PHỤ LỤC
Trang
A/ Mở đầu 1
B/ Nội dung 1
I/ Bình luận các quy định về thành viên công ty hợp danh 1
1/ Thành viên hợp danh. 1
2/ Thành viên góp vốn. 5
II/ Quy định về vốn trong công ty hợp danh. 7
III/ Quy định về quản lý giám sát nội bộ công ty hợp danh. 8
IV/ Quy định về thành lập công ty hợp danh. 10
V/ Quy định về giải thể công ty. 11
C/ Kết luận 14
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2233 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận các quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật về cán bộ, công chức;
-Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam;
-Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước;
-Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự;
-Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh;
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, đồng thời phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty. Theo Điều 134 Luật doanh nghiệp 2005, thành viên hợp danh có quyền như một chủ công ty thực sự. Đi đôi với các quyền năng ấy là một chế độ trách nhiệm vô hạn mà loại thành viên hợp danh phải chịu khi thực hiện các hoạt động nhân danh công ty. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty kể từ khi đăng ký vào danh sách thành viên công ty, bất kể thành viên đó có trực tiếp tham gia vào các hoạt động phát sinh đó hay không, trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thỏa thuận khác (khoản 3 Điều 139 Luật doanh nghiệp 2005). Ngay cả khi đã chấm tư cách thành viên công ty hợp danh thì trong thời hạn hai năm, thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên (khoản 5 Điều 138 Luật doanh nghiệp 2005).
Xuất phát từ vai trò quan trọng của thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh cùng với chế độ trách nhiệm vô hạn của loại thành viên này mà pháp luật đã có một số quy định hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh, bao gồm:
-Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại;
-Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
-Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại (Điều 133 Luật doanh nghiệp 2005).
Như vậy, thành viên hợp danh có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại cũng như hoạt động của công ty hợp danh. Điều này cũng lý giải vì sao việc thay đổi thành viên hợp danh lại phải tuân thủ quy định khắt khe của pháp luật. Công ty hợp danh muốn tiếp nhận thêm thành viên hợp danh mới phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.
Theo Điều 138 Luật doanh nghiệp 2005, tư cách thành viên hợp danh chấm dứt trong các trường hợp:
-Tự nguyện rút vốn khỏi công ty. Trước đây, thành viên hợp danh muốn rút ra khỏi công ty là rất hạn chế và khó khăn vì loại thành viên này có vai trò quan trọng trong công ty hợp danh và việc rút ra này kéo theo sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, nhân sự cũng như thay đổi bộ máy quản lý điều hành của công ty hợp danh. Quy định như vậy gây cho các thành viên hợp danh những khó khăn trở ngại trong việc thay đổi môi trường đầu tư kinh doanh, họ không được linh hoạt trong việc thay đổi, chuyển hướng đầu tư vào mô hình có lợi. Luật doanh nghiệp 2005 đã cho phép thành viên hợp danh được quyền tự nguyện rút vốn. Song, việc tự nguyện rút vốn của các thành viên hợp danh cũng chỉ được coi là hợp lệ khi được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.
-Chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Trường hợp này, người thừa kế của thành viên hợp danh bị chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được hội đồng thành viên chấp thuận (điểm h khoản 1 Điều 134 Luật doanh nghiệp 2005). Quy định này cho thấy, người thừa kế của thành viên hợp danh không đương nhiên trở thành thành viên hợp danh mà phải có sự đồng ý của hội đồng thành viên công ty hợp danh thì người thừa kế mới trở thành thành viên hợp danh.
-Bị Tòa án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Khi thành viên hợp danh đã bị Tòa án tuyên bố mất tích thì đương nhiên tư cách thành viên hợp danh của thành viên đó bị chấm dứt. Thành viên hợp danh là người quản lý công ty nên khi bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì tư cách thành viên phải chấm dứt. Trong trường hợp này, phần vốn góp của thành viên đó được hoàn trả công bằng và thảo đáng.
-Bị khai trừ khỏi công ty. Các trường hợp khai trừ thành viên hợp danh được quy định tại khoản 3 Điều 138 Luật doanh nghiệp 2005. Nếu Điều lệ công ty không quy định thì thành viên hợp danh bị khai trừ khi được sự chấp thuận của ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh.
-Các trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định.
Bên cạnh các vấn đề nêu trên, luật pháp một số nước đề cao vai trò và tư cách thành viên hợp danh thông qua việc quy định tất cả các thành viên hợp danh đều có tư cách thương nhân hay thương gia. Nghĩa là họ có quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, nhân danh chính bản than mình hoặc nhân danh công ty hợp danh. Vấn đề này tuy không được đề cập trong Luật doanh nghiệp 1999 cũng như Luật doanh nghiệp 2005 nhưng theo cách tiếp cận của các văn bản này thì chỉ có công ty hợp danh mới được công nhận là chủ thể kinh doanh, được quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh, còn thành viên hợp danh chỉ có quyền đại diện công ty hợp danh để tiến hành các hoạt động kinh doanh vì lợi ích công ty mà thôi. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật doanh nghiệp 2005 cũng quy định, thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Như vậy, có thể hiểu, chỉ có công ty hợp danh mới có tư cách thương nhân theo pháp luật Việt Nam.
Nghiên cứu và phân tích một số vấn đề cơ bản về thành viên hợp danh cho thấy, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có vai trò quan trọng, có quyền quản lý và thực hiện một số hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, đồng thời với quyền hạn đó là chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty hợp danh.
2/ Thành viên góp vốn.
Công ty hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Khác với thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân, các tổ chức cũng có thể trở thành thành viên góp vốn trong công ty hợp danh. Điều kiện để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh cũng đơn giản hơn rất nhiều so với điều kiện để trở thành thành viên hợp danh. Mọi tổ chức, cá nhân đều có thể trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh, trừ các trường hợp sau:
-Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ tranh nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
-Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Thành viên góp vốn trong công ty hợp danh không có quyền tham gia quản lý và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Điều này là hợp lý bởi trong công ty hợp danh, thành viên hợp danh phải gánh chịu chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn. Do đó, mọi kết quả hoạt động kinh doanh của công ty đều ảnh hưởng rất lớn đến loại thành viên này, nếu người quản lý, điều hành không cẩn trọng dẫn đến công ty phá sản thì các thành viên hợp danh rất dễ bị khánh kiệt gia sản. Vì vậy, hơn ai hết, thành viên hợp danh phải có quyền quản lý điều hành công ty. Như vậy, họ sẽ có trách nhiệm và cẩn thận hơn trong công việc kinh doanh của công ty. Ngược lại, thành viên góp vốn là những người chịu trách nhiệm hữu hạn, mọi nghĩa vụ của công ty cho dù thế nào thì họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty mà thôi. Nếu cho loại thành viên này được quyền quản lý cũng như hoạt động nhân danh công ty thì rất có thể sẽ gây ảnh hưởng tới thành viên hợp danh và bê thứ ba giao dịch vì họ sẽ ít cẩn trọng như loại thành viên hợp danh trong công việc. Cũng do tính chất và vai trò này của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh mà pháp luật không buộc họ phải có chứng chỉ hành nghề hoặc phải qua đào tạo về ngành nghề thuộc lĩnh vực hoạt động của công ty.
Ngoài đặc điểm trên thì thành viên góp vốn cũng có một số quyền và nghĩa vụ khác được quy định trong Điều 140 Luật doanh nghiệp 2005, như: quền tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại và giải thể công ty; được chia lợi nhuận tương ứng tỷ lệ vốn góp, quyền được cung cấp các thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của công ty… Ngoài ra, thành viên góp vốn cũng được quyền chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác mà không phải chịu quy chế quản lý khắt khe như đối với thành viên hợp danh.
Qua việc nghiên cứu quy chế thành viên công ty hợp danh chúng ta thấy, công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam hiện hành có hai loại thành viên là thành viên hợp danh với đặc trưng cơ bản là quyền quản lý, điều hành, nhân danh công ty và phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty và thành viên góp vốn với đặc trưng là chế độ trách nhiệm hữu hạn, không có quyền quản lý điều hành công ty.
II/ Quy định về vốn trong công ty hợp danh.
Theo khoản 4 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty.
Công ty hợp danh là một loại hình công ty đối nhân, vì vậy yếu tố nhân thân có vai trò chủ đạo. Do đó, khác với loại hình công ty đối vốn, phần vốn góp vào công ty thường thể hiện dưới dạng vật chất như tài sản, tiền bạc thì đối với công ty hợp danh, phần vốn góp của thành viên hợp danh ngoài yếu tố vật chất đó còn bao gồm cả yếu tố phi vật chất như: uy tín nghề nghiệp, kinh nghiệm, danh tiếng hay bí quyết công nghệ… và những yếu tố này gắn liền với nhân thân của họ. Ngoài loại vốn góp đặc biệt này của thành viên hợp danh thì công ty hợp danh còn có phần vốn góp mang tính truyền thống của thành viên góp vốn. Vốn của các thành viên được tập hợp và ghi vào điều lệ công ty tạo thành vốn điều lệ của công ty. Vốn điều lệ của công ty hợp danh trong một số ngành nghề, theo quy định của pháp luật không được thấp hơn vốn pháp định.
Điểm đáng lưu ý là công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào để huy động vốn trong công chúng, do đó trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh chỉ có thể tăng vốn điều lệ bằng cách tăng vốn góp của các thành viên công ty hoặc kết nạp thành viên mới vào công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.
Tài sản của công ty hợp danh không chỉ có vốn điều lệ mà bao gồm: tài sản góp vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty; tài sản tạo lập được mang tên công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của công ty do các thành viên hợp danh cá nhân thực hiện; các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Vấn đề chuyển nhượng phần vốn góp cũng có sự khác nhau giữa thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Trong công ty hợp danh, phần vốn góp của thành viên hợp danh thường gắn với nhân thân của họ, do vậy việc chuyển nhượng laoij vốn góp của thành viên này là tương đối khó khăn, bởi lẽ: nếu tự do chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên hợp danh thì cũng đồng nghĩa với một sự thay đổi cơ cấu nhân sự và các thành viên hợp danh cũ có thể sẽ phải chấp nhận một thành viên mới mà họ không quen biết, như vậy sẽ làm thay đổi bản chất đối nhân của công ty hợp danh. Tuy nhiên, pháp luật vẫn không cấm tuyệt đối sự thay đổi này mà chỉ hạn chế nó bằng việc quy định cho phép thành viên hợp danh được quyền nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty nếu được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại (khoản 3 Điều 133 Luật doanh nghiệp 2005). Quy định này là hoàn toàn phù hợp với tính chất đối nhân tương đối của công ty hợp danh ở Việt Nam đồng thời mở rộng quyền tự do kinh doanh, tự do chuyển đổi môi trường đầu tư có lợi hơn cho các thành viên hợp danh. Đối với vốn góp của thành viên góp vốn thì được tự do chuyển nhượng vì việc chuyển nhượng này không làm thay đổi tính chất cũng như bộ máy quản lý công ty.
III/ Quy định về quản lý giám sát nội bộ công ty hợp danh.
Cơ quan quản lý cao nhât của công ty hợp danh chính là Hội đồng thành viên. Theo khoản 1 Điều 135 Luật doanh nghiệp 2005, cơ cấu Hội đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên. Các thành viên hợp danh có quyền thảo luận, quyết định mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên. Đối với thành viên góp vốn, tuy được tham gia vào cơ quan quản lý cao nhất của công ty nhưng thực chất lại không có quyền quản lý, điều hành công ty mà chỉ được tham gia thảo luận và biểu quyết những vấn đề về sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; sửa đổi, bổ sung quyền, nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại, giải thể công ty và các vấn đề khác của điều lệ có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (điểm a khoản 1 Điều 140 Luật doanh nghiệp 2005).
Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Các chức danh này ở công ty hợp danh về bản chất khác so với ở các công ty khác, ở công ty hợp danh, thành viên hợp danh được bầu làm Giám đốc, Tổng giám đốc không có quyền cao hơn các thành viên hợp danh khác. Giám đốc, Tổng giám đốc công ty hợp danh chỉ làm nhiệm vụ phân công, phân phối, điều hòa công việc giữa các thành viên hợp danh; điều hành công ty theo sự phân công, phân nhiệm hoặc ủy quyền của Hội đồng thành viên. Giám đốc công ty hợp danh không có quyền tự quyết định bất cứ một vấn đề gì nếu không thông qua Hội đồng thành viên của công ty. Ngay cả việc đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác thì đơn giản cũng chỉ vì Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đó cũng chính là thành viên hợp danh của công ty.
Hội đồng thành viên có thể được triệu tập theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trình tự, thể thức họp được quy định tại Điều 136 Luật doanh nghiệp 2005. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. Nếu điều lệ công ty không quy định thì khi quyết định những vấn đề quan trọng phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận. Đối với các vấn đề khác ít quan trọng hơn thì chỉ cần ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, tỉ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định. Mỗi thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết hoặc có số phiếu biểu quyết khác quy định tại điều lệ công ty.
Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong việc thực hiện công việc hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty. Khi một số hoặc tất cả thành viên hợp danh cùng thực hiện một số công việc kinh doanh thì quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số. Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp hoạt động đó đã được các thành viên còn lại chấp thuận.
Như vậy, việc quản lý, giám sát nội bộ cũng như cơ chế điều hành của công ty hợp danh về thực chất đều nằm trong tay các thành viên hợp danh. Tuy rằng luật quy định cho phép thành viên góp vốn cũng được tham gia vào Hội đồng thành viên – cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty hợp danh nhưng thực chất việc quyết định các vấn đề của công ty lại thuộc về các thành viên hợp danh thông qua những quy định về tỷ lệ tối thiểu số thành viên hợp danh biểu quyết các vấn đề của công ty hợp danh.
IV/ Quy định về thành lập công ty hợp danh.
Trình tự thành lập công ty hợp danh tương tự như trình tự thành lập doanh nghiệp nói chung. Người thành lập công ty hợp danh phải lập và nộp đủ hồ sơ đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với công ty hợp danh bao gồm:
-Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh;
-Dự thảo điều lệ công ty;
-Danh sách thành viên, bản sao chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của mỗi thành viên;
-Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty hợp danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định;
-Chứng chỉ hành nghề của thành viên hợp danh và cá nhân khác đối với công ty hợp danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.
Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì thông bằng văn bản cho người thành lập công ty biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và yêu cầu sửa đổi bổ sung.
Điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 24 Luật doanh nghiệp 2005. Cơ quan đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 25 Luật doanh nghiệp 2005. Kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty hợp danh có tư cách pháp nhân và được quyền hoạt động kinh doanh, trừ ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, công ty chỉ được hoạt động kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty hợp danh phải đăng trên mạng thông tin công ty của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các nội dung chủ yếu của công ty mình như: tên doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện; ngành nghề kinh doanh, vốn điều lệ, nơi đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, công ty hợp danh phải công bố nội dung thay đổi đó trong thời hạn và theo phương thức như đối với lần đầu công bố.
V/ Quy định về giải thể công ty.
Công ty hợp danh có thể bị giải thể trong các trường hợp sau:
-Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn. Công ty hợp danh được ra đời do sự thỏa thuận của các thành viên. Sự tồn tại của công ty hợp danh vì thế cũng phụ thuộc vào sự thỏa thuận này, biểu hiện tối cao của sự thỏa thuận này chính là điều lệ của công ty. Một trong những nội dung cơ bản của điều lệ công ty là thời hạn hoạt động của công ty. Do vậy, khi thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ đã kết thúc thì công ty bị giải thể, nếu muốn tiếp tục hoạt động thì các thành viên công ty hợp danh phải gửi quyết định gia hạn đến cơ quan có thẩm quyền để được gia hạn hoạt động.
-Theo quyết định của tất cả thành viên hợp danh. Trường hợp giải thể này là một hình thức giải thể tự nguyện theo ý chí của các thành viên hợp danh khi thấy sự tồn tại của công ty hợp danh không còn có lợi. Quy định này bảo đảm cho các nhà đầu tư quyền tự do kinh doanh và tự do tổ chức, quản lý, đinh đoạt doanh nghiệp theo pháp luật. Quy định này cũng cho thấy vai trò của thành viên hợp danh rất được đề cao. Trong công ty hợp danh, thành viên hợp danh có toàn quyền quyết định sự tiếp tục tồn tại hay không tồn tại của công ty, trong khi đó ý chí của thành viên góp vốn phải phụ thuộc vào quyết định của thành viên hợp danh, mặc dù quyền biểu quyết của họ được ghi nhận tại điểm a khoản 1 Điều 140 Luật doanh nghiệp 2005.
-Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 trong thời hạn sáu tháng liên tục. Luật doanh nghiệp 2005 quy định công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh và có thể có thành viên góp vốn. Như vậy, theo quy định, công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh trong quá trình hoạt động, nếu không có ít nhất hai thành viên hợp danh thì đồng nghĩa với việc công ty bị giải thể. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, sự biến đổi về số lượng thành viên là không thể tránh khỏi, vì vậy pháp luật cho phép doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng được tồn tại trong thời hạn sáu tháng liên tục, kể từ ngày không còn đủ thành viên tối thiểu.
-Bị thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh. Đây là trường hợp giải thể bắt buộc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do cơ quan có nhà nước có thẩm quyền cấp cho công ty nhằm chứng nhận tư cách chủ thể kinh doanh của công ty hợp danh, đó là tấm giấy thông hành để công ty hợp danh thực hiện các hoạt động của mình trong mối quan hệ với Nhà nước và với công chúng. Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh của công ty hợp danh, buộc công ty hợp danh phải giải thể.
Thủ tục giải thể công ty hợp danh được pháp luật quy định tại Điều 158 Luật doanh nghiệp 2005, cụ thể gồm các bước:
-Bước 1: Thông qua quyết định giải thể công ty. Đây là bước đầu tiên để tiến hành thủ tục giải thể công ty hợp danh. Ở giai đoạn này, Hội đồng thành viên sẽ họp, thảo luận và biểu quyết về quyết định giải thể công ty. Quyết định được thông qua khi có ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Quyết định giải thể công ty phải có các nội dung chủ yếu như: tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; lý do giải thể; thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng; phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động…
-Bước 2: Thanh lý tài sản của công ty. Ở giải đoạn này, nếu như điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý tài sản thì tổ chức này sẽ làm nhiệm vụ kê biên và thanh lý các tài sản của công ty hợp danh. Nếu điều lệ công ty không quy định thì Hội đồng thành viên công ty hợp danh có thể trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản của công ty mình.
-Bước 3: Gửi quyết định giải thể và thông báo giải thể. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong công ty và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty. Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể công ty phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp. Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ.
-Bước 4: Thanh toán nợ của công ty. Các khoản nợ của công ty được thanh toán theo thứ tự sau:
a/ Phí phá sản;
b/ Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
c/ Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỉ lệ tương ứng.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể công ty, phần còn lại thuộc về các thành viên công ty hợp danh.
Như vậy, thứ tự thanh toán nợ của công ty hợp danh khi giải thể đã được pháp luật quy định rõ rang. Tuy vậy, một số vấn đề đặt ra là trong trường hợp công ty hợp danh bị giải thể, nếu tài sản của công ty không đủ để thanh toán nợ thì thành viên hợp danh phải dùng toàn bộ tài sản của mình để thanh toán nốt cho các chủ nợ của công ty; nhưng mặt khác pháp luật cũng không cấm các thành viên hợp danh có những giao dịch của riêng mình, nghĩa là, bản thân mỗi thành viên hợp danh đều có quyền ký kết hợp đồng nhân danh bản thân mình và như vậy họ hoàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận các quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh.doc