Tiểu luận Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp

 

~MỤC LỤC~

I.Mở đầu. 2

II.Nội dung. 2

1.Pháp luật hiện hành về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. 2

2.Đánh giá quy định của pháp luật về đối tượng nộp thuế. 4

3.Ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. 7

III. Kết luận. 10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

 

 

docx11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3689 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
~MỤC LỤC~ I.Mở đầu. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 có nhiều nét mới, tạo bước cải cách ưu đãi thuế vừa bảo đảm môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút đầu tư vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Để hiểu hơn về luật thuế này chúng ta cùng đi vào bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật này. Đồng thời, tìm ra những giải pháp pháp lý để thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. II.Nội dung. 1.Pháp luật hiện hành về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là một loại thuế trực thu, chủ thể nộp thuế đồng thời là chủ thể chịu thuể. Chủ thể nộp thuế TNDN là các tổ chức kinh doanh có thu nhập chịu thuế. Theo quy định tại Điều 2 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và được cụ thể hóa tại Mục I phần A Thông tư số 134/2007/TT-BTC ngày 23/11/2007 thì đối tượng nộp thuế bao gồm: Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp, luật doanh nghiệp nhà nước, luật đầu tư, luật hợp tác xã nộp TNDN đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam. Liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã tổ hợp tác ( riêng đối với hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản thì không phải nộp thuế TNDN). Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan hành chính, tổ chức sự nghiệp và các tổ chức khác trong trường hợp có thu nhập (có lãi), có chênh lệch thu lớn hơn chi thì thuộc đối tượng thu thuế TNDN. Cá nhân, nhóm cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể sản xuất kinh doanh, hàng hóa dịch vụ (riêng đối với hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản không phải đóng thuế TNDN trừ hộ gia đình và cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn, có thu nhập cao từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tạm thời chưa thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ gia đình và cá nhân sản xuất hàng hóa lớn, có thu nhập cao từ các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). Cá nhân hành nghề độc lập có hoặc không có văn phòng, địa điểm hành nghề cố định ( trừ người làm công ăn lương) như bác sỹ, kỹ sư…và những người hành nghề độc lập khác. Cá nhân cho thuê tài sản như: nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị và các loại tài sản khác. Doanh nghiệp được thành lập theo luật nước ngoài ( gọi tắt là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú tại Việt Nam đây là cơ sở kinh doanh mà doanh nghiệp thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam và có thu nhập nộp thuế TNDN đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế ngoài Việt Nam phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập. Bao gồm: + Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam. + Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp. + Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân khác. + Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài. + Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. + Tổ chức được thành lập theo Luật Hợp Tác xã. + Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. + Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập. *Để có thể xác định chính xác đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp chúng ta cần hiểu rõ về khái niệm thu nhập chịu thuế. Theo đó bao gồm : Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác; Thu nhập khác bao gồm từ thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập và chuyển nhượng; cho thuê, thanh lý tài sản; thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vồn, bán ngoại tệ, thu khoản nợ khó đòi nay đòi được, thu khoản nợ phải trả không xác định được chủ; khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót và các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất kinh doanh ở ngoài Việt Nam. 2.Đánh giá quy định của pháp luật về đối tượng nộp thuế. Tại Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay, pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp về cơ bản đã dần hoàn thiện được những yêu cầu về lý cả về cấu trúc bên trong lẫn hình thức biểu hiện bên ngoài. Bộ phận pháp luật về đối tượng nộp thuế đã được quy định khá hoàn chỉnh nằm trong tổng thể cấu trúc hệ thống pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các quy định về đối tượng nộp thuế đã phần nào phản ánh đúng những nội dung yêu cầu của chính sách kinh tế- tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng cũng như thể hiện được mục tiêu, định hướng cơ bản trong chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về các nội dung của quy định về đối tượng nộp thuế, nhưng đặt trong hoàn cảnh chung về tình hình kinh tế- xã hội tại Việt Nam, ta có thể hiểu được phần nào lý do quy định như vậy. Song vẫn còn đó những tồn tại về vấn đề này: Thứ nhấy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay xác định đối tượng nộp thuế không theo những tiêu chí cụ thể mà theo phương pháp liệt kê, làm cho chính sách thuế trở nên quá “cứng” và không bao quát được hết các đối tượng nộp thuế. Thiết nghĩ, nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế đang phát triển và chưa ổn định, vì vậy việc quy định “cứng” các đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như vậy sẽ phần nào làm mất đi sự linh hoạt của chính sách thuế, khó thay đổi theo hướng mở rộng hay thu hẹp đối tượng nộp thuế sao cho phù hợp với từng giai đoạn “ thăng trầm” của nền kinh tế. Thứ hai về nguyên tắc thì bất kỳ tổ chức nào khi thỏa mãn hành vi kinh doanh và có thu nhập phát sinh thì đều là đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách khuyến khích đãi ngộ với một số đối tượng hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn và thường tạo ra thu nhập không cao, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định các trường hợp ngoại lệ (các trường hợp không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp). Song những tiêu chí để nhận diện thế nào là doanh nghiệp có sử dụng người tàn tật, người sau cai nghiện còn chưa được làm rõ. Ba là do các quy định về thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam khá thông thoáng cho nên các doanh nghiệp ma thành lập ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp này mặc dù thực hiện việc đăng ký thành lập theo đúng trình tự thủ tục được pháp luật quy định nhưng thực chất lại không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà chỉ được thành lập với mục đích duy nhất là mua bán hóa đơn do bộ tài chính phát hành để hợp thức hóa các hàng hóa trôi nổi trên thị trường để chiếm đoạt tiều thuế giá trị gia tăng đồng thời trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Bốn là điểm c khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 đề cập tới doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam, có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú còn không rõ ràng. Về lí thuyết, luật pháp cũng như vấn đề quyền đánh thuế của quốc gia, việc xác định nếu một chủ thể kinh doanh trên lãnh thổ quốc gia khác, nếu có thu nhập phát sinh do chủ thể kinh doanh thực hiện thì bất luận do cá thể nào tạo ra, trách nhiệm đóng thuế thuộc về chủ thể kinh doanh đó. Lập luận này có nghĩa, nếu như doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, cho dù do cơ sở thường trú nhất định thực hiện hay không do cơ sở thường trú đó thực hiện, cơ sở này vẫn phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp mà không phải chia tách như trong dự thảo luật gây nên những diễn giải khác nhau và không cần thiết. Mặt khác, ngay cả trường hợp doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam nhưng không có cơ sở thường trú, vẫn phải nộp thuế theo pháp luật Việt Nam theo quy định tại điểm d khoản 2 điều 2 thì không có lí do gì đối tượng có cơ sở thường trú tại Việt Nam mà lại không phải nộp thuế. Bên cạnh những quy định được nêu trong Luật về cơ sở thường trú, thì thực tiễn đặt ra yêu cầu phải xác định rõ ngay trong Luật ai sẽ là người có trách nhiệm nộp thuế đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2. Nếu xác định chung chung về đối tượng tại khoản 1 Điều này, rất nhiều trường hợp sẽ không xác định được. Chẳng hạn như trường hợp cơ sở thường trú là địa điểm, công trình, phương tiện vận tải; tương tự như vậy là trường hợp doanh nghiệp có thu nhập tại Việt Nam nhưng không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Ba là, đối tượng nộp thuế chưa hợp lý. Như đã trình bày ở phần trên, đối tượng nộp thuế thu nhập daonh nghiệp là tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện các tổ chức thuộc Hội khuyến nông, Hội khuyến học, Hội người cao tuổi, Hội bảo trợ người tàn tật… và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam như: Hội đồng Anh, Cộng đồng Pháp ngữ, Trung tâm giáo dục của Hội đồng bộ trưởng các nước Asean…). Đây là các tổ chức có tham gia tích cực vào một số linh vực của đời sống xã hội, cung cấp một số dịch vụ công mang tính tự nguyện, từ thiên như: đào tạo, tư vấn đời sống, pháp luật, hoạt động giao lưu, phát triển văn hóa, nghiên cứu khoa học…Thu nhập từ hoạt động của các tổ chức này được sử dụng cho mục đích, tôn chỉ pháp luật như nêu trên mà không phân chia. Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa quy định rõ về đối tượng nộp thuế và chính sách điều tiết thu nhập đối với các tổ chức có thu nhập không chia mà áp dụng cơ chế, chính sách điều tiết như doanh nghiệp nên có phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động của các tổ chức đó. 3.Ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Dưới đây là một số ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp: *Kiến nghị hoàn thiện pháp luật: Trước tiên, Các quy định pháp luật cần đảm bảo đơn giản, thuận tiện cho việc thực hiện và quản lý. Điều này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp thuế và người thu thuế thực hiện đúng luật. Để đạt được mục tiêu này cần tạo điều kiện để cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế, giúp cho các cơ quan quản lý thực hiện tốt chức năng của mình đồng thời làm cho luật Thuế TNDN từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế và quá trình hội nhập góp phần thu hút đầu tư nước ngoài. Luật doanh nghiệp cần quy định một cách rõ ràng, minh bạch và thể hiện được chính sách điều tiết đối với từng loại thu nhập, cần quy định rõ thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, thu nhập tính thuế trên cơ sở sắp xếp lại các Điều luật Điều 2, Điều 19 của Luật hiện hành. Cần có những quy định về quyền đánh thuế của nước ta đối với các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam vào trong luật thu nhập doanh nghiệp mà hiện nay các quy định này đang được quy định trong các văn bản dưới luật. *Kiến nghị về thực thi quy định pháp luật: Để việc áp dụng luaatl thuế thu nhập doanh nghiệp đạt hiệu quả thì cũng nên tiến hành đồng bộ những giải pháp sau: Một là ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp. Quá trình cải cách thủ tục hành chính phải gắn liền với việc ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin. Giữa việt nam và thế giới vẫn còn khoảng cách khá xa về công nghệ, điều này đòi hỏi nghành thuế cần phải nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ và khả năng đáp ứng yêu cầu mới. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp là xây dựng và củng cố hệ thống thông tin từ đối tượng nộp thuế đến cơ quan thuế và từ các tổ chức, cá nhân có liên quan; thực hiện nộp hồ sơ thuế thông qua phương tiện Internet; sử dụng hóa đơn điện tử. Điều này nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát các loại chứng từ, hóa đơn, nhanh chóng phát hiện đối tượng trốn thuế, gian lận thuế. Hai là tăng cường sử dụng thanh toán qua tài khoản tại ngân hàng thay vì sử dụng tiền mặt. Thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán hàng ngày khiến cho việc quản lý các khoản thực thu và thực chi rất khó khăn. Khi thanh toán qua tài khoản việc theo dõi, đối chiếu các khoản thu chi của các chủ thể trong xã hội dễ dàng hơn vì thế có thể hạn chế được việc gian lận thuế và thực hiện nộp thuế qua tài khoản khiến việc nộp nhanh chóng, đơn giản, giảm chi phí cho doanh nghiệp. Ba là tăng cường chế tài đối với các hành vi vi phạm. Để các doanh nghiệp tự giác chấp hành pháp luật thuế thu nhập là rất khó, hiện tượng vi phạm xảy ra rất phổ biến vì thế tăng cường chế tài đối với hành vi vi phạm là để buộc các doanh nghiệp tự giác chấp hành, đảm bảo tính răn đe. Mức xử phạt cả về hành chính lẫn hình sự như hiện nay đều không đạt được yêu cầu phòng ngừa và trừng phạt. vì vậy, nên xem xét để nâng mức xử phạt hành chính cao nhất không chỉ là 5 lần số tiền trốn thuế và xử lý hình sự khung hình phạt cao nhất cho tội trốn thuế không phải là 7 năm tù. Có chế tài nghiêm khắc phải kết hợp với thái độ kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm mới có thể nâng cao hiệu quả thi hành của pháp luật. Bốn là hoạt động tuyên truyền pháp luật; biểu dương, khuyến khích đối với cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế. Áp dụng biện pháp khen thưởng và đảm bảo an toàn cho cá nhân khai báo, tố giác cá nhân, tổ chức có hành vi gian lận. Đi cùng với đó là tích cực phòng chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực cũng là một vấn đề cần làm để tăng cường việc thực thi quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế. Chú trọng công tác đào tạo và luân chuyển cán bộ, công chức ngành thuế để lực lượng này phát triển cả về lượng và chất nhằm đáp ứng được yêu cầu công việc trong tình hình mới. Năm là xác định rõ chức năng nhiệm vụ của cơ quan thuế các cấp, thực hiện phân cấp tăng cường quyền hạn, trách nhiệm cho cơ quan thuế cấp dưới, theo đó, ta cần sắp xếp lại các đơn vị thuộc Tổng cục, Cục và Chi cục theo hướng tinh gọn, rỏ ràng, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo một việc chỉ do một đơn vị tham mưu, xử lý, chịu trách nhiệm, thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế được chính phủ, bộ tài chính giao. Sáu là nâng cao chất lượng kê khai thuế, áp dụng mã vạch hai chiều trong việc nhập tờ khai thuế, tăng cường đôn đốc, hướng dẫn kê khai thuế kịp thời, đúng quy định, kiên quyết xử lý các trường hợp không kê khai thuế, chậm kê khai thuế hoặc kê khai không chính xác. Bảy là toàn ngành thuế đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế: cụ thể tiếp tục thực hiện đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế, tập trung rà soát và loại bỏ những thủ tục hành chính không còn phù hợp. thống nhất áp dụng một mã số doanh nghiệp, một hồ sơ duy nhất rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế từ 15 ngày xuống còn 5 ngày làm việc; Tám là đẩy mạnh việc triển khai cơ chế “một cửa” trong toàn ngành để giải quyết tất cả các thủ tục hành chính thuế cho doanh nghiệp, người dân tại bộ phận hỗ trợ của cơ quan thuế các cấp. đồng thời, tiếp tục thực hiện việc rà soát, sửa đổi, đơn giản hóa các thủ tục kê khai nộp thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, duy trì và phát triển cơ chế “ một cửa liên thông với cơ quan kế hoạch và đầu tư trong việc cấp giấy phép kinh doanh và cấp mã số thuế cho người nộp thuế”. Chuyển đổi cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế và áp dụng phương pháp phân đoạn thị trường đối tượng nộp thuế theo quy mô để có biện pháp quản lý phù hợp. Cần thực hiện tốt công tác quản lý thông tin về người nộp thuế trên cơ sở thành tựa khoa học công nghệ nhằm đảm bảo tốt việc quản lý của cơ quan thuế với doanh nghiệp cũng như công tác thanh tra kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế: cần coi trọng hơn nữa công tác thanh tra thuế, cần tăng cường kiểm tra, thanh tra để phát hiện ra các trường hợp cố tình khai man, trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp. III. Kết luận. Tóm lại, Luật thuế TNDN là một ngành luật rất quan trọng, thực hiện tốt công tác quản lý sẽ đem lại hiệu quả cho nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển, xứng tầm với các nước trên thế giới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội – 2008. Những điểm mới của luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và biện pháp áp dụng, Khóa luận tốt nghiệp Ong Thị Ngân; NHD: TS. Trương thị kim dung, hà nội 2009. Cần quy định chi tiết nội dung các điều khoản của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nguyễn thị lan hương, tạp chí nghiên cứu lập pháp, văn phòng quốc hội số 7/2008. Tìm hiểu về đối tượng chịu thuế và căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp, khóa luận tốt nghiệp Trần quang, người hướng dẫn ts phạm thị giang thu hà nội 2009. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), Luật thuế giá trị gia tăng ( sửa đổi): tiến tới các giải pháp tăng hiệu quả cho việc thu thuế, Lê Nết, tạp chí nghiên cứu lập pháp, văn phòng quốc hội số 6/2008.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐề số 13- Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; Ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt ph.docx
Tài liệu liên quan