Tiểu luận Bình luận quan điểm về việc thụ lý vụ án của Tòa án

- Xác định tư cách của các đương sự của anh A trong vụ án:

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 BLTTDS năm 2004 quy định:

“Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm ”

Từ những căn cứ pháp lý trên, đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, để trở thành nguyên đơn thì anh A phải đáp ứng những yêu cầu sau:

+ Thứ nhất: Anh A là một bên trong quan hệ pháp luật tranh chấp, khi anh A cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại.

+ Thứ hai: Anh A có năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Do đề bài không chỉ rõ năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự nên coi như các đương sự có đủ năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.

 

doc7 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3001 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận quan điểm về việc thụ lý vụ án của Tòa án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Có quan điểm cho rằng Tòa án chỉ thụ lý giải quyết yêu cầu của anh A sau khi việc tranh chấp đã được Ủy ban nhân dân xã P hòa giải. Hãy bình luận quan điểm trên. Hiện nay, theo quan điểm của những người làm công tác thực tiễn thì mọi tranh chấp đất đai đều phải qua thủ tục hoà giải tại Ủy ban nhân dân xã trước khi khởi kiện ra Toà án. Bởi vì: Theo Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 quy định:“Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí” thì được giải quyết như sau: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”. Quy định này dẫn tới cách hiểu trong thực tiễn tố tụng tại Toà án là mọi tranh chấp đất đai đều bắt buộc phải thông qua con đường hoà giải cơ sở. Đồng thời, theo Điều 2 Công văn số 116 của TANDTC ngày 22/7/2004 quy định thì “Theo tinh thần quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì tranh chấp đất đai nhất thiết phải qua hoà giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp... Do vậy, “Kể từ ngày 01/07/2004 trở đi, Toà án chỉ thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí và khởi kiện đến Toà án”. Đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, vụ tranh chấp xảy ra vào năm 2007. Như vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai phải được tiến hành hoà giải tại UBND xã P. Quan niệm này lại được khẳng định một lần nữa trong bản tham luận của Toà Dân sự TANDTC ngày 3/1/2005. Theo đó, Toà Dân sự TANDTC cho rằng, khi có tranh chấp về những quyền thuộc nhóm quyền chung của người sử dụng đất theo Điều 105 Luật Đất đai năm 2003 và nhóm quyền thứ hai theo Điều 106 của Luật Đất đai năm 2003 thì đó là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tất cả các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất nói trên đều phải qua hoà giải cơ sở tại UBND xã, phường, thị trấn. Đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, đây là tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đồng thời với việc tranh chấp này thì các bên sẽ phải tiến hành việc hòa giải ở UBND huyện nơi có mảnh đất xảy ra tranh chấp. Bình luận quan điểm Tòa án chỉ thụ lý giải quyết yêu cầu của anh A sau khi việc tranh chấp đã được Ủy ban nhân dân xã P hòa giải : - Ưu điểm: Quan điểm này của Tòa án nhân dân huyện Q tỉnh M đã dựa trên cơ sở của những quy định pháp luật nhằm mục đích khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở, tạo cơ hội để các bên gia đình anh A, chị K với anh B thương lượng giải quyết, giữ được tình cảm gia đình , bạn bè, làng xóm…tốt đẹp. - Tuy nhiên: Theo em, nếu quan niệm tất cả các tranh chấp về quyền sử dụng đất đều phải qua hoà giải cơ sở thì phải chăng đã tạo thêm một trở ngại cho người dân trên con đường đi tìm công lý. Em xin đưa ra một tình huống giả định như sau: Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H và anh L do TAND huyện Q đang giải quyết: theo đơn khởi kiện, bà H yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu, buộc anh L trả lại đất cho bà vì cho rằng vợ anh L không ký vào hợp đồng. Tranh chấp này chưa qua hòa giải tại cấp xã, mặc dù quan điểm của Tòa án là loại tranh chấp này không cần qua hòa giải nhưng để bảo đảm an toàn (khỏi bị hủy án) nên đã yêu cầu đương sự làm đơn yêu cầu UBND xã hòa giải mới tiếp tục giải quyết vụ án. Như vậy, rõ ràng với cách giải quyết trên của TAND huyện Q thì phải chăng đã tạo thêm một thủ tục phiền hà, gây mất thời gian cho người dân. Trên thực tế kết quả việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở cho thấy thủ tục này chỉ mang tính hình thức, động viên và ghi nhận hòa giải không thành để chuyển sang Tòa án giải quyết. Do tranh chấp đất đai thường rất gay gắt, phức tạp vượt quá khả năng giải quyết của cán bộ địa phương, mặt khác trong quá trình hòa giải ở cơ sở, các bên đương sự thường không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ nên Hội đồng hòa giải cơ sở cũng khó hòa giải thành. Nhiều trường hợp mâu thuẫn đã có từ lâu và đến khi phải ra đến chính quyền giải quyết là lúc tranh chấp giữa hai bên đã rất căng thẳng. Mặt khác, ở nhiều địa phương,cán bộ tham gia hòa giải nhiều khi là họ hàng hoặc quen biết cả hai bên nên có phần e ngại va chạm, vì thế có tâm lý né tránh, gây thêm khó khăn cho đương sự trong việc giải quyết tranh chấp. Nhiều nơi cán bộ của Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc hòa giải qua quýt, không đúng thủ tục, gây mất thời gian. Kết quả là việc hòa giải đó không giải quyết được tranh chấp mà lại thêm thủ tục phiền hà cho người dân. Về hiệu quả pháp lý của việc tiến hành hòa giải tại cơ sở, thực tế còn xảy ra trường hợp Ủy bân nhân dân cấp xã hòa giải thành nhưng sau đó một hoặc các bên tranh chấp không thực hiện nội dung hòa giải  lại tiếp tục khởi kiện dẫn đến vụ việc tranh chấp kéo dài. Chính vì vậy quy định bắt buộc các đương sự muốn khởi kiện tại Tòa án phải qua hòa giải tại địa phương là không cần thiết vì hiệu quả không cao do không có chế tài mà chỉ dựa trên sự tự nguyện của các bên. Về thành phần tham gia hòa giải tại cơ sở, theo khoản 2 Điều 135 Luật đất đai :  “ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai” là quá rộng . Trên thực tế khi Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành hòa giải, thành phần hòa giải thường không đầy đủ do thiếu cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc  cán bộ của các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức hội phụ nữ, tham gia hòa giải. Trong trường hợp này, khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện,  có nơi  Ủy ban nhân dân cấp xã chấp nhận tổ chức hòa giải lại, nhưng có nơi Ủy ban nhân dân cấp xã lại từ chối vì cho rằng tranh chấp đã được hòa giải, dẫn đến tình trạng việc giải quyết tranh chấp bị kéo dài, gây mất nhiều thời gian, công sức của người dân và cơ quan Tòa án. Về thời hiệu khởi kiện, khoản 2, Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định“ ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi “trong khi Luật đất đai quy định thời hạn tiến hành hòa giải ở cơ sở là 30 ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.  Như vậy giai đoạn Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện hòa giải không được tính vào thời hiệu khởi kiện. Do vậy, nhiều trường hợp đương sự đợi để được hòa giải ở địa phương xong, gửi đơn đến Tòa án thì hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật, làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của đương sự. 2- Một số kiến nghị: Để khắc phục bất cập về mặt pháp luật và tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn thi hành các quy định nêu trên, nên chăng chỉ quy định khuyến khích hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở trước khi khởi kiện ra tòa án mà không quy định đó là một thủ tục bắt buộc; hoặc chỉ nên quy định hòa giải cơ sở đối với các tranh chấp về đất đai trên cơ sở yêu cầu của đương sự. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không tiến hành hòa giải, không có điều kiện hòa giải, hoặc một bên đương sự không có thiện chí nên không có mặt, hay không thể có mặt thì đương sự có quyền khởi kiện ra Tòa án. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể có thể khởi kiện thẳng đến Tòa án, không phải giải quyết tranh chấp đất đai qua nhiều cấp, tiết kiệm được thời gian, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm. Mặt khác tại Tòa án cũng có thủ tục hòa giải. Ngay cả khi cấp cơ sở đã tiến hành hòa giải cho các bên tranh chấp, khi thụ lý giải quyết tại Tòa án, Tòa án vẫn phải hòa giải, đây là một thủ tục bắt buộc trong hoạt động tố tụng. Nếu vẫn quy định việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở là điều kiện bắt buộc thì nên quy định hiệu lực pháp luật của các vụ việc tranh chấp đã được hòa giải thành, đồng thời xem xét lại thời hiệu khởi kiện để không ảnh hưởng đến thời hiệu của người khởi kiện. Đồng thời để nâng cao chất lượng công tác hòa giải tại cơ sở, cần đầu tư nghiên cứu ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và tăng cường đào tạo, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước về đất đai, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải tranh chấp đất đai của cấp Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cán bộ , thẩm phán Tòa án. 2. Giả sử vụ việc đã được Tòa án thụ lý, hãy xác định tư cách của các đương sự trong vụ án và giải thích tại sao? Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTDS 2004: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Như vậy các đương sự trong vụ án dân sự khá phong phú đa dạng bao gồm: nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, tư cách của đương sự trong vụ án được xác định như sau: - Xác định tư cách của các đương sự của anh A trong vụ án: Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 BLTTDS năm 2004 quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm…” Từ những căn cứ pháp lý trên, đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, để trở thành nguyên đơn thì anh A phải đáp ứng những yêu cầu sau: + Thứ nhất: Anh A là một bên trong quan hệ pháp luật tranh chấp, khi anh A cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại. + Thứ hai: Anh A có năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Do đề bài không chỉ rõ năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự nên coi như các đương sự có đủ năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự. + Thứ ba: Anh A là người đã thực hiện hành vi khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Q để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy:“…anh A đã khởi kiện đến Tòa án yêu cầu hủy hợp đồng mua bán giữa anh A và anh B…” + Thứ tư: Tòa án huyện nhân dân huyện Q đã thụ lý đơn khởi kiện của anh A (vụ án dân sự đã phát sinh). Như vậy, thông thường tư cách của chủ thể được xác định là nguyên đơn là khi chủ thể gửi đơn tới Tòa án và đơn đó được Tòa án thụ lý.  - Xác định tư cách của các đương sự của anh B trong vụ án: Căn cứ theo Khoản 3 Điều 56 BLTTDS quy định: “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”. Từ những căn cứ pháp lý trên, đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, để trở thành nguyên đơn thì anh A phải đáp ứng những yêu cầu sau: +Thứ nhất: Anh B là người bị anh A (nguyên đơn) khởi kiện. + Thứ hai: Anh B là người có năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. + Thứ ba: Anh B là người được giả thiết cho rằng là có tranh chấp, vi phạm đến quyền lợi của anh A (nguyên đơn). Từ những căn cứ pháp lý và phân tích trên, chúng ta có thể xác định được rằng: anh B là bị đơn trong vụ án. - Xác định tư cách của các đương sự của chị K trong vụ án: Theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTDS: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ …”. Đối chiếu với tình huống trong đề bài ta thấy, “Anh A, chị K có một căn nhà cấp 4 trên diện tích đất là 100m 2 tại xã P huyện Q tỉnh M, được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất năm 2004”. Bởi vì, đây là tài sản chung của chị K và anh A.Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chị K. Từ những căn cứ pháp lý và phân tích trên, chúng ta có thể xác định được rằng: chị K là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tóm lại: Từ những căn cứ pháp lý và phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định rằng tư cách của các đương sự tham gia tố tụng trong đề bài được xác định như sau: Anh A là nguyên đơn; anh B là bị đơn; chị K là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy phạm pháp luật.doc
Tài liệu liên quan