MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Nội dung .1
I. Khái niệm và đặc điểm chung của công ty hợp danh .1
1.1 Khái niệm của công ty hợp danh .1
1.2 Đặc điểm của công ty hợp danh. 1
II. Các quy định về công ty hợp danh 6
2.1 Bản chất pháp lý của công ty hợp danh .6
2.2 Quy chế thành viên trong công ty hợp danh 7
2.3 Vốn góp trong công ty hợp danh 11
2.4 Cơ cấu và tổ chức quản lý trong công ty hợp danh .12
2.5 Giải thể và phá sản công ty hợp danh 14
Kết luận
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2245 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuận hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm. Ngoài ra các thành viên hợp danh cần có chứng chỉ hành nghề (ví dụ thẻ luật sư, thẻ kiểm toán viên) đối với những dịch vụ cần có chứng chỉ và các điều kiện hành nghề khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (khoản 5 điều 17 LDN). Hồ sơ, thủ tục thành lập công ty hợp danh được quy định trong Luật doanh nghiệpvà Nghị định 43/2010 của Chính Phủ về đang ký kinh doanh.
Thành viên công ty hợp danh:
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật nước ta thì công ty hợp danh có thể là công ty chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh. Cũng có thể công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty. Điều này khác với quan niệm của các nhà làm luật ở nước ngoài. Như đã nói ở trên, công ty hợp danh là công ty đối nhân điển hình. Tất cả các thành viên đều chịu trách nhiệm trực tiếp, liên đới và vô hạn về các khoản nợ của công ty. Nếu các thành viên thỏa thuận khác, chẳng hạn có một thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn thì lập tức công ty sẽ không còn là công ty hợp danh nữa mà chuyển thành hình thức công ty khác. Việc các nhà làm luật ở nước ta quy định công ty hợp danh có hai loại thành viên dẫn tới một điều không hợp lý là: “khi công ty hợp danh có hai loại thành viên - một là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với nhau và một thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình - ra đời và hoạt động thì khách hàng, những người có làm ăn quan hệ với công ty, sẽ phải tìm hiểu rõ thành viên nào chịu trách nhiệm hữu hạn và thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn để giao dịch và đòi nợ. Bởi vì, thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty. Khách hàng không có quyền đòi thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trả toàn bộ số nợ cho mình, nếu số nợ đó lớn hơn phần vốn góp của thành viên này. Đây là điểm yếu của quy định pháp luật Việt Nam, với quy định như này thì vấn đề gặp rủi ro của khách hàng khi làm ăn với công ty sẽ cao hơn, hay nói cách khác là nhà làm luật đã đẩy rủi ro về phía khách hàng nhiều hơn.
Ta thấy luật quy định thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân chứ không thể là pháp nhân vì trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn, trách nhiệm này chỉ có cá nhân mới có thể đảm nhiệm được còn pháp nhân thì vấn đề này rất khó thực hiện. Đây là quy định rất đúng của luật. Còn với thành viên góp vốn thì luật quy định đó có thể là pháp nhân hoặc là cá nhân hoặc cả những người được quy định tại Điều 13 trừ cán bộ, công chức được quy định trong pháp lệnh cán bộ, công chức. Còn thành viên hợp danh thì phải tuân theo Điều 13 của luật doanh nghiệp 2003.
Chế độ chịu trách nhiệm:
Như đã nói ở trên thì công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty. Còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm theo phần vốn góp của thành viên đó vào công ty. Tuy nhiên, những quy định về thành viên góp vốn có sự mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa điểm c Khoản 1 Điều 130 với Khoản 3 Điều 131 và Khoản 2 Điều 140. Điểm c Khoản 1 Điều 130 quy định rằng thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 131 thì quy định trường hợp thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó với công ty. Tại Khoản 2 Điều 140 quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Như vậy khi xảy ra tranh chấp thật khó xác định, việc xác định ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước. Song theo tôi nên quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Phát hành chứng khoán.
Theo quy định của luật doanh nghiệp tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh và các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế lý do này chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Do vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của loại hình công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh.
Tư cách pháp lý của công ti.
Nếu như Luật doanh nghiệp năm 1999 không quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân thì đến Luật doanh nghiệp năm 2005, các nhà làm luật đã quy định điều này. Với tư cách pháp lý này, công ty hợp danh thuận lợi hơn trong các quan hệ pháp luật và cũng phải chịu những trách nhiệm như các pháp nhân khác. Các nhà làm luật đã làm cho công ty hợp danh có tài sản riêng (một trong những yêu cầu của pháp nhân) bằng cách quy định: khi thành viên góp vốn vào công ty thì phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Tuy nhiên, quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân có ổn hay không? Hãy cùng xem xét vấn đề này.
Luật doanh nghiệp năm 2005 thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân trong khi vẫn quy định về chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của ít nhất hai thành viên hợp danh đối với các khoản nợ của công ty là chưa nhất quán với quy định về pháp nhân trong bộ luật. Khoản 3 Điều 84 BLDS quy định pháp nhân không những phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác mà pháp nhân còn phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Theo luật doanh nghiệp khi tài sản của công ty hợp danh không còn đủ để thanh toán thì các thành viên hợp danh phải đem tài sản riêng của mình để thanh toán khoản nợ đến hạn của công ty. Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 93 BLDS quy định: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Bởi vậy, trong trường hợp trên, theo quy định của luật doanh nghiệp thì rõ ràng thành viên pháp nhân đã phải chịu trách nhiệm dân sự thay pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, như vậy là mâu thuẫn với bộ luật dân sự.
Các quy định về công ty hợp danh:
2.1. Bản chất pháp lý của công ty hợp danh:
Cũng như đặc tính chung của tất cả công ty đối nhân, mỗi thành viên trong công ty hợp danh đều có phần của mình trong công ty gọi là phần lợi. Phần lợi của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của họ vào công ty. Vốn góp của các thành viên có thể là tài sản hoặc hiện vật, có khi vốn góp chỉ là uy tín kinh doanh. Nếu một người góp vốn bằng uy tín kinh doanh hay bằng giá trị tinh thần khác thì phần vốn góp đó phải được trị giá bằng tài sản tương ứng. Công ty hợp danh phải hoạt động dưới một hãng chung và đặt tên công ty theo luật định. Hợp danh có nghĩa là kinh doanh dưới một tên chung cho nên tên của công ty phải mang tên ít nhất của một thành viên kèm theo các chữ “và công ty”, “và các con” hoặc “và anh em”…đặt tên cho công ty là để phân biệt công ty này với công ty khác.
Trong công ty hợp danh, tất cả các thành viên hợp danh đều có tư cách thương nhân. Điều này có nghĩa là nếu muốn trở thành thành viên của công ty hợp danh thì cần phải có năng lực cần thiết mà pháp luật quy định để hành nghề kinh doanh. Vì có tư cách thương nhân nên mỗi thành viên hợp danh đều phải ghi tên mình vào sổ thương mại. Nếu công ty bị phá sản thì mỗi thành viên đương nhiên bị công bố phá sản. Sở dĩ như vậy là vì mỗi thành viên đều phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về công việc của công ty, do đó mặc dù công ty là một tổ chức biệt lập nhưng trách nhiệm của công ty cũng đồng nhất với trách nhiệm của mỗi thành viên.
Việc thay đổi thành viên trong công ty hợp danh rất khó khăn, chỉ cần có một thành viên chết hoặc ra khỏi công ty là công ty có thể bị giải thể. Ngược lại, thành viên hợp danh của công ty muốn ra khỏi công ty chỉ có cách xin giải thể công ty hoặc chờ đến ngày công ty hết thời hạn đăng kí. Các thành viên của hợp danh không được chuyển nhượng phần vốn góp của mình trong công ty cho người khác. Sở dĩ có quy định như vậy là bởi bất cứ việc chuyển nhượng phần vốn nào trong bất cứ loại hình công ty nào cũng đều dẫn đến sự thay đổi của các thành viên. Mà việc thay đổi của các thành viên trong công ty hợp danh đều dẫn tới việc giải thể công ty. Chính vì thế mà các nhà làm luật không cho các thành viên hợp danh tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình. Việc quy định này rất có lợi cho công ty hợp danh vì nó tránh được sự xâm nhập của người ngoài vào công ty.
Tuy nhiên việc chuyển nhượng vốn của các thành viên góp vốn không bị cấm và không bị hạn chế. Các thành vên góp vốn giống như một bộ trợ lực cho công ty hợp danh chứ không phải là nguyên nhân để ra đời công ty, vì thế trợ lực đó có thể bị thay đổi mà không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty
2.2. Quy chế thành viên trong công ty
Thành viên hợp danh.
Thành viên hợp danh theo quy định của luật phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải tự mình chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty và phải đáp ứng đủ điều kiện như quy định của Điều 13 luật doanh nghiệp 2005.
Một trong các điều kiện tiên quyết của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh phải là cá nhân. Các đối tượng khác như pháp nhân, tổ chức… không thể trở thành thành viên hợp danh của công ty này vì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Điều này chỉ có cá nhân mới có thể làm còn tổ chức hoặc pháp nhân thì rất khó để thực hiện. Nếu công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thiết kế công trình, kiểm toán, môi giới chứng khoán..thì các thành viên phải có chứng chỉ hành nghề; các trường hợp khác các thành viên hợp danh phải là người được đào tạo về ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Xuất phát từ chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh mà Điều 134 Luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên hợp danh có quyền quyết định các vấn đề của công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Như vậy có thể nói rằng các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có quyền tự điều hành, quản lý công ty, sử dụng tài sản của công ty vào việc kinh doanh nhân danh công ty đến những việc nội bộ khác của công ty cũng như nhận được thông tin về hoạt động kinh doanh của công ty. Có thể nói, trong công công ty hợp danh, các thành viên hợp danh được luật quy định cho các quyền của một chủ công ty thực sự. Đi đôi với quyền là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn mà mỗi thành viên hợp danh phải gánh vác khi thực hiện hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty từ khi đăng ký vào danh sách thành viên của công ty, bất kể là thành viên đó trực tiếp tham gia thực hiện các dịch vụ phát sinh trách nhiệm ấy hay không.
Trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn và liên đới, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm với các nghĩa vụ của công ty ngay từ khi đăng kí trở thành thành viên của công ty, phải chịu trách nhiệm ngay cả khi chưa được hưởng một chút lợi nhuận nào và thậm chí phải chịu trách nhiệm ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên hợp danh với các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động trước khi thành viên đó chấm dứt tư cách thành viên của công ty. Theo Điều 133 của luật doanh nghiệp thì: “ thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của doanh nghiệp tư nhân khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên còn lại”. Quy định này xuất phát từ lý do thành viên hợp danh chỉ có thể chịu trách nhiệm vô hạn một lần, bởi lẽ, một cá nhân thì chỉ có một khối tài sản chung duy nhất, cho nên không thể chịu trách nhiệm vô hạn nhiều hơn một lần. Mặt khác, quy định như vậy là cũng tránh tình trạng giữa bản thân thành viên hợp danh và công ty hợp danh tranh chấp quyền lợi với nhau.
Luật pháp đề cao vai trò của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thông qua việc quy đinh tất cả các thành viên hợp danh của công ty hợp danh đều có tư cách thương nhân. Điều này, có nghĩa là các thành viên hợp danh có quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, song theo Khoản 2 Điều 133 thì thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác mà theo điểm b Khoản 1 Điều 134 thì thành viên hợp danh chỉ được nhân danh công ty để tiến hành các hoạt động thương mại. Như vậy ta có thể thấy mặc dù thành viên hợp danh tuy có tư cách thương nhân nhưng vẫn không được tự do tuyệt đối kinh doanh nhân danh mình hoặc người khác, đây thực sự là một hạn chế của luật doanh nghiệp vì theo tôi thì các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty nên nếu thành viên đó có kinh doanh nhân danh cá nhân mình để kinh doanh thì cũng không dám làm tổn hại đên công ty vì nếu mà làm tổn hại đến công ty thì anh ta cũng phải chịu trách nhiệm vô hạn nên không dại gì mà họ lại làm tổn hại đến lợi ích của mình bằng cách này hay cách khác.
Thành viên góp vốn.
Khác với thành viên hợp danh thì thành viên góp vốn không chỉ là cá nhân mà có thể là tổ chức hoặc pháp nhân trừ cán bộ, công chức theo pháp lệnh cán bộ, công chức hoặc cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang. Cũng khác so với thành viên hợp danh là phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách về các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi vốn đã cam kết góp vào công ty (theo điểm c Khoản 1 Điều 130). Công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp có thể có cả thành viên góp vốn. Sở dĩ luật doanh nghiệp quy định có cả hai loại thành viên là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự liên kết giữa các nhà đầu tư. Luật quy định như vậy cũng chính là tạo điều kiện vật chất cho một công ty hợp danh thực ra đời, bởi vì nếu như một nhóm người hợp danh có thêm một lượng cơ sỏ vật chất nhất định được đóng góp từ những thành viên góp vốn, chắc chắn điều kiện đầu tư sẽ dễ dàng hơn, nâng cao được chất lượng dịch vụ, hàng hóa và quan trọng nhất là thu hút được người sử dụng dịch vụ ngày càng nhiều. Hơn nữa luật doanh nghiệp quy định như vậy “là nhằm triệt để thu hút vốn nhàn rỗi vì có nhiều người có tiền nhưng không có phương hướng kinh doanh hoặc không muốn mạo hiểm trong kinh doanh; việc luật quy định như vậy là mở ra cho họ con đường mới là tìm đến những người có nghề nhưng không có vốn hoặc vốn ít, để hợp nhau lại cùng kinh doanh và những người bỏ vốn sẽ hưởng lợi nhuận trên tỉ lệ vốn góp vào công ty.
Ta thấy luật quy định các thành viên góp vốn có thể là tổ chức, pháp nhân thì như vậy người nước ngoài, tổ chức nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh vì họ không thuộc đối tượng bị cấm. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định cho nhà đầu tư góp vốn vào công ty hợp danh hoàn toàn do các thành viên hợp danh quyết định.
Ngoài các quyền giống thành viên hợp danh là được chia lợi nhuận theo điều lệ công ty, được nhận thông tin cơ bản của công ty và các quyền khác thì thành viên góp vốn cũng có những hạn chế. Hạn chế này được quy định trong Điều 140 của luật này như: chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty, không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành hoạt động kinh doanh trên danh nghĩa công ty…
Luật doanh nghiệp không thừa nhận quyền quản lý công ty hợp danh của các thành viên góp vốn không có nghĩa là không tuân thủ nguyên tắc công bằng giữa các thành viên công ty trong quan hệ với bên ngoài cũng như trong nội bộ công ty. Nhưng trong hoạt động thì công ty cũng phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động của công ty. Những thành viên hợp danh góp vốn bằng cả “chất xám” và sử dụng “chất xám” ấy để sinh lợi nhuận cho nên hơn ai hết họ hiểu được họ cần làm thế nào cho hiệu quả nhất, mặt khác luật doanh nghiệp quy định cho họ một cơ chế trách nhiệm vô hạn nên buộc họ phải cẩn trọng trong kinh doanh. Từ lý do đó, luật trao cho những thành viên hợp danh quyền quản lý, điều hành công ty là hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích cho họ, vừa đảm bảo lợi ích cho công ty. Đối với những thành viên góp vốn, ngoài những nghĩa vụ chung đối với công ty như phải góp đủ vốn, chấp hành điều lệ công ty, nội quy công ty, không được tham gia quản lý công ty thì họ chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty trong phần vốn góp vào công ty. Chính vì thế mà các thành viên góp vốn có thể sẽ không cẩn trọng đến mức tối đa nếu trao quyền quản lý công ty cho họ, việc này sẽ làm tổn hại đến thành viên hợp danh và gia đình họ
2.3. Vốn trong công ty hợp danh.
Vốn góp của công ty hợp danh cũng như các loại hình công ty khác là giống với quy định tại Khoản 4 Điều 4 của luật doanh nghiệp. Tuy nhiên công t yhợp danh là công ty đối nhân nên nó khác với công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn. Với tính chất là công ty đối vốn nên phần vốn góp của công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn chỉ đơn thuần mang tính vật chất như tiền bạc, tài sản, giấy tờ có giá… với công ty hợp danh ngoài yếu tố vật chất còn có cả yếu tố phi vật chất đó chính là danh tiếng, uy tín, chuyên môn nghề nghiệp của thành viên hợp danh. Nói cách khác, phần vốn góp của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh không chỉ bao gồm phần vốn góp nguyên nghĩa của nó mà còn cả yếu tố nhân thân của thành viên hợp danh, và yếu tố này quyết định việc thành lập và hoạt động của công ty hợp danh. Trong công ty hợp danh, về nguyên tắc thì các thành viên hợp danh không được đem phần vốn góp của mình trong công ty để chuyển nhượng cho người khác và khi chết thì phần vốn góp đó cũng không được thừa kế nếu như các thành viên hợp danh khác không đồng ý.
Việc thành lập công ty hợp danh đều căn cứ vào sự tin cậy, quen biết giữa các thành viên hợp danh với nhau. Những người thỏa thuận thành lập công ty hợp danh đều là những người biết rõ về nhau, uy thế cá nhân, khả năng làm việc, khả năng tài chính của nhau. Vì họ phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty nên việc hiểu rõ về nhau như vậy là rất cần thiết. Do vậy nếu chấp nhận một thành viên hợp danh của công ty rút khỏi công ty bằng cách đem phần vốn góp của mình chuyển nhượng cho người khác để người này trở thành viên hợp danh của công ty thì hậu quả sẽ là một người “xa lạ” mà các thành viên hợp danh khác không biết rõ về nhân thân của người này dẫn đến rất khó chấp thuận thành viên đó. Luật quy định như vậy là để đảm bảo sự an toàn cho công ty hợp danh và cả thành viên mới vào.
Là một công ty đối nhân nên công ty hợp danh không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào để huy động vốn trong công chúng. Đây là một quy định hạn chế quyền của công ty hợp danh nhưng nó cũng là một thiết chế tốt để ngăn chặn những người bên ngoài xâm nhập vào công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh có thể tăng vốn điều lệ bằng cách tăng phần vốn góp của các thành viên hợp danh hoặc kết nạp thành viên mới vào công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty.
Tài sản của công ty hợp danh bao gồm tài sản góp vốn của các thành viên đã chuyển nhượng quyền sở hữu cho công ty; tài sản tạo lập được mang tên công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh của các thành viên thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh đã đăng ký của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện; các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Theo Điều 131 của luật doanh nghiệp thì thành viên góp vốn cũng như thành viên hợp danh phải góp đủ số vốn như đã cam kết, nếu không góp đủ thì số vốn còn thiếu đó được coi là khoản nợ của công ty.
2.4. Cơ cấu tổ chức và quản lý trong công ty hợp danh.
Công ty hợp danh theo pháp luật nước ta là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, nên bắt buộc phải có cơ chế quản lý của một pháp nhân, phải có người đại diện cho pháp nhân vì pháp nhân chỉ có thể hoạt động thông qua người đại diện. Theo Điều 135 luật doanh nghiệp 2005 thì “ tất cả các thành viên họp lại thành hội đồng thành hội đồng thành viên, Hội đồng thành viên bầu ra một thành viên hợp danh làm chủ tịch hội đồng thành viên, đồng thời kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc”. Như vậy cơ cấu tổ chức của công ty hợp danh được quy đinh trong luật sẽ bao gồm Hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Trong hội đồng thành viên bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn, điều này đồng nghĩa với việc thành viên góp vốn cũng có quyền tham gia vào việc quyết định các vấn đề của công ty, vì tại Khoản 3 Điều 135 có quy định “ hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả các công việc kinh doanh của công ty”. Tuy nhiên trên thực tế, “các thành viên góp vốn không có quyền quản lí, điều hành công ty mà chỉ được tham gia thảo luận và biểu quyết những vấn đề sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; sửa đổi bổ sung quyền, nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại, giải thể công ty và các vấn đề khác của điều lệ có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ. Vậy có nghĩa là các nhà luật quy định thừa vì trên thực tế các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi vốn góp thôi còn các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn nên thành viên góp vốn không được nhân danh công ty để kinh doanh là đúng. Thành viên góp vốn chỉ được quyền kinh doanh nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác chứ không được nhân danh công ty. Tuy nhiên theo tôi thì các thành viên góp chỉ đóng vai trò như một trợ lực cho công ty và họ được chia lợi nhuận theo tỉ lệ vốn góp vào công ty là đủ chứ không cần kinh doanh những ngành nghề mà công ty đã đăng kí. Vì như vậy sẽ dẫn đến sự hiểu lầm cho khách hàng khi giao dịch với họ và buộc khách hàng phải quan tâm tìm hiểu về công ty và các thành viên của công ty nhiều hơn, và sẽ mất nhiều thời gian hơn.
Việc điều hành kinh doanh của công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh chứ không phải giám đốc hoặc tổng giám đốc. Mặt khác, ta thấy công ty hợp danh là một pháp nhân nên phải có một người đại diện cho pháp nhân tham gia các quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ với pháp luật. Nhưng ta lại thấy trong công ty hợp danh tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền điều hành kinh doanh và theo Khoản 1 Điều 137 thì: “các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức diều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty”. Như vậy ta thấy vai trò của các thành viên hợp danh trong công ty rất lớn, bởi vì họ có quyền quyết định tất cả các vấn đề của công ty. Vai trò của giám đốc hay tổng giám đốc không lớn lắm, họ chỉ làm nhiệm vụ phân công, phối hợp, điều hòa công việc giữa các thành viên hợp danh; đi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh.doc