Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp, ngày 02 tháng 01 năm 2002 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị quyết trên đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Như vậy, những quy định của pháp luật về BPNC tạm giam cần phải có những sửa đổi, bổ sung như sau:
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2900 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biện pháp tạm giam và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp ngăn chặn tạm giam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
4. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
BLTTHS không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNCTG mà chỉ quy định áp dụng BPNC nói chung. Như điều 79 BLTTHS “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.
Trong số các căn cứ trên: căn cứ “kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho trường hợp bị bắt quả tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong người trong trường hợp khẩn cấp như ở điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là ăn cứ áp dụng cho BPNC tạm giam vì đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong quá khứ. Như vậy có các căn cứ sau:
- Căn cứ thứ nhất: khi có căn cứ cho rằng bị cán, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điểu tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, khống chế người làm chứng, người bị hại… dẫn đến gây khó khăn cho việc xác định, làm rõ sự thật khác quan vụ án.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc tiến hành tố tụng thường là:
+ Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thường tiến hành nhiều hoạt động đối phó hoạt động tố tụng.
+ Nhân thân người phạm tội, như loại đối tượng lưu manh, côn đồ thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối.
+ Sự ràng buộc với gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp.
+ Tình trạng chứng minh là mức độ làm rõ về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tượng mà hành vi của họ cơ bản đã được làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và ngược lại.
+ Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có…
Khi xem xét các tình tiết trên phải phân tích tổng hợp để tránh suy đoán chủ quan và không nhầm hiện tượng với bản chất.
- Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội
Để nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
Về các yếu tố phản ánh vế nhân thân của bị can, bị cáo như: là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tội phạm có tính chất chuyên nghiệp … căn cứ này còn được thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại, và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.
- Căn cứ 3: để bảo đảm thi hành án
Công tác thi hành án thực sự là vấn đề quan trọng. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất của từng vụ án và nhân thân người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp, trong đó có BPNC tạm giam để đảm bảo cho việc thi hành án.
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Theo khoản 3 Điều 88 “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn”. Theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 quy định về việc phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can (Khoản 3 Điều 88)
“5.1. Để đảm bảo trong thời gian Viện kiểm sát xét phê chuẩn lệnh tạm giam đối với người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can vẫn còn trong thời hạn tạm giữ thì chậm nhất 12 giờ trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra phải giao hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn, nếu có tài liệu bổ sung thì cơ quan điều tra phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát để kịp thời phục vụ cho việc xét phê chuẩn.
Trường hợp này, việc xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can được tiến hành cùng với việc xét phê chuẩn lệnh tạm giam bị can. Nếu chưa đủ căn cứ khởi tố bị can, nhưng có căn cứ gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra gia quyết định gia hạn tạm giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát phê chuẩn. Trong thời hạn gia hạn tạm giữ đó, Cơ quan điều tra phải khẩn trương thu thập, củng cố tài liệu, chứng cứ và chuyển ngay cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu Cơ quan điều tra trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Trường hợp có gia hạn tạm giữ, nếu không phê chuẩn thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ.
Nếu thấy việc khởi tố bị can là có căn cứ, nhưng không cần thiết phải tạm giam bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và ra quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam; nếu xét cần thì yêu cầu Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can.
5.2. Hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can, gồm các tài liệu sau đây:
a) Công văn đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam bị can;
b) Quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ (nếu có); lệnh tạm giữ bị can;
……….
h) Bản kê tên các tài liệu trong hồ sơ và từng trang tài liệu được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra.”
Như vậy thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể do nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn tiến hành tố tụng. VKS là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tam giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được VKS cùng phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà VKS phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam cử cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan tới việc tạm giam.VKS phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
6. Thủ tục tạm giam
Với tính chất là biện pháp nghiêm khắc nên cần phải tuân theo những trình tự thủ tục chặt chẽ. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì việc áp dụng biệp pháp tạm giam phải có lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày tháng; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, điạ chỉ của người bị áo dụng BPNC tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Bên cạnh đó khi tiến hành tạm giam một người thì cần đảm bảo các thủ tục liên quan như: thực hiện trông nom người thân thích, bảo quản tài sản của người bị tạm giam. Sau khi có lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tam giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam nhằm tránh trường hợp nhầm lẫn đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình của người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
7. Thời hạn tạm giam.
Thời hạn tạm giam được quy định tại Điều 71 BLTTHS năm 1988 nhưng ở BLTTHS năm 2003 thì lại không quy định.
Mức độ tội phạm
Thời gian
tạm giam trong
các giai đoạn tố tụng (ngày)
Ít nghiêm trọng
(có khung hình phạt từ 3 năm tù trở xuống)
Nghiêm trọng (có khung hình phạt mức cao nhất đến 7 năm tù)
Rất nghiêm trọng (có khung hình phạt mức cao nhất đến 15 năm tù)
Đặc biệt nghiêm trọng
(mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình)
Thời hạn điều tra
60
90
120
120
Gia hạn điều tra
30
90
150
480
Thời hạn truy tố
20
20
30
30
Gia hạn truy tố
10
15
30
30
Trả hồ sơ điều tra bổ sung
120
120
120
120
Gửi hồ sơ cho tòa án
3
3
3
3
Tòa án chuẩn bị xét xử
30
45
60
120
Gia hạn chuẩn bị xét xử
15
15
30
30
Trả hồ sơ điều tra bổ sung
60
60
60
60
Ra quyết định xét xử
15
15
15
15
Tổng cộng
363
473
618
1.008
7.1 Tạm giam để điều tra Điều 71
Như vậy trên thực tế thì thời hạn tam giam để điểu tra đối với tội ít nghiệm trọng (kể cả trường hợp đã gia hạn) là 3 tháng. Riêng đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm anh ninh quốc gia thì trong trường hợp cần thiết toàn bộ thời hạn tạm giam (kể cả những lần gia hạn) là có thể kéo dài hơn nhưng cần có viện trưởng VKSNDTC quyết định, căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng, phức tạp của vụ án và của việc điều tra.
Trong khi tạm giam để điều tra xét thấy không nhất thiết tạm giam thì cơ quan điều tra phải đề nghị VKS hủy bỏ tạm giam và trả tự do cho người đó hoặc áp dụng BPNC khác. Khi đã hết thời hạn tam giam thì phải trả tự do hoặc áp dụng biện pháp khác nếu thấy cần thiết.
7.2 Thời hạn tạm giam để truy tố
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, VKS có quyền quyết định việc áp dụng BPNC tạm giam. Trong trường hợp BPNC tạm giam để điều tra đã hết, nếu xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị can để hoàn thành bản cáo trạng thì VTVKS có thể gia hạn tạm giam không quá mười năm ngày; trường hợp cần thiết VTVKS có thể gia hạn thêm nhưng cũng không được quá mười năm ngày. Tóm lại thời hạn tạm giam để hoàn thành bản cáo trạng nhiều nhất là 30 ngày (kể cả thời hạn đã gia hạn thêm).
7.3 Thời hạn tạm giam để xét xử:
Không quá 45 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 3 tháng đối với tội nghiêm trọng. Đối với bị can đang bị tạm giam mà tòa án cấp sơ thẩm thấy cần tiếp tục tạm giam để xét xử thì dù thời hạn tạm giam theo lệnh cũ còn hay hết, TA vẫn phải ra lệnh tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì TA ra lệnh tam giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Đối với những vụ án phức tạp cần tiếp tục tạm giam bị cáo thì chánh án có thể gia hạn thêm thời hạn tạm giam nhưng cũng không được quá 30 ngày. Những vụ án đặc biệt nghiêm trọng do Tòa hình sự TANDTC hoặc tòa quân sự trung ương xét xử theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm thì thời hạn tạm giam là 3 tháng; trong trường hợp cần thiết Chánh án TANDTC có thể gia hạn thêm 1 tháng.
Thời hạn tạm giam để xét xử được tính từ ngày TA nhận được hồ sơ và bản cáo trạng do VKS chuyển sang đến ngày mở phiên tòa xét xử. Đối với bị cáo đang bị tạm giam thì TA ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa, thời hạn tạm giam trong trường hợp này không được quy định cụ thể nó dài hay ngắn còn phụ thuộc vào diễn biến của phiên tòa đó.
Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam và bị TA cấp sơ thẩm phạt tù vời thời hạn tù dài hơn thời hạn tạm giam thì TA phải tuyên trong bản án là “tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án”. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này có thể kéo dài tới khi Tòa phúc thẩm thụ lí vụ án (nếu bản sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị); hoặc kéo dài tới khi chánh án tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án nếu bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
II. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp, ngày 02 tháng 01 năm 2002 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị quyết trên đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Như vậy, những quy định của pháp luật về BPNC tạm giam cần phải có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất, các khái niệm trên về BPNC tạm giam đề chưa thật sự chính xác, chính vì vậy, căn cứ Điều 88 BLTTHS thì khái niệm tạm giam nên được hiểu như sau “tạm giam là biện pháp ngăn chặn do cơ quan điều tra, VKS hoặc TAND áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng…có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố,xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và người phạm tội quả tang hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp nhằm mục địch ngăn chặn bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể phạm tội.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng những quy định BLTTHS trong thời gian qua cho thấy việc áp dụng BPNC tạm giam nhìn chung là đã áp dụng đúng quy định của pháp luật về căn cứ áp dụng, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục áp dụng góp phần ngăn chặn ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa bị can, bị cáo có hành vi gây khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án. Tuy nhiên vẫn tồn tại những sai phạm như: áp dụng không có hoặc không có đủ căn cứ xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tự do cá nhân, quyền cơ bản của công dân ví dụ như: tạm giam người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, tạm giam người không có tội, tạm giam không cần thiết. Thực tiễn khảo sát được cho thấy có 320/472 các vụ án ở Lâm Đồng và thành phố Hồ Chí Minh là tạm giam mà không tìm thấy trong hồ sơ vụ án bất kì loại giấy tờ gì. Nội dung quy định của áp dụng BPNC tạm giam trong BLTTHS vẫn còn nhiều hạn chế như: còn có sự mâu thuàn chồng chéo giữa căn cứ chung và căn cứ riêng, 1 số quy định còn gây hiểu lầm giữa căn cứ áp dụng với mục đích của tam giam…
Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam được quy định trong luật làm cơ sở cho việc thống nhất trong nhận thức và thống nhất trong áp dụng pháp luật, đồng thời thể hiện sự phát triển của khoa học lập pháp tố tụng hình sự nước ta. Tuy nhiên, nội dung các căn cứ tạm giam quy định trong BLTTHS còn có những bất hợp lý, thiếu sót như căn cứ tạm giam chưa phản ánh được bản chất, mục đích của biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng. Xét về bản chất thì tạm giam là biện pháp ngăn chặn chứ không phải là biện pháp trừng phạt. Vì vậy, việc áp dụng phải xuất phát từ yêu cầu ngăn chặn chứ không phải từ yêu cầu trừng trị; Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cao hay thấp, mức hình phạt mà can phạm có thể phải chịu là vấn đề cần phải làm rõ, là yêu cầu cần phải đạt được trong các giai đoạn hoạt động tố tụng.
Thực tế áp dụng pháp luật đặt ra một số trường hợp rất khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc vận dụng áp dụng biện pháp tạm giam, đó là:
+ Có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tự sát. Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, không có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội trốn tránh pháp luật nhưng lại có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tự sát, cần phải ngăn chặn việc người đó tự sát. Việc coi bị can, bị cáo tự sát là trường hợp gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc là hành động trốn tránh pháp luật để áp dụng biện pháp tạm giam, theo chúng tôi là không hợp lý vì không phù hợp với mục đích của biện pháp tạm giam.
+ Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội gây căm phẫn đối với người bị hại, gia đình, người thân của người bị hại hoặc gây căm phẫn trong nhân dân có thể dẫn đến việc quần chúng tự phát xử lý người phạm tội. Ví dụ như vụ Nguyễn Văn Hải, phường Tân Hưng, quận 7, TP. HCM bị tạm giam về tội cố ý làm trái, nhận hối lộ, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị bắt để tạm giam, sau đó được Viện Kiểm sát nhân dân TP. HCM cho tại ngoại bị quần chúng phản đối, 1 ngày sau khi cho tại ngoại lại bắt để tạm giam
+ Trường hợp bị can có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình và của đồng bọn có thể bị đồng bọn đe dọa gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng để bịt đầu mối, để răn đe bị can, bị cáo trong việc khai báo sự thật về hành vi phạm tội của chúng, theo chúng tôi cần bảo vệ bị can, bị cáo.
Có ý kiến cho rằng đối với các trường hợp trên để bảo vệ bị can, bị cáo, ngăn chặn hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của bị can, bị cáo, cần thiết phải tạm giam đối với họ. Theo chúng tôi đối với các trường hợp trên không thể tạm giam đối với bị can, bị cáo, vì nó không phù hợp quy định về biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay vấn đề bảo vệ bị can, bị cáo đang gặp khó khăn vì chưa được quy phạm hóa, chưa có cơ chế thực hiện, thì ý kiến trên cũng có yếu tố hợp lý.
Ngoài ra đối với người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, theo Điều 83, khoản 2 BLTTHS năm 2003 quy định việc cơ quan điều tra nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, trước khi giao người bị bắt cho cơ quan đã ra lệnh truy nã nếu xét thấy không thể giao ngay người bị bắt cho cơ quan đã ra quyết định truy nã thì áp dụng biện pháp tạm giữ. Cơ quan đã ra quyết định truy nã, sau khi nhận được thông báo về việc đối tượng mà mình truy nã đã bị bắt thì phải ra lệnh tạm giam và gửi cho cơ quan điều tra đã nhận người bị bắt. Theo quy định này thì người bị bắt theo quyết định truy nã có thể bị áp dụng đồng thời hai biện pháp ngăn chặn, đó là biện pháp tạm giữ (do cơ quan điều tra nhận người bị bắt áp dụng) và biện pháp tạm giam (do cơ quan đã ra quyết định truy nã áp dụng). Theo chúng tôi đối với người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, không nên tạm giữ đối với họ, vì thời hạn tạm giữ quá ngắn, trường hợp nơi họ bị bắt quá xa nơi ra lệnh truy nã họ, có thể không đủ thời gian để cơ quan điều tra nhận người bị bắt thông báo cho cơ quan ra lệnh truy nã về việc bắt và cơ quan đã ra lệnh truy nã tiếp nhận người bị bắt. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ, đồng thời quy định rõ thời hạn tạm giam đối với người bị bắt trong trường hợp này. Vì họ là người đang bị truy nã nên họ phải là bị can, bị cáo hoặc người đang thi hành hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật và việc họ bị truy nã chứng tỏ có căn cứ cho rằng cần phải cách ly họ khỏi xã hội trong một thời gian nhất định. Việc họ trốn, dẫn đến phải truy nã đã thể hiện căn cứ tạm giam đối với họ.
Một là, tại điểm a khoản 1 Điều 88 chưa phải là căn cứ đầy đủ để áp dụng BPNC tạm giam. Khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội có thể là một trong số những vẫn đề được người thực hiện hành vi phạm tội cân nhắc khi quyết định bổ trốn hay không bỏ trốn nhưng không hề suy diễn rằng mọi bị can, bị cáo đều lựa chọn biện pháp bổ trốn khi biết mình có thể phải chịu mức hình phạt cao. Không ít bị can, bị cáo khi phát hiện có dấu hiệu tôi phạm thì ăn năn hối hận, thành khẩn khai báo để được nhận chính sách khoan hồng. giảm nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật. Có những trường hợp tuy phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng nhưng là với lỗi đột xuất, không dự mưu do nhất thời không làm chủ được mình… có những trường hợp là bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng về sau lại được thay đổi với tội nhẹ hơn. Trong trường hợp này việc áp dụng BPNC với họ liệu có thiếu căn cứ?. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi cao hay thấp, mức hình phạt mà bị can, bị cáo có thể phải chịu và vấn đề cần được làm rõ, là yêu cầu cần đạt tới trong giai đoạn hoạt động tố tụng nhưng không thể là căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam, căn cứ ấy phải là những căn cứ có thật, có khả năng dự báo việc xảy ra bỏ trốn chứ không thể là căn cứ suy diễn.
Hai là, có mâu thuẫn trong quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 và khoản 2 Điều 88. Điểm b khoản 1 Điều 88 cùng loại với hai căn cứ “bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã” và “được áp dụng biện pháp ngăn chặn …cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử”được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 88. Nếu như ở điểm b khoản 1 Điều 88 còn phải thỏa mãn căn cứ “Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trờ điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tực phạm tội” như là điều kiện cần thì ở điểm a, b khoản 2 bị can, bị cáo phạm bất cứ loại tội nào cũng có thể bị tạm giam. Tức là căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam của một số dối tượng đáng được hưởng chính sách đặc biệt thì lại được mở rộng hơn các đối tượng bình thường. BLTTHS dùng phân loaị tội phạm và mức hình phạt để làm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam như trên chưa thống nhất, phù hợp với các đối tượng khác nhau. Căn cứ theo khoản 1 Điều 88 thì chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan tiến hành, người tiến hành tố tụng không thể khẳng định loại tội mà bị can, bị cáo phạm được hay mức hình phạt như thế nào.
Hiểu như thế nào là “Bộ luật hình sự quy định mức khung hình phạt là trên hai năm”?. Vậy thì những bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt ghi rõ trên hai năm hay cả những bị can bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt có mức cao nhất trên 2 năm cũng thuộc đối tượng này?. Có ý kiến cho rằng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng quy định mức cao nhất chỉ đến hai năm thì không được áp dụng biện pháp tạm giam. Như vậy đối với những bị can, bị cáo mà ngoan cố thì quan điểm này không hợp lỹ mà vẫn cần phải áp dụng.
Đó là những hạn chế của Điều 88 tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những ưu điểm mà nó mang lại: Nhờ có quy định này mà tính pháp chế được nâng cao, giảm thiểu tình trạng tội phạm thuộc các trường hợp đặc biệt trên lợi dụng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm. Viêc quy định biện pháp tạm giam đã đem lại những hiệu quả nhất định trong việc phát hiện, đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Điều 88 BLTTHS năm 2003 có sự sửa đổi quan trọng là thay thế “phụ nữ đang thời kì nuôi con dưới mười hai tháng” của Điều 70 BLTTHS năm 1988 bằng “ phụ nữ đang nuôi con dưới ba sáu tháng tuổi”. Đây là sửa đổi mang tính nhân đạo sâu sắc.
Ba là. một số quy định của BLTTHS tuy không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn có thể hiểu lầm là căn cứ áp dụng BPNG trong các giai đoạn tố tụng là khác nhau. Đó là các quy định tại đoạn 3 Điều 177, khoản 1 Điều 288, khoản 2 và khoản 3 Điều 243, khoản 5 Điều 250, đoạn 2 Điều 287.
Ngoài ra Điều 88 cũng chưa có quy định một trong số căn cứ tạm giam là người bị bắt theo lệnh truy nã.
Chính vì thế nên Điều 88 cần sửa đổi và bổ sung như sau:
“Điều 88: tạm giam
1. Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án khi có một trong số các căn cứ sau đây:
a. Bị can, bị cáo đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà vi phạm dẫn đến không đạt được mục đích của việc áp dụng.
b. Bị can, bị cáo, người bị kết án bị bắt theo lệnh truy nã;
c. Bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm mà xét thấy có thể phải chịu hình phạt tù và không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, trừ trường hợp được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm;
d. Bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị khởi tố, truy tố, xét xử đối với tội phạm đặc biệt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn tố tụng hình sự về tạm giam, 9 điểm.doc