lý của văn thư này không được chứng minh (chỉ có bản phô tô). Bản thân bà Mỹ tại các lời khai có trong hồ sơ và tại bút ký phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm cũng đều phủ nhận nội dung văn thư này. Hơn nữa, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 630/HSST ngày 10-04-2002 đến ngày 24-05-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, bà Trần Thị Thanh Mỹ đã tự nguyện mang tài sản thuộc sở hữu của mình là căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh giao cho Ngân hàng Việt Hoa để trả nợ thay cho anh trai bà Mỹ là Lâm Vĩnh. Căn nhà này đã được bàn giao cho Ngân hàng Việt Hoa phát mại để thu hồi vốn. Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật và ông Cường không kháng cáo. Tại Bản án kinh tế sơ thẩm số 145/KTST ngày 10-09-2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên A, buộc bên B phải trả toàn bộ vốn vay và lãi phát sinh, với tổng số tiền là 903.919.900đ, bao gồm nợ gốc là 800.000.000đ và số tiền lãi phát sinh tính đến ngày 10-09-2001 là 103.919.900đ. – Bên B phải tiếp tục trả lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước. – Trong trường hợp bên B không trả được nợ thì phát mại căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận l0, thành phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng bảo lãnh vay vốn số 0041.99/HĐ-BL ký ngày 23-11- 1999 đã được Phòng công chứng Nhà nước số 2 thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận số 78898 ngày 23-11-1999. Bác yêu cầu không phát mại căn nhà số A8 (số mới l8) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh  của bà Trần Thị Thanh Mỹ. Sau khi xét xử sơ thẩm, cùng ngày 17-09-2001 ông Cường có đơn kháng cáo với nội dung không đồng ý phát mại căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận l0, thành phố Hồ Chí Minh; bà Mỹ có đơn kháng cáo nội dung không đồng ý cho ông Cường mang  căn nhà đi bảo lãnh cho người thứ ba Tại Bản án kinh tế phúc thẩm số 10/KTPT ngày 27-02-2003, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: – Sửa một phần Bản án kinh tế sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên A, buộc bên B hoàn trả vốn vay và thanh toán lãi phát sinh với tổng số tiền là 903.919.900đ bao gồm nợ gốc 800.000.000đ và tiền lãi phát sinh đến ngày 10-09-2001 là 103.919.900đ. Bên B phải tiếp tục trả lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước quy định trên số nợ gốc cho đến khi thanh toán xong nợ. – Tuyên bố hợp đồng bảo lãnh vay vốn số 0041.99/HĐ-BL ký ngày 23- 11- 1999 đã được Phòng công chứng Nhà nước số 2 thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận số 78898 ngày 23- 11- 1999 giữa bên A, ông Nguyễn Đắc Cường và bà Hứa Thị Phấn là vô hiệu. – Không phát mại căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh của bà Trần Thị Thanh Mỹ. – Bên A có trách nhiệm trả lại cho bà Trần Thị Thanh Mỹ toàn bộ giấy tờ nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh hiện đang quản lý theo hợp đồng bảo lãnh. Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 02 tháng 07 năm 2003 bên A có đơn khiếu nại giám đốc thẩm, nội dung đề nghị công nhận hợp đồng bảo lãnh vay vốn số 0041.99/HĐ-BL ngày 23-11-1999 có hiệu lực pháp luật; đề nghị Toà án đồng ý cho bên A phát mại căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi nợ. Ngày 27-11-2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra Quyết định kháng nghị số 10/KN-AKT, nội dung: Bằng các quyền được ghi trong hợp đồng uỷ quyền có công chứng ngày 06-05-1998 và sự khẳng định trong văn thư ngày 03-01-2001 gửi Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long của bà Mỹ, thấy có cơ sở để kết luận: Bà Mỹ đã tự nguyện trao toàn bộ quyền sở hữu ngôi nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 20 năm kể từ ngày 06-05- 1998, hoặc cho tới khi bán xong căn nhà và ông Cường hoàn toàn không bị hạn chế bất cứ quyền nào trong quyền sở hữu tài sản được pháp luật quy định tại các Điều 189; 198; 201 Bộ luật Dân sự. Do đó, hành vi của ông Cường dùng căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh do bà Mỹ đứng tên chủ sở hữu làm tài sản bảo lãnh cho bên B vay tiền của bên A là không vượt quá phạm vi uỷ quyền của bà Mỹ và cũng không trái với quy định tại Điều 180 Bộ luật Dân sự: “Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật”. Việc Toà án cấp phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 366 Bộ luật Dân sự tuyên bố hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu là gây hậu quả thất thoát tài sản lớn của Nhà nước. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 75 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Kháng nghị Bản án kinh tế phúc thẩm số 10/KTPT ngày 27-02-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao sửa một phần Bản án kinh tế phúc thẩm số 10/KTPT ngày 27-02-2003 theo hướng y án sơ thẩm - công nhận hợp đồng bảo lãnh số 0041.99/HĐ-BL ngày 23-11–1999 giữa ông Nguyễn Đắc Cường, bà Hứa Thị Phấn (giám đốc bên B) và bên A là hợp đồng kinh tế hợp pháp có hiệu lực pháp luật. Tại Quyết định số 03/2004/HĐTP- KT ngày 26-02-2004, Tòa án Nhân dân tối cao đã bác kháng nghị số 10/KN- AKT ngày 27-11-2003 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Bản án kinh tế phúc thẩm số 10/KTPT ngày 27-02-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Lý do bác kháng nghị là Nội dung Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về việc yêu cầu công nhận hợp đồng bảo lãnh số 0041.99/HĐ- BL ngày 23/11/1999 giữa ông Nguyễn Đắc Cường, bà Hứa Thị Phấn và Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long là không có căn cứ. 1.2 Nhận xét của nhóm: Có thể thấy quyết định số 03/2004/HĐTP – KT của Tòa án nhân dân tối cao cũng như bản án kinh tế phúc thẩm số 10/KTPT ngày 27 – 02 – 2003 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn đúng pháp luật bởi các lý do sau: Về nội dung của bảo lãnh bên bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc tự mình thực hiện một công việc để chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ hoặc gây ra thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh. Về đối tượng của bảo lãnh người bảo lãnh phải bằng một tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh. Khoản 2 Điều 366 BLDS năm 1995 quy định: “Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện công việc.” Xét trong trường hợp này, ông Nguyễn Đắc Cường đứng ra bảo lãnh cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại sản xuất Lam Giang vay khoản tiền là 800.000.000đ. Thời hạn vay 06 tháng kể từ ngày 24-11-1999 đến ngày 24-05-2000 gia hạn đến 24-11-2000. Lãi suất cho vay là 0,85%/tháng, lãi suất quá hạn 125%/tháng. Lãi phạt chậm trả là 5% tính trên số lãi chậm trả. Ông Cường bảo lãnh bằng căn nhà số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh có công chứng số 78898 ngày 23- 11-1999 của Phòng công chứng Nhà nước số 2 thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định của pháp luật thì ông Cường chỉ có thể sử dụng ngôi nhà này làm đối tượng để bảo lãnh nếu ngôi nhà đó thuộc quyền sở hữu của ông. Tuy nhiên theo những dữ kiện đã nêu trong phần tóm tắt vụ án thì ông Cường chỉ được bà Trần Thị Thanh Mỹ làm hợp đồng uỷ quyền cho ông thay mặt bà làm các thủ tục hợp thức hoá căn nhà trên đứng tên bà Mỹ là chủ sở hữu. Theo hợp đồng uỷ quyền này, ông Cường (bên B) chỉ được quyền thay mặt bà Mỹ “làm thủ tục hợp thức hoá nhà (xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở)...”. Sau khi hợp thức hoá nhà xong, quyền sở hữu căn nhà thuộc về bà Mỹ. Bà Mỹ (bên A) là người có quyền: “... quản lý, sử dụng, mua bán, thế chấp, sang nhượng...”. Như vậy phải xác định ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của bà Mỹ, việc ông Cường dùng ngôi nhà này để bảo lãnh cho khoản vay của công ty Lam Giang là trái pháp luật. Từ đây có thể thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cũng như quyết định tại bản án sơ thẩm là không có căn cứ, tòa án cấp sơ thẩm và viện kiểm sát đã không xem xét đầy đủ các yếu tố để thấy được chủ sở hữu thực sự của ngôi nhà số số A8 (số mới 18) đường Sư Vạn Hạnh nối dài, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Vụ việc thứ hai: 2.1 Tóm tắt vụ việc: Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng); có trụ sở tại số 2 Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Đăng Bộ - Phó Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sài Gòn; có trụ sở tại số 7 Bis Chương Dương, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (văn bản uỷ quyền số 900/NHNo-10 ngày 23-11-2000). Bị đơn: Công ty TNHH xe khách thương mại và dịch vụ Hợp Quốc (gọi tắt là Công ty Hợp Quốc); có trụ sở tại số 25 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận I, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Không Tuấn - Giám đốc Công ty Hợp Quốc. Người có nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị Tư; trú tại số 14 Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Tấn Triển; trú tại E327/47 khu 6, phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, (văn bản uỷ quyền ngày 12-12-2003). Ngày 08-10-2003 nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty Hợp Quốc thanh toán các khoản nợ theo hợp đồng tín dụng, đồng thời cho phép Ngân hàng được phát mại tài sản bảo đảm để thu nợ; cụ thể như sau: Ngân hàng và Công ty Hợp Quốc có ký kết hợp đồng tín dụng số 247/HĐTD ngày 30-8-2001 với nội dung chính: - Vốn vay:             6.419.572.000 đồng - Lãi suất:              0, 8%/tháng - Thời hạn vay 60 tháng, từ 06-9-2001 đến 06-9-2006. - Tiền nợ gốc chia 19 kỳ (1 kỳ 3 tháng), trả mỗi kỳ một lần. Lãi tiền vay trả vào ngày 26 hàng tháng. Tài sản bảo đảm khoản nợ gồm: - Quyền sử dụng lô đất 59.700m2 trồng cao su, do ông Đặng Văn Tốt và bà Bùi Thị Tư đứng tên chủ sở hữu, theo hợp đồng bảo lãnh nợ vay số 48/HĐBLTS ngày 04-9-2001 cho dư nợ vay tối đa là 3.210.000.000 đồng. - Cầm cố 16 chiếc xe Mercedes - Benz (tài sản hình thành từ nguồn vốn vay của hợp đồng tín dụng) theo hợp đồng cầm cố tài sản số 82/HĐCC ngày 07-11-2001 bảo đảm cho khoản vay 3.210.000.000 đồng còn lại. Ngày 06-9-2001, Ngân hàng đã giải ngân số tiền 6.419.572.000 đồng trả tiền mua xe cho Công ty Hợp Quốc. Thực tế Công ty Hợp Quốc mới thanh toán cho ngân hàng tiền gốc 667.500.000 đồng, tiền bán 2 xe tô tô, tiền lãi 299.592.931 đồng (tính đến tháng 6-2002) và 2.000.000.000 đồng của bà Tư trả Ngân hàng (ngày 01-12-2003). Do Công ty Hợp Quốc không trả đủ nợ vốn vay định kỳ nên Ngân hàng chuyển toàn bộ dư nợ còn lại chưa đến hạn thanh toán coi như đến hạn và đề nghị được chấm dứt hợp đồng trước hạn. Công ty Hợp Quốc còn nợ gốc, lãi đến ngày 30-3-2004 gồm: - Nợ gốc cho tất cả các kỳ hạn còn lại 3.752.072.000 đồng. - Nợ lãi đến ngày 30-3-2004 là: 1.193.446.775 đồng. Ngày 31-7-2003 giữa các bên có thoả thận giải pháp giải quyết công nợ của Công ty Hợp Quốc. Bị đơn trình bày: xác nhận số tiền vốn vay đã trả như Ngân hàng là đúng, riêng tiền lãi thanh toán hết ngày 11-4-2003 là 309.023.539 đồng. Ngoài ra ngày 25-11-2001, Công ty có giao cho ông Tốt, bà Tư 5 xe để quản lý điều hành và nộp doanh thu kể từ tháng 9-2001 đến khi thanh lý hợp đồng tín dụng với Ngân hàng. Công ty đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng và chỉ thanh toán khoản nợ đến hạn. Người đại diện hợp pháp cho bà Tư xác nhận ngày 01-12-2003, bà Bùi Thị Tư đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền là: 2.000.000.000 đồng (uỷ nhiệm chi ngày 01-12-2003). Trong trường hợp Công ty Hợp Quốc không trả được nợ thì ông Tốt, bà Tư với trách nhiệm bảo lãnh sẽ trả nợ thay 2.000.000.000 đồng - trị giá vốn vay 5 chiếc xe mà bà Bùi Thị Tư đã nhận của Công ty Hợp Quốc tháng 9-2001, cùng lãi phát sinh. Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 82/KTST ngày 30-3-2004, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: 1. Buộc Công ty Hợp Quốc hoàn trả vốn vay và thanh toán lãi phát sinh cho Ngân hàng tổng số tiền là 4.945.518.755 đồng, trong đó: - Tiền nợ gốc các kỳ hạn còn lại 3.752.072.000 đồng. - Tiền lãi quá hạn (lãi suất 1,2%/tháng) đến ngày 30-3-2004 là 1.193.446.775 đồng. Nếu Công ty Hợp Quốc không trả được nợ thì phải chịu biện pháp cưỡng chế phát mại tài sản thế chấp, cầm cố gồm: - 14 chiếc xe Mercedes - Benz (tài sản hình thành từ nguồn vốn vay của hợp đồng tín dụng) thông qua hợp đồng cầm cố tài sản số 82/HĐCCTS ngày 07-11-2001 theo xác nhận số 16524 ngày 08-11-2003 của Phòng Công chứng số 1 thành phố Hồ Chí Minh, số tiền 3.210.000.000 đồng. - Lô đất 59.700m2 bảo lãnh của ông bà Đặng Văn Tốt và bà Bùi Thị Tư đứng tên chủ sở hữu theo hợp đồng bảo lãnh nợ vay số 48/HĐBLTS ngày 04-9-2001 xác nhận số 13 quyển số 1 TP/CC-SCC/CK ngày 04-9-2001 của Uỷ ban nhân dân xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, số tiền 3.210.000.000 đồng. Ngoài ra còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 15-4-2000, bà Bùi Thị Tư có đơn kháng cáo với lý do Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử vắng mặt bà trong khi bà đã có đơn xin hoãn phiên toà. Ngày 22-4-2000, Công ty Hợp Quốc kháng cáo xin được xét thêm thời hạn trả nợ và giảm lãi nợ. Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 47/KTPT ngày 20-9-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngày 12-10-2004, bà Bùi Thị Tư có đơn đề nghị xin được xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định kháng nghị số 03/2005/KT-KN ngày 13-6-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh tế phúc thẩm số 47/KTPT ngày 20-9-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với lý do Toà án cấp phúc thẩm kết luận không đúng về nghĩa vụ trả nợ thay của người bảo lãnh nợ vay và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án kinh tế phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật. 2.2 Nhận xét của nhóm: Có thể thấy kháng nghị của Chánh án tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn chính xác. Về phạm vi bảo lãnh, pháp luật có quy định phạm vi bảo lãnh có thể làm một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nếu không có thỏa thuận gì khác thì người bảo lãnh phải bảo lãnh cả tiền lãi trên nợ gốc trong phạm vi bảo lãnh đồng thời phải bảo lãnh cả khoản tiền phạt cũng như tiền bồi thường thiệt hại. Như vậy, phạm vi bảo lãnh gồm bao nhiều phần so với tổng giá trị của nghĩa vụ chính tùy thuộc vào sự cam kết, xác định của người bảo lãnh. Trong trường hợp này, bà Tư chỉ bảo lãnh để Công ty Hợp Quốc vay số tiền 3.200.000.000 đồng trong tổng số tiền mà Công ty Hợp Quốc vay của Ngân hàng là 6.419.572.000 đồng. Số tiền vay còn lại được Công ty Hợp Quốc đảm bảo bằng việc cầm cố 16 xe ô tô. Như vậy phạm vi bảo lãnh ở đây đã được xác định cụ thể. Công ty Hợp Quốc không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán nợ vay từng kỳ, vi phạm hợp đồng đã ký với Ngân hàng. Các bên không tranh chấp số dư nợ gốc, tiền lãi phải trả, mà có việc thoả thuận (ngày 31-7-2003) giải quyết công nợ, theo đó Công ty Hợp Quốc giao toàn bộ số xe, hoặc trực tiếp thanh toán số tiền vay được đảm bảo bằng việc cầm cố 16 xe ô tô, thì số tiền bà Tư gửi tiết kiệm dùng để thanh toán số tiền vay 3,2 tỷ đồng mà bà Tư thoả thuận đảm bảo bằng việc bảo lãnh bằng lô đất của vợ chồng bà Tư, để thanh lý hợp đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, Công ty Hợp Quốc đã không thực hiện thoả thuận này. Bà Tư trả Ngân hàng 02 tỷ đồng. Căn cứ trên chứng từ (uỷ nhiệm chi ngày 01-12-2003) thì bà Tư thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình, vậy chỉ còn trách nhiệm thanh toán thay số tiền còn lại 1,2 tỷ đồng trong phạm vi bảo lãnh vốn vay, để được Ngân hàng giải chấp lô đất. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm cho rằng số tiền 02 tỷ đồng mà bà Tư trả Ngân hàng là để thanh toán giá trị 05 chiếc xe bà Tư nhận của Công ty Hợp Quốc là không đúng. 3. Vụ việc thứ ba: 3.1 Tóm tắt vụ việc: Năm 1974, ông Ninh mua 6830m2 đất nông nghiệp tại huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Năm 1976, số đất trên được đưa vào Hợp tác xã. Năm 1988 khi Hợp tác xã giải thể, ông Ninh giao số đất này cho anh Lợi (con trai ông Ninh) quản lý và sử dụng. Trong quá trình quản lý số đất trên, anh Lợi đã kê khai, đăng ký và năm 1992, anh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Ninh biết nhưng không tranh chấp. Và cũng từ năm 1988 đến nay, ông Ninh không đăng ký kê khai, không sử dụng số đất này. Năm 2006, anh Lợi mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bảo lãnh cho anh Nguyễn Huy Khanh vay tiền của ngân hàng số tiền là 100.000.000đ. Sau khi kiểm tra tính pháp lý của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Ngân hàng đã ký hợp đồng cho anh Khanh vay. Đến tháng 5/2006, ông Ninh khởi kiện đòi anh Lợi số đất trên. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 267/2006/DS-ST ngày 21/11/2006, TAND huyện Châu Phú quyết định bác yêu cầu của ông Ninh đòi anh Lợi phải trả ông Ninh 6830m2 đất. Không đồng ý với phán quyết của Toà án, ngày 22/11/2006, ông Ninh kháng cáo. Tại Bản án phúc thẩm số 171/2007/DSPT ngày 27/3/2007, TAND tỉnh An Giang quyết định sửa án sơ thẩm, buộc anh Lợi phải trả cho ông Ninh diện tích đất ruộng 6830m2; anh Lợi phải trả Ngân hàng số nợ; ngân hàng phải giao giấy chứng nhận cho ông Ninh để ông Ninh làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. 3.2 Nhận xét của nhóm: Theo ý kiến của nhóm, cách giải quyết vụ việc của TAND huyện Châu Phú mới là đúng pháp luật. Bởi lẽ, căn cứ vào các loại giấy tờ, chủ sở hữu là anh Lợi, và các giấy tờ này đều hợp pháp, minh bạch. Vả lại, khi anh Lợi kê khai, đăng kí quyền sử dụng đất, ông Ninh biết nhưng không tranh chấp. Do vậy, anh Lợi hoàn toàn có quyền dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo lãnh khoản vay của anh Khanh. Mặt khác, về phía Ngân hàng, phải chắc chắn rằng việc anh Lợi bảo lãnh cho khoản vay bằng quyền sử dụng đất là nhằm bảo đảm quyền lợi cho Ngân hàng, phải kiểm tra tính xác thực của các giấy tờ mà an

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập nhóm tháng 1 môn dân sự về biện pháp bảo lãnh 8 điểm.doc
Tài liệu liên quan