Tiểu luận Bình luận tiến trình tự do hóa đầu tư trong cộng đồng kinh tế ASEAN dưới một vài góc độ

MỤC LỤC

 

A. MỞ ĐẦU - 1 -

B. NỘI DUNG - 1 -

I. Những vấn đề lý luận về tự do hóa đầu tư. - 1 -

1. Khu vực đầu tư ASEAN - 1 -

2. Tự do hóa đầu tư - 2 -

3. Một số khái niệm - 2 -

II. Các công cụ pháp lý thực hiện tự do hóa đầu tư. - 2 -

III. Phương thức thực hiện. - 4 -

IV. So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa trong AEC với WTO. - 6 -

1. Sự tương đồng - 6 -

1.1 Sự tương đồng về phạm vi và mức độ tự do hóa đầu tư giữa AEC và WTO - 6 -

1.2 Nguyên nhân của sự tương đồng. - 7 -

2. Sự khác biệt - 7 -

2.1 Sự khác biệt về phạm vi và mức độ tự do hóa đầu tư giữa AEC và WTO: - 7 -

2.2 Nguyên nhân của sự khác biệt - 8 -

C. KẾT LUẬN - 9 -

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - 9 -

 

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4056 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận tiến trình tự do hóa đầu tư trong cộng đồng kinh tế ASEAN dưới một vài góc độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một trong ba trụ cột chính, không thể thiếu trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, có mục tiêu là phát triển kinh tế ổn định, thịnh vượng, có tính cạnh tranh cao và hội nhập nền kinh tế toàn cầu nên việc chú trọng lĩnh vực đầu tư, thúc đẩy tự do hóa đầu tư là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài khối, xúc tiến hoạt động sản xuất, kinh tế phát triển. Trong khuôn khổ bài tập nhóm tháng 2, chúng em sẽ đi tìm hiểu đề tài “Bình luận tiến trình tự do hóa đầu tư trong cộng đồng kinh tế ASEAN dưới các góc độ: Những vấn đề lí luận về tự do hóa đầu tư; Các công cụ pháp lý thực hiện tự do hóa đầu tư trong AEC; Phương thức thực hiện; So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa trong AEC với WTO”. NỘI DUNG Những vấn đề lý luận về tự do hóa đầu tư. Khu vực đầu tư ASEAN Cùng với hàng hóa, dịch vụ và lao động, đầu tư là một trong bốn yếu tố cơ bản của sản xuất do vậy các hoạt động hợp tác đầu tư giữa các nước ASEAN rất được chú trọng và xúc tiến thực hiện. Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được hiểu là khu vực đầu tư giữa các nước ASEAN, mà tại đó các quốc gia thành viên tiến hành các hoạt động tự do hóa, bảo hộ, xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài khối, tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển năng động của ASEAN. Tự do hóa đầu tư Tự do hóa đầu tư cũng tương tự như tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ ở chỗ đều cùng tiến hành việc hạn chế, cắt giảm và tiến tới xóa bỏ các rào cản đối với các đối tượng của tự do hóa. Nếu như rào cản thương mại hàng hóa là thuế quan và phi thuế quan, rảo cản thương mại dịch vụ là các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường và các biện pháp phân biệt đối xử thì rào cản đối với đầu tư là các biện pháp cấm đầu tư, các biện pháp hạn chế đầu tư và các biện pháp phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Tự do hóa đầu tư được thực hiện thông qua việc mở cửa đầu tư và dành chế độ đãi ngộ quốc gia cho cả nhà đầu tư ASEAN và các nhà đầu tư bên ngoài; bảo hộ đầu tư, các chương trình và hoạt động xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư. Một số khái niệm Đầu tư: Đầu tư trong khuôn khổ Khu vực đầu tư ASEAN chỉ bao gồm đầu tư trực tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu từ và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư ASEAN: Theo Điều 4 ACIA 2009, nhà đầu tư ASEAN là công dân của quốc gia thành viên hoặc là một pháp nhân của quốc gia thành viên đang, hoặc đã tiến hành đầu tư trong lãnh thổ nước thành viên khác, trong đó : Pháp nhân là bất cứ thực thể pháp lý nào được thành lập hoặc tổ chức theo pháp luật của một quốc gia thành viên, vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao gồm mọi công ty, tập đoàn, hội, liên doanh, doanh nghiệp một chủ, hiệp hội hoặc tổ chức. Công dân là bất cứ người nào có quốc tịch hoặc quyền thường trú tại nước thành viên theo pháp luật, quy định và chính sách của quốc gia đó. Khoản đầu tư: Là mọi hình thức tài sản do nhà đầu tư sở hữu hoặc có quyền định đoạt, bao gồm : Động sản và bất động sản cùng các quyền tài sản khác, như thế chấp, tạm giữ hoặc cầm cố; Cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy ghi nợ cùng các hình thức tham gia khác vào một pháp nhân và các quyền hay lợi ích phát sinh từ đó. Quyền sở hữu trí tuệ theo luật và quy định của mỗi quốc gia thành viên. Yêu cầu tài chính hoặc yêu cầu thực hiện công việc liên quan tới kinh doanh và có giá trị tài chính; Các khoản thu được thông qua đầu tư, cụ thể là lợi nhuận, lợi tức, gia tăng giá trị, lãi cổ phần, tiền bản quyền và các phí khác. Bất kỳ sự thay đổi nào về hình thức mà tài sản được đầu tư hoặc tái đầu tư không ảnh hưởng tới việc tài sản đó vẫn được coi là khoản đầu tư. Các công cụ pháp lý thực hiện tự do hóa đầu tư. Các hoạt động hợp tác đầu tư giữa các nước ASEAN được xúc tiến thực hiện tương đối sớm. Tuy nhiên, trước năm 1987, ASEAN vẫn chưa có một văn kiện pháp lý ở cấp độ khu vực điều chỉnh các hoạt động hợp tác đầu tư trong khối. Trước thời điểm đó, các hoạt động hợp tác đầu tư chủ yếu được thực hiện theo các thoả thuận song phương giữa các quốc gia thành viên. - Ngày 15/12/1987, văn kiện pháp lý đầu tiên ở cấp độ khu vực điều chỉnh các hoạt động hợp tác đầu tư trong khối được ra đời, đó là Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư 1987. Với chỉ 14 điều khoản quy định ở mức tương đối cơ bản những nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư giữa các nước ASEAN, như phạm vi áp dụng, các nghĩa vụ nói chung của nước nhận đầu tư, chế độ pháp lý dành cho các nhà đầu tư, các biện pháp bảo đảm đầu tư…, nhưng Hiệp định chính là mốc khởi đầu cho quá trình hợp tác đầu tư ở tầm khu vực sau này. - Đầu những năm 1990, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Invesment) đã dần trở thành một trong những nhân tố chiến lược cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Trước xu thế đó, các nước ASEAN nhận thấy sự cần thiết phải có những bước đi cụ thể hơn nữa trong các hoạt động hợp tác đầu tư trong khu vực. Tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V vào tháng 12 năm 1995. các nhà lãnh đạo các nước ASEAN đã nhất trí với Chương trình hành động ASEAN về hợp tác và xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong phạm vi ASEAN, đồng thời, đưa ra sáng kiến thành lập Khu vực đầu tư ASEAN. Ngày 7 tháng 10 năm 1998, tại Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 30 tại Manila, Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (Framework Agreement on the ASEAN Invesment Area) đã được ký kết, xác lập khung pháp lý cho sự ra đời của Khu vực đầu tư ASEAN. Cùng với các nghị định thư sủa đổi (Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư 1996 và Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN 2001, hai hiệp định trên đã có vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy FDI. Để tăng cường hợp tác trong khu vực, tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN và cũng để phù hợp hơn với tầm nhìn của một cộng đồng kinh tế ASEAN thống nhất, năng động đòi hỏi phải có một văn bản hoàn chỉnh điều chỉnh toàn diện lĩnh vực đầu tư trong ASEAN. Chính vì vậy, các nước thành viên ASEAN đã cùng thống nhất quan điểm soạn thảo văn bản mới thay thế hai văn bản hiện hành - ACIA. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ASEAN Comprehensive Investment Agreement - ACIA) 2009 có hiệu lực sẽ thay thế Hiệp định khuyến khích vào bảo hộ đầu tư 1987 và Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN 1998, tạo khuôn khổ pháp lý mới, điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong AIA. ACIA được soạn thảo trên cơ sở các nguyên tắc chỉ đạo nêu trên, trong đó có kế thừa quy định của hai Hiệp định AIA và IGA, đồng thời đưa vào một số quy định mới phù hợp hơn với cơ chế tự do hóa đầu tư, trong đó đặc biệt quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư và khoản đầu tư của họ. Bên cạnh những văn bản pháp lý, các thiết chế pháp lý cũng được xây dựng lên để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ. Ngoài Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội đồng điều phối ASEAN và Hội đồng AEC còn có cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng là Hội đồng khu vực đầu tư ASEAN (AIA) giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy tiến trình tự do hóa đầu tư trong AEC. Hội đồng khu vực đầu tư ASEAN (Hội đồng AIA) được thành lập theo Hiệp định khung về đầu tư ASEAN (AIA) năm 1998. Hội đồng AIA bao gồm các bộ trưởng phụ trách lĩnh vực đầu tư của các nước thành viên, có nhiệm vụ giám sát, phối hợp và kiểm tra quá trình thực hiện Hiệp định. Cuộc họp của Hội đồng AIA được tổ chức mỗi năm một lần. Phương thức thực hiện. Phương thức thực hiện tự do hóa thương mại trong AEC được hiểu là những cách thức để thực hiện việc tự do hóa đầu tư dựa trên các công cụ pháp lý đã nêu ở trên. Tiến trình tự do hóa đầu tư trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) có nội dung như sau: * Mở cửa đầu tư trong khuôn khổ AIA: Về tự do hóa đầu tư, ACIA vẫn giữ nguyên quy định của AIA đối với các ngành kinh tế và không điều chỉnh tự do hóa đối với hoạt động đầu tư gián tiếp, theo đó chỉ điều chỉnh các lĩnh vực sản xuất công nghiệp; nông nghiệp; thủy sản; lâm nghiệp; khai khoáng và khai thác đá và các dịch vụ liên quan của các lĩnh vực này (Khoản 3 Điều 3 ACIA 2009). Ngoài ra, ACIA còn quy định cho phép tự do hóa đối với bất kỳ lĩnh vực nào được các nước thành viên nhất trí, quy định này nhằm cho phép tự do hóa một số lĩnh vực, dịch vụ khác sẽ phát sinh trong tương lai. Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiệp định sang các lĩnh vực và ngành nghề khác trong tương lai. Các nước thành viên có xu hướng sẽ tự do hóa đầu tư thêm một số lĩnh vực, ngành nghề khác, do vậy Hiệp định ACIA sẽ điều chỉnh cả đối với những lĩnh vực, ngành nghề đó trên cở sở sự nhất trí của các nước thành viên Hiệp định có 7 nguyên tắc hướng dẫn chung cho các thành viên, theo đó khi thực hiện nghĩa vụ mà mình đã cam kết các nước thành viên phải tuân thủ các nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính khả thi của Hiệp định. Theo các nguyên tắc cơ bản này thì cần không ngừng tự do hóa đầu tư nhằm đạt được môi trường đầu tư tự do và mở cửa trong khu vực, với quy định này, ACIA cho phép tự do hóa hơn trong tương lai đối với một số ngành, dịch vụ trên cơ sở nhất trí của các nước thành viên. Nguyên tắc này đòi hỏi các nước thành viên phải có chính sách và lộ trình mở cửa phù hợp với mức độ phát triển của mỗi nước thành viên và trong toàn khu vực nhằm hướng tới mục tiêu về tự do hóa của Cộng đồng kinh tế ASEAN. * Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư: Về biện pháp áp dụng, theo khoản 1 Điều 3 ACIA 2009 các biện pháp được một nước thành viên áp dụng có liên quan đến nhà đầu tư và khoản đầu tư sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của ACIA (nhà đầu tư có nghĩa là một thể nhân hoặc pháp nhân của nước thành viên đang đầu tư hoặc đã đầu tư trên lãnh thổ của nước thành viên khác. Khoản đầu tư có nghĩa là tất cả các loại tài sản do nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát, như các loại giấy tờ có giá trị, quyền về tài chính… ). Các biện pháp được nhắc đến trong điều khoản này bao gồm các luật, quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định và các hoạt động quản trị hành chính hay những thông lệ được chính quyền trung ương, khu vực, địa phương và các tổ chức phi lợi nhuận (được chính quyền trung ương, khu vực, địa phương ủy quyền thực hiện) áp dụng. ACIA ra đời và thay thế hai Hiệp định AIA và IGA, do vậy, sẽ điều chỉnh cả các khoản đầu tư tồn tại trước thời điểm có hiệu lực của Hiệp định và cả các khoản đầu tư được thực hiện sau khi ACIA có hiệu lực. * Áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): Nhằm đảm bảo bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư ASEAN, ACIA quy định các quốc gia thành viên có nghĩa vụ áp dụng nguyên tắc MFN và NT trong lĩnh vực đầu tư: Nguyên tắc về đối xử quốc gia yêu cầu nước thành viên đối xử với các nhà đầu tư của các nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ không kém thuận lợi hơn những gì đã dành cho nhà đầu tư của nước mình, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn trong phạm vi tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư. So với các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết với các nước khác thì nội dung của nguyên tắc này vẫn được giữ nguyên, bởi việc áp dụng nguyên tắc này được coi là thông lệ quốc tế để đảm bảo cạnh tranh công bằng và ACIA cũng không là ngoại lệ… Theo nguyên tắc tối huệ quốc, nhà đầu tư của một nước thành viên khi đầu tư vào nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ được hưởng chế độ đãi ngộ (nhưng không giới hạn trong) về tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư như nhà đầu tư một nước bất kì được hưởng. Ngoài các nội dung trên ACIA còn quy định cụ thể các trường hợp ngoại lệ trong tự do hóa đầu tư vì các lý do an ninh quốc phòng, sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ các di sản văn hóa, thuần phong mỹ tục… * Bảo hộ đầu tư. Bảo hộ đầu tư cũng là một trong những phướng thức thực hiện tự do hóa đầu tư. Nhằm đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư và khoản đầu tư của họ. ACIA quy định các nước thành viên phải “ đối xử công bằng và bình đẳng với các nhà đầu tư”, “bảo hộ đầy đủ” đối với các khoản đầu tư và các lợi ích khác của nhà đầu tư. “ Đối xử công bằng và bình đẳng” tức là công bằng và vô tư trong các vụ kiện pháp lý, thủ tục hành chính hay bất cứ chính sách nào liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư. “Bảo hộ đầy đủ” có nghĩa là phải áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo hộ cho tất cả các khoản đầu tư và các quyền và lợi ích khác của nhà đầu tư. Bảo hộ đầu tư trong AIA được quy định từ điều 11 đến điều 16 ACIA, bao gồm các nội dung sau: Bồi thường trong trường hợp mất ổn định; Chuyển tiền; Tịch biên và bồi thường; Thế quyền; Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với quốc gia thành viên. Bên cạnh đó, trong bảo hộ đầu tư cũng sẽ có những trường hợp ngoại lệ, các trường hợp này được quy định tại các điều 19 khoản 3, 4, 5 và các điều 16, 17 và 18 của ACIA. Các trường hợp này liên quan đến đảm bảo cán cân thanh toán, an ninh quốc phòng, trật tự công cộng, sức khỏe con người, đạo đức, thuần phong mỹ tục… * Xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư. Xúc tiến đầu tư: Bao gồm các hoạt động phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và các công ty xuyên quốc gia; bổ sung doanh nghiệp và mạng lưới sản xuất; tổ chức đoàn khảo sát đầu tư; tập trung phát triển tổ hợp khu vực và mạng lưới sản xuất; tổ chức và hỗ trợ tổ chức hội thảo về cơ hội đầu tư, quy định, chính sách đầu tư và trao đổi những vấn đề có liên quan khác. Thuận lợi hóa đầu tư: Nhằm tạo môi trường thuận lợi cho tất cả các hình thức đầu tư, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN 2009 quy định các quốc gia thành viên có nghĩa vụ: đơn giản hóa thủ tục đăng ký và cấp phép đầu tư; phổ biến thông tin liên quan đến đầu tư (bao gồm quy định, quy tắc, chính sách); thành lập cơ quan một của về đầu tư; củng cố dữ liệu trong tất cả các hình thức đầu tư nhằm hoạch định chính sách cải thiện môi trường đầu tư nội khối; tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp về các vấn đề đầu tư; cung cấp dịch vụ tư vấn cho cộng đồng doanh nghiệp. So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa trong AEC với WTO. Đặt trong tương quan với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - tổ chức thương mại lớn nhất thế giới với hơn 150 quốc gia thành viên, có thể thấy vấn đề tự do hóa đầu tư giữa AEC với WTO có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng chứa đựng nhiều nét khác biệt. Khi so sánh vấn đề tự do hóa đầu tư giữa hai tổ chức đó cần dựa trên các văn bản điều chỉnh trong lĩnh vực này. Đối với Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) năm 2009 là cơ sở pháp lý chủ yếu cho việc thực hiện tự do hóa đầu tư; còn đối với WTO, không thể không nhắc đến Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) năm 1995. Từ các quy định trong hai văn bản này có thể đưa ra cái nhìn khái quát nhất về sự tương đồng và khác biệt trong lĩnh vực tự do hóa đầu tư của hai tổ chức. Sự tương đồng Sự tương đồng về phạm vi và mức độ tự do hóa đầu tư giữa AEC và WTO Cả WTO và AEC đều mở cửa và tự do hóa đầu tư rất nhiều lĩnh vực như: sản xuất công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng.... Bên cạnh những ngành mở cửa cho tự do đầu tư, cả AEC và WTO đều thừa nhận sự hạn chế đầu tư trong một số lĩnh vực nhạy cảm như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác. Cả WTO và AEC đều đặt ra các lộ trình tự do hóa đầu tư. Ví dụ như: Như đối với WTO, Điều 5 – TRIMs có quy định các thành viên phải xóa bỏ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hang hóa (TRIMs) đã thông báo trong vòng 2 năm kể từ ngày Hiệp đinh WTO có hiệu lực đối với các nước phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển và 7 năm đối với các nước kém phát triển. Hoặc như trong AEC, có lộ trình loại bỏ dần các biện pháp hạn chế đầu tư tạm thời đến năm 2010 đối với ASEAN 6 và đối với Việt Nam, Lào và Myanmar, Campuchia lần lượt là 2013, 2015 và 2017. Ngoài ra, cả Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO đều có những quy định cụ thể các trường hợp ngoại lệ trong tự do hóa đầu tư vì các lý do an ninh quốc phòng, sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ các di sản văn hóa, thuân phòng mỹ tục ( Xem thêm Điều 9, 10, 17 và 18 ACIA 2009, Điều 3 TRIMS, Điều 20, 21 GATT 1994). Từ đây thấy được mức độ tự do hóa AEC và WTO đều đi sâu và thực hiện với các biên pháp đã đề ra. Và AEC thì có phần kế thừa, tiếp thu từ WTO. Nguyên nhân của sự tương đồng. Do mục tiêu của cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO là phát triển kinh tế ổn định, thịnh vượng, có tính cạnh tranh cao và hội nhập nền kinh tế toàn cầu, nên chú trọng lĩnh vực đầu tư, thúc đẩy đầu tư phát triển là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Với việc ra đời sau tổ chức thương mại thế giới WTO, nên Cộng đồng kinh tế ASEAN ngoài việc phát huy lợi thế của mình, cũng đã biết kế thừa những quy định của WTO nhằm phù hợp với tình hình kinh tế của khối. Sự khác biệt Sự khác biệt về phạm vi và mức độ tự do hóa đầu tư giữa AEC và WTO: Về phạm vi tự do hóa đầu tư Đối với phạm vi tự do hóa đầu tư thì phạm vi tự do hóa đầu tư đối với các lĩnh vực trong WTO thì các thành viên của tổ chức này còn phải phụ thuộc vào sự cam kết của họ khi gia nhập WTO. Kết quả đàm phán cuối cùng được thể hiện trong Biểu cam kết cụ thể về mở cửa đầu tư. Mỗi nước thành viên WTO có một Biểu cam kết mở cửa đầu tư riêng. Đối với các ngành và phân ngành không xuất hiện trong Bảng cam kết đầu tư nước thành viên có thể tuỳ ý quyết định mở cửa hay không mở cửa, và mức độ mở cửa (nếu có) cho ngành, phân ngành và nhà đầu tư nước ngoài. Còn đối với AEC thi đều dựa trên Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA). Cho thấy được phạm vi tự do hóa dàu tư của AEC đều dựa trên một cam kết chung. Cộng đồng kinh tế ASEAN tiến hành mở cửa và tự do hóa đầu tư trong rất nhiều lĩnh vực. Cụ thể theo Điều 3 Khoản 3 ACIA thì các quốc gia thành viên sẽ mở cửa và tự do hóa đầu tư trong các lĩnh vực sau: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng và khai thác đá, các dịch vụ liên quan đi kèm với các lĩnh vực trên. Ngoài ra ACIA còn quy định cho phép tự do hóa đầu tư đối với bất kì lĩnh vực đầu tư nào được các nước thành viên nhất trí. Trong khi đó trong khuôn khổ Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) của Tổ chức thương mại thế giới quy định chỉ áp dụng tự do hóa đầu tư liên quan đến thương mại hàng hóa mà không áp dụng cho các lĩnh vực khác (Điều 1 Hiệp định TRIMs). Như vậy phạm vi các lĩnh vực đầu tư của WTO hạn chế hơn so với AEC. Về mức độ tự do hóa đầu tư Để đánh giá mức độ tự do hóa đầu tư ta sẽ xem xét những nội dung trên ASEAN thực hiện tới đâu. Đầu tư trong khuôn khổ khu vực đầu tư ASEAN chỉ bao gồm đầu tư trực tiếp, là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lí hoạt động đầu tư. Đối với WTO: đầu tư là hoạt động đem vốn, tài sản từ nước này sang một nước khác để kinh doanh, thu lợi nhuận (đầu tư nước ngoài). Theo nghĩa này, đầu tư bao gồm cả đầu tư trực tiếp (đầu tư thành lập hoặc mua lại doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp (chủ yếu qua thị trường chứng khoán). Cho đến nay, ngoài các quy định về đầu tư gắn với mở cửa thị trường dịch vụ (trong các cam kết cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ của từng nước thành viên), WTO mới chỉ đạt được các nguyên tắc bắt buộc chung về các biện pháp đầu tư mà các nước thành viên bị cấm không được áp dụng do cản trở quá lớn đến thương mại trong Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs). Còn đối với ASEAN, tự do hóa đầu tư được thể hiện trong Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) năm 2009, dựa trên 4 trụ cột là tự do hóa, bảo hộ, thuận lợi hóa và xúc tiến đầu tư; tự do hóa đầu tư sẽ được tiến hành từng bước, hướng tới mục tiêu xây dựng một môi trường đầu tư tự do và mở cửa trong khu vực, phù hợp với các mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN. ACIA cũng cho phép tự do hóa đối với các lĩnh vực khác trong tương lai. Như vậy, có thể thấy mức độ của tự do hóa đầu tư trong ASEAN ở mức độ cao hơn so với mức độ tự do hóa đầu tư của WTO, được thể hiện trong các phương thức và lĩnh vực đầu tư được quy định trong các hiệp định ACIA và TRIMs. Tuy nhiên, ACIA mới được ban hành chưa lâu, việc thực thi chưa có những thành quả nhất định. Trong khi đó, hiệp định TRIMs ra đời từ năm 1995, trải qua nhiều năm thi hành và đã có những hiệu quả nhất định đối với các nước thành viên. Vì vậy, sự so sánh về mức độ tự do hóa đầu tư giữa hai tổ chức này mới chỉ ở mức tương đối. Nguyên nhân của sự khác biệt Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về phạm vi thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Thứ nhất, xét về bối cảnh ra đời các hiệp định về đầu tư của hai tổ chức. Hiệp định TRIMs ra đời năm 1995, tình hình chính trị - an ninh thế giới diễn biến phức tạp với nhiều cuộc xung đột cục bộ, khu vực liên tiếp diễn ra, trong bối cảnh đó, WTO chỉ đặt ra vấn đề tự do hóa đầu tư về thương mại hàng hóa mà không phải là đầu tư toàn diện như ACIA là tương đối hợp lí bởi có quá nhiều vấn đề nhạy cảm giữa các nước trong thời điểm này, việc tự do hóa đầu tư sẽ có những giới hạn nhất định. Trong khi đó, ACIA ra đời năm 2009, khi mà xu thế toàn cầu hóa, đẩy mạnh giao lưu, hợp tác trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đã trở thành một xu thế tất yếu, chi phối mối quan hệ giữa các quốc gia. Do vậy, khi đề cập đến tự do hóa đầu tư, các quốc gia sẽ tính đến việc hợp tác đầu tư một cách toàn diện. Thứ hai, về quy mô của hai tổ chức: WTO hiện đang có hơn 150 thành viên, là tổ chức thương mại lớn nhất thế giới. Sự đa dạng, phức tạp về chế độ chính trị, thể chế nhà nước cũng như các chính sách phát triển kinh tế, chính trị là những yếu tố quan trọng dẫn đến sự hạn chế trong vấn đề tự do hóa đầu tư của các quốc gia thành viên WTO. Còn ASEAN là một tổ chức khu vực, hiện có 10 thành viên là các quốc gia Đông Nam Á. Số lượng thành viên ít hơn rất nhiều cùng với nhiều nét tương đồng đã khiến các quốc gia ASEAN có sự gắn kết chặt chẽ hơn, đó là tiền đề cơ bản dẫn đến chiến lược đầu tư toàn diện giữa các nước thành viên. KẾT LUẬN ASEAN có những lợi thế lớn để thu hút đầu tư nước ngoài, như đây là một khu vực kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, thị trường lớn, xuất khẩu cao, có nhiều chính sách ưu đãi và thu hút đầu tư nước ngoài, nguồn lao động rẻ và dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú. Do vậy mà việc thực hiện tự do hoá đầu tư nhằm đảm bảo tăng trưởng ổn định và bền vững, thúc đẩy tiến trình hội nhập toàn diện của ASEAN, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trung tâm luật Châu Á – Thái Bình Dương, Pháp luật cộng đồng ASEAN, 2011. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm đầu tư của Việt Nam theo quy định của WTO. Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2009/ Kiều Thị Thuỳ Linh. Hiệp định chung về thuế quan thương mại GATT 1994. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại TRIMS 1995. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) 2009.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBình luận tiến trình tự do hóa đầu tư trong cộng đồng kinh tế ASEAN dưới các góc độ- Những vấn đề lí luận về tự do hóa đầu tư; Các công cụ pháp lý thự.doc
Tài liệu liên quan