Giai đoạn trước 1990: Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tỷ giá cố định bất hợp lý, chế độ đa tỷ giá.
* Trước 1986: Chúng ta chủ yếu xác lập tỷ giá giữa VNĐ với Rúp Nga và với đồng Rúp chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối SEV).
* 1986 – 1990: Bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì xuất hiện luồng ngoại tệ Đô la Mỹ (USD) vào ra Việt Nam. Cũng từ đó, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường USD đã bắt đầu bộc phát một cách mạnh mẽ từ các dòng kiều hối của kiều bào về nước, lượng lớn USD cất trữ từ khi giải phóng Miền Nam, và dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới. Mức tỷ giá hối đoái được hình thành và vận động theo những tín hiệu của quy luật thị trường và đã có một sự chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, đặc biệt là vào năm 1988 ( tỷ giá chính thức thấp hơn thị trường là 400%).
=> Điều này dẫn đến việc các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho Ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở Ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào sử dụng hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường.
Do đó, cơ chế tỷ giá thời kỳ này đã trở thành 1 yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường tự do.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận các biện pháp bình ổn tỷ giá ( liên hệ Việt Nam), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng nội tệ về. Điều này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.Những hạn chế Tuy nhiên, cách làm này cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả.
Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định.
Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo ( hạ xuống chẳng hạn).
Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều.
Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai ví dụ điển hình trong lịch sử.Một là, trước thế chiến 2, Anh là một trong những nước điển hình về việc sử dụng lãi suất chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và đã thu được nhiều kết quả đáng kể, do nền kinh tế và tiền tệ nước Anh lúc đó khá ổn định.Hai là, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví dụ. Tổng thống Mỹ Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ mất giá. Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước.
Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau, thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đồng thời, can thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa.
Liên hệ ở Việt Nam
Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam) và tăng mức lãi suất của đồng nội tệ … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác, trong đó Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giới hạn lãi suất tiền gửi bằng USD ở mức 1%, khi VND đang có lãi suất tiền gửi ở mức 10,49%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ. Chúng ta có thể thấy rõ hơn sự biến động của tỷ giá qua diễn biến lãi suất cơ bản từ đầu năm 2008 đến nay:
Diễn tiến lãi suất cơ bản
Trước 1/2/2008
8,25%
Từ 1/2/2008 đến 19/5/2008
8,75%
Từ 19/5/2008 đến 11/6/2008
12%
Từ 11/6/2008 đến 21/10/2008
14%
Từ 21/10/2008 đến 5/11/2008
13%
Từ 5/11/2008 đến nay
12%
2. chính sách thương mại quốc tế
Thuế quan
Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu hoặc thuế xuất-nhập khẩu là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đó là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu.
Thuế quan cao làm hạn chế sự nhập khẩu ,nhập khẩu giảm làm cầu ngoại tệ giảm kết quả làm cho nội tệ lên giá.
khi thuế quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại.
Hạn ngạch
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng là quy định của một nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập từ một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép
Tác dụng làm hạn chế nhập khẩu , cầu ngoại tệ giảm kết quả làm cho nội tệ lên giá . Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu làm cho cầu ngoại tệ tăng , đồng nội tệ giảm giá.
Giá cả
Thông qua hệ thống giá cả, Chinh phủ có thể trợ giá giúp cho các mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Kích thích xuất khẩu tăng làm cung ngoại tệ tăng, đồng nội tệ lên giá
Mặt khác, Chính phủ cũng có thể bù giá cho 1 số mặt hàng NK thiết yếu. kết quả là nhập khẩu tăng đồng nội tệ giảm giá
tác động vào sự chuyển dịch của luồng vốn
phá giá tiền tệ
1. Phá giá tiền tệ là gì ?
Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá đồng Việt Nam (VND) nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD,EUR…2. Tác động của việc phá giá tiền tệ:
Trong ngắn hạnKhi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi.Trong trung hạnGDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau:- Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.- Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước.Trong dài hạnNếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính thắt chặt có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm.3.Chính phủ phải phá giá tiền tệ vì:- Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.- Trong trường hợp cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ.
Sản lượng tiềm năng là sản lượng mà nền kinh tế tạo ra khi các đầu vào được sử dụng đầy đủ.
Sản lượng tiềm năng có xu hướng tăng lên theo thời gian do cung về các đầu vào tăng.
Sản lượng tiềm năng không phải là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất được.
Trong chương này, chúng ta xây dựng một mô hình đơn giản về tác động hổ trợ giữa các hộ gia đình và giữa các hãng.
Phá giá 2% tiền đồng bắt dầu từ ngày 18/8
Nguyên nhân chính để phá giá không phải từ nhập siêu
Nếu chỉ nhìn vào thâm hụt cán cân thương mại các tháng gần đây thì cũng chưa có gì đáng lo ngại lắm đến tỷ giá. Nhập siêu 7 tháng đầu năm là 7,26 tỷ USD, trong khi các nguồn tài trợ (FDI, FII, kiều hối, vay nợ ODA) có vẻ như vẫn dồi dào để tài trợ được nhập siêu, theo đó, cán cân thanh toán ước thặng dư 3,4 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm. Vậy tại sao vấn để tỷ giá lại trở nên căng thẳng trong suốt thời gian qua?
Bản chất của vấn đề là với một nền kinh tế có tỷ lệ đô la hóa cao như ở Việt Nam, tỷ giá không chỉ phụ thuộc vào các dòng ngoại tệ ra vào nền kinh tế, mà còn phụ thuộc rất lớn vào bản thân sự dịch chuyển và cung cầu ngoại tệ ngay bên trong nền kinh tế. Và trong trường hợp này, nó đã khiến NHNN phải thay đổi tỷ giá để giảm căng thẳng trên thị trường.
Sau đợt phá giá tiền đồng vào tháng 2, thị trường ngoại hối có vẻ như khá yên ả, tỷ giá liên ngân hàng được giữ nguyên, chênh lệch tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá NHTM thu hẹp, trạng thái ngoại tệ của các NH luôn ở mức thặng dư. Nhưng dưới sự bình lặng đó, là cơn sóng âm ỉ manh nha từ đầu quý 3, xuất phát từ tăng trưởng dư nợ ngoại tệ tăng đột biến kể từ đầu năm, các doanh nghiệp chấp nhận rủi ro về tỷ giá, vì không thể chịu nổi lãi suất tiền đồng quá cao. Trong 7 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ lên tới 34,4%, so với 8.4% dư nợ tiền đồng. Nhưng bản thân doanh nghiệp cũng tự đề phòng bằng cách vay với kỳ hạn ngắn (3-6 tháng), theo đó, từ tháng 7, nhu cầu trả nợ vay USD khi đến thời điểm đáo hạn tăng cao, gây sức ép lớn đến cầu ngoại tệ. NHNN bắt đầu lo lắng, và từ giữa tháng 6 đã phải kiểm soát chặt tín dụng ngoại tệ.
Nhưng NHNN lo lắng một, doanh nghiệp lo lắng mười. Các doanh nghiệp chưa hoặc không có nguồn thu ngoại tệ đôn đáo thu gom USD đề phòng khan hiếm ngoại tệ, các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ thì không muốn bán ngoại tệ cho NH do e ngại không thể mua lại nếu có nhu cầu vào cuối năm. Mất cân đối cung cầu USD, nguyên nhân từ cách ứng xử của các thành phần kinh tế đối với ngoại tệ, được dung dưỡng bởi tình trạng đô la hóa cao của nền kinh tế và cách quản lý còn chưa hiệu quả của cơ quan quản lý đã khiến thị trường ngoại hối trở nên rất căng thẳng. Và đương nhiên, giải quyết bằng điều chỉnh tỷ giá là lựa chọn duy nhất ở thời điểm hiện tại để khơi thông hơn các luồng ngoại tệ trong nước, tránh ảnh hưởng bất lợi đến ổn định vĩ mô của nền kinh tế.
Khó kiềm chế được nhập siêu như thông báo chính thức của NHNN
Với mức độ và quy mô phá giá như lần này của NHNN, hầu như sẽ ít tác động đến vấn đề nhập siêu của nền kinh tế. Nhập siêu ở Việt Nam vẫn là một yếu tố mang tính cơ cấu của nền kinh tế, khi phần lớn các hàng hóa nhập khẩu đều là máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Nghiên cứu về điều kiện Marshall-Lerner tại Việt Nam cho thấy không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa sự giảm giá tiền đồng với việc giảm khối lượng nhập khẩu từ nước ngoài. Nguyên nhân là do hệ số co giãn nhập khẩu của Việt Nam rất thấp, và tác động của tỷ giá lên giá nhập khẩu hàng hóa có một độ trễ nhất định (từ 3-9 tháng). Vì thế, tiền đồng bị phá giá ở mức độ 2% hầu như không ảnh hưởng đến khối lượng nhập khẩu, trong khi kim ngạch nhập khẩu còn có thể gia tăng do giá hàng hóa nhập khẩu đắt hơn.
Trong khi đó, cần phải phá giá ở mức độ cao hơn nữa mới có thể làm cho hàng hóa Việt Nam có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, và theo đó tăng mạnh được kim ngạch xuất khẩu. Sau một số năm lạm phát tăng thường xuyên, cao hơn nhiều so với tốc độ mất giá của tiền đồng, hiện nay tỷ giá danh nghĩa đang rời xa tỷ giá thực, khiến đồng Việt Nam thực tế đang được định giá khá cao khoảng 12%, ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh thương mại quốc tế của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tác động không quá lớn, ngoại trừ làm quá trình giảm lãi suất gặp thêm khó khăn
Tác động của đợt phá giá tiền đồng lần này sẽ không quá lớn, ngoai trừ có thể khiến việc giảm mặt bằng lãi suất trở nên khó khăn hơn. Tiền đồng chính thức mất giá sẽ gây ra những biến động tâm lý cho người dân. Nếu như trước đây, tỷ giá ổn định, chênh lệch lãi suất tiết kiệm tiền VND và USD lên đến 6-7%, người dân có xu hướng gửi tiết kiệm tiền đồng thay vì tiền USD. Trong 7 tháng đầu năm, huy động tiền VND lên đến 19.4% trong khi huy động USD giảm 2.4%. Nhưng với đợt mất giá tiền đồng 2% này, chênh lệch lãi suất không còn quá hấp dẫn, người dân có thể thay đổi hành vi, nắm giữ USD nhiều hơn, và theo đó, tăng trưởng huy động tiền đồng sẽ bị ảnh hưởng, lãi suất vì thế cũng khó giảm hơn. Kỳ vọng lạm phát tăng cũng là nguyên nhân khiến cho mặt bằng lãi suất vốn đã khó giảm xuống, nay lại càng khó hơn.
Lạm phát cũng sẽ bị ảnh hưởng, thông qua kênh nhập khẩu các đầu vào của nền kinh tế, từ đó gia tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, cũng như gia tăng giá các hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu. Tuy nhiên, động thái tăng tỷ giá lần này cũng chỉ là hợp thức hóa việc tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp từ hơn một tháng nay. Các DN ít khi mua được USD với giá các NHTM niêm yết, mà thường phải trả thêm phí, hoặc phải mua giá cao ở TT tự do. Vì thế, yếu tố tăng tỷ giá có thể đã được phản ánh qua giá cả và lạm phát tháng 8, và do đó, ở những tháng kế tiếp, tác động sẽ không còn quá lớn.
Các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ gia tăng. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2009, nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm 39% GDP, trong đó, vay nợ bằng đồng USD chỉ chiếm 16.61%, còn lại là đồng Yên (chiếm 41.96%) và các đồng tiền khác. Vì thế tỷ giá tăng 2% không có tác động nhiều đến khoản nợ vay nước ngoài. Chính cơ cấu đồng tiền vay khá đa dạng đã khiến nợ quốc gia Việt Nam giảm thiểu được khá nhiều rủi ro về tỷ giá.
Bên cạnh những tác động tiêu cực nhưng không quá lớn nêu trên, việc giảm giá nhẹ VND thực ra lại là bước đi phản ánh đúng hơn giá trị thực của tiền đồng, làm cho thị trường ngoại tệ được thông suốt hơn, chênh lệch tỷ giá tự do và tỷ giá NHTM có thể được rút ngắn trở lại, và ít gây tâm lý hoang mang cho người dân. Tăng tỷ giá còn khiến cho dư địa chính sách tiền tệ rảnh rang hơn, hỗ trợ thêm cho NHNN tăng cường tác động đến thị trường để hỗ trợ giảm lãi suất. Đồng Việt Nam giảm giá cũng kích thích các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục và tăng cường đầu tư giải ngân, đóng góp thêm vào cán cân thanh toán, tài trợ bổ sung cho thâm hụt thương mại.
Sức ép tỷ giá vẫn còn tiếp tục cho đến cuối năm
Sức ép đối với tỷ giá có lẽ là bài toán chưa có lời giải trọn vẹn. Việc phá giá tiền đồng 2% ở thời điểm này chỉ có thể làm nhẹ đi tạm thời căng thẳng trên thị trường ngoại hối, còn rủi ro tỷ giá vẫn tồn tại và có thể tăng cao hơn nữa vào cuối năm.
Bản chất của vấn đề là tiền đồng vẫn bị định giá cao, và vì thế luôn luôn có sức ép giảm giá. Từ năm 2004, mặc dù tỷ giá danh nghĩa luôn có xu hướng tăng, nhưng mức độ mất giá quá thấp so với tỷ lệ lạm phát cao, tỷ giá thực tế (REER) VND lại có xu hướng giảm, tiền đồng thực tế lên giá quá cao. Tính đến cuối năm 2009, VND đã lên giá thực tế 12% so với đồng tiền của các đối tác thương mại chính, nếu so sánh với năm gốc 2000. Từ đầu năm 2010 cho đến nay, tiền đồng đã chính thức giảm giá 5.3%, trong khi lạm phát vẫn ở mức cao tương đối so với thế giới, đồng VND tiếp tục bị định giá cao khiến cạnh tranh thương mại của Việt Nam bị suy giảm, nhập siêu vì thế đã tăng mạnh, đặc biệt là 3 năm trở lại đây, và theo đó, vẫn gây sức ép giảm giá tiền đồng.
Bên cạnh vấn đề nhập siêu vẫn chưa thể giải quyết triệt để, áp lực đến giá trị VND vẫn còn tồn tại, do đợt thay đổi tỷ giá lần này vẫn không làm thay đổi được bản chất cung cầu các dòng ngoại tệ trong nội tại nền kinh tế đã hiện diện từ quý 3, như là hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng ngoại tệ quá nóng ở thời điểm 2 quý đầu năm. Và chắc chắn, vấn đề tỷ giá từ nay cho đến cuối năm sẽ trở thành trung tâm chú ý của thị trường, thay cho lạm phát của những tháng đầu năm.
quỹ bình ổn tỷ giá:
Dự trữ ngoại hối
* Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được thể hiện trong bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước.
* Dự trữ ngoại hối nhà nước bao gồm :
- Ngoại tệ tiền mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài;
- Hối phiếu và các giấy nhận nợ của nước ngoài bằng ngoại tệ;
- Các chứng khoán nợ do Chính phủ, ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ hoặc ngân hàng quốc tế phát hành, bảo lãnh;
- Vàng tiêu chuẩn quốc tế;
- Các loại ngoại hối khác.
* Nguồn hình thành:
- Ngoại hối hiện có thuộc sở hữu của Nhà nước do Ngân hàng Nhà nước quản lý;
- Ngoại hối mua từ ngân sách nhà nước và mua từ thị trường ngoại tệ và thị trường vàng trong nước;
- Ngoại hối từ các khoản vay ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế;
- Ngoại hối từ các nguồn khác.
* Quản lý dự trữ ngoại hối: Dự trữ ngoại hối nhà nước được lập thành hai quỹ :
- Quỹ dự trữ ngoại hối: nhiệm vụ chính là đảm bảo diều hoà nguồn ngoại hối và phát triển quy mô quỹ dự trữ.
- Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng: được sử dụng là công cụ của NHNN để can thiệp vào thị trường ngoại tệ và thị trường trong nước.
2. Hoạt động của Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng:
NHNN sử dụng nguồn ngoại hối dự trữ để phục vụ cho việc điều hành tỷ giá thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá xuất phát từ thị trường, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu, do vậy để giữ tỷ giá ổn định hoặc điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu nào đó, NHNN sẽ điều chỉnh cung hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào; sự can thiệp này cần phải có sự chính xác về thời điểm can thiệp, loại ngoại tệ can thiệp, tỷ giá can thiệp, số lượng ngoại tệ can thiệp, hình thức can thiệp.
* Ưu điểm:
Rõ ràng nhất là NHNN có thể điều chỉnh tỷ giá một cách tích cực, linh hoạt, tự nhiên.
* Nhược điểm:
- Một nhược điểm dễ thấy nhất là nghiệp vụ này đòi hỏi ngoại hối phải được quản lý tập trung từ các nguồn khác nhau vào một đầu mối duy nhất là NHNN, do vậy hiệu quả của công cụ phụ thuộc vào khả năng của quỹ dự trữ ngoại hối.
- Việc điều hành tỷ giá như thế nào trong từng thời kỳ thường là sự kết hợp hi sinh của các mục tiêu kinh tế vĩ mô chẳng hạn như lạm phát, nền kinh tế hướng nội hay hướng ngoại do vậy việc xác định chính xác mức độ can thiệp để thực sự có hiệu quả là một vấn đề khó.
3. Liên hệ Việt Nam: Về khả năng của nguồn dự trữ ngoại hối và khả năng bình ổn tỷ giá:
Giai đoạn trước 1990: Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tỷ giá cố định bất hợp lý, chế độ đa tỷ giá.
* Trước 1986: Chúng ta chủ yếu xác lập tỷ giá giữa VNĐ với Rúp Nga và với đồng Rúp chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối SEV).
* 1986 – 1990: Bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì xuất hiện luồng ngoại tệ Đô la Mỹ (USD) vào ra Việt Nam. Cũng từ đó, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường USD đã bắt đầu bộc phát một cách mạnh mẽ từ các dòng kiều hối của kiều bào về nước, lượng lớn USD cất trữ từ khi giải phóng Miền Nam, và dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới. Mức tỷ giá hối đoái được hình thành và vận động theo những tín hiệu của quy luật thị trường và đã có một sự chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, đặc biệt là vào năm 1988 ( tỷ giá chính thức thấp hơn thị trường là 400%).
=> Điều này dẫn đến việc các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho Ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở Ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào sử dụng hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường.
Do đó, cơ chế tỷ giá thời kỳ này đã trở thành 1 yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường tự do.
Giai đoạn 1990 – nay: Chúng ta đã thiết lập hệ thống tỷ giá điều chỉnh theo tín hiệu thị trường
* 1990 -1992: Sự “thả nổi” tương đối mạnh trong vận động tỷ giá
- Trong thời kỳ này, tỷ giá trên thị trường biến động mạnh, đặc biệt cú sốc năm1991 (1USD=13000VNĐ) nhưng cũng không thể cải thiện đáng kể tình hình cán cân thương mại ngay.
- Hệ thống các tổ chức tín dụng bất ổn, hơn nữa, trong giai đoạn này nguồn thu ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ làm cho dự trữ ngoại tệ của quốc gia tăng chậm hoặc không tăng.
* 1992 – 1997: Xu hướng cố định tỷ giá (tỷ giá chính thức với biên độ giao động)
- Mục tiêu thiên về “hướng nội”, nổi bật là khuyến khích tích lũy giá trị dưới dạng nội tệ hơn là ngoại tệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện NK máy móc thiết bị kỹ thuật
=> Cải thiện mạnh mẽ nguồn dự trữ ngoại tệ (1992).
- Tuy nhiên, vào cuối giai đoạn này VNĐ bị đánh giá quá cao một cách giả tạo so với USD. Tình trạng này đã gây thâm hụt lớn cán cân vãng lai ( khoảng 13 -16% GDP năm 1995, 1996), nợ nước ngoài gia tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu… dẫn đến việc không thể thực hiện được mục tiêu cân bằng ngoại tệ.
- Từ năm 1994, sự thay đổi cơ bản trong cơ chế điều hành tỷ giá với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và khuyến khích các NHTM tích cực tham gia vào thị trường ngoại tệ (Quyết định số 245/QĐ-NH7 03/10/1994). Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cho thấy sự chú trọng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách tăng mạnh quỹ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ bình ổn giá. Những đổi mới này đã phần nào xóa đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý ngoại tệ từ đó ổn định tỷ giá.
* Giai đoạn sau khủng hoảng (1999) - nay: tỷ giá linh hoạt có điều tiết
Trong những năm gần đây, thâm hụt cán cân vãng lai đã được thu hẹp đáng kể bởi có sự gia tăng trong hạng mục chuyển giao đơn phương mà chủ yếu là lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng tăng. Mặt khác dòng vốn đầu tư chảy vào VN ngày càng tăng từ nhiều kênh khác nhau đã phần nào tài trợ cho thâm hụt cán cân thương mại và do vậy dự trữ ngoại hối tăng lên (Có thời điểm dự trữ đã lên đến hơn 12 tuần nhập khẩu).
- Cùng với cơ chế điều hành tỷ giá mới, hoạt động của quỹ bình ổn giá cũng góp phần vào việc ổn định tỷ giá, kéo sát tỷ giá quy định với tỷ giá thị trường với biên độ giao động hiện nay là 2%, bên cạnh đó, với chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay, tỷ giá cũng đã được điều hành theo xu hướng giảm nhằm mục tiêu kiểm soát nhập siêu, kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện ổn định phát triển kinh tế.
- Bên cạnh đó, điều hành tỷ giá bằng việc can thiệp vào thị trường ngoại tệ ở VN vẫn chưa thực sự là một công cụ được sử dụng hữu hiệu, là vì:
Quản lý ngoại hối còn nhi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 328_bien_phap_binh_on_ty_gia.doc