Tiểu luận Bình luận tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa trong Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC

MỤC LỤC

NỘI DUNG

5. KHÁI QUÁT VỀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA

TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) 1

5.1 Một số khái niệm cơ bản 1

1.1.1 Khái niệm và bản chất của tự do hóa thương mại hàng hóa. 1

1.1.2 Các biện pháp thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa trong AEC 1

1.1.2.1 Dỡ bỏ các rào cản thương mại 1

1.1.2.2 Các biện pháp thuận lợi hóa thương mại hàng hóa 2

1.2 Tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN – Từ PTA

đến AFTA và AEC 2

2 CÔNG CỤ PHÁP LÝ THỰC HIỆN TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI

HÀNG HÓA TRONG AEC 3

2.1 Các văn kiện pháp lý đa phương 3

2.2 Các cam kết đơn phương của quốc gia thành viên 4

2.3 Các vòng đàm phán 4

3 PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG

HÓA TRONG AEC 5

4 MỐI TƯƠNG QUAN VỀ PHẠM VI VÀ MỨC ĐỘ TỰ DO HÓA

TRONG AEC SO VỚI WTO. 6

4.1 Một số vấn đề khái quát về WTO 6

4.2 So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC

so với WTO 7

4.2.1 Về phạm vi tự do hóa 7

4.2.2 Về mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC so với WTO 7

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5702 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bình luận tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa trong Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến hành dễ dàng hơn trên cơ sở đảm bảo cân đối cán cân xuất khẩu, nhập khẩu của quốc gia đó. 1.1.2 Các biện pháp thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa trong AEC Trong khuôn khổ ASEAN, trên cơ sở các công cụ pháp lý được hình thành xuyên suốt tiến trình tự do hóa thuơng mại hàng hóa ở khu vực (được đề cập chi tiết tại Mục 2), các biện pháp thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN có thể được chia thành hai nhóm biện pháp lớn, đó là: nhóm các biện pháp dỡ bỏ các rào cản thương mại và nhóm các biện pháp thuận lợi hóa thương mại hàng hóa. Theo đó, tự do hóa thương mại hàng hóa được thực hiện thông qua việc cắt giảm, xóa bỏ các rào cản thuế quan; xóa bỏ các rào cản phi thuế quan; thiết lập quy tắc xuất xứ; tiến hành các biện pháp thuận lợi hóa thương mại; hợp tác hải quan và hài hòa, nhất thể hóa hàng rào tiêu chuẩn và kỹ thuật trong thương mại. Cụ thể: 1.1.2.1 Dỡ bỏ các rào cản thương mại Thuế quan và các biện pháp phi thuế quan là các rào cản chính trong thương mại quốc tế. Trong đó, rào cản thuế quan là loại rào cản phổ biến nhất và mang tính chất truyền thống. Thuế quan được hiểu là loại thuế đánh vào hàng hóa khi hàng hóa đó di chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác, được xác định và phân loại trên cơ sở các mức thuế áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu Định nghĩa thuế quan trong phạm vi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được quy định chi tiết tại Điều 2, Khoản 1, Điểm c Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (2009). . Hiện nay, do loại hàng rào thuế quan có bản chất mâu thuẫn với tiến trình tự do hóa thương mại nên có xu hướng dần được cắt giảm tiến tới xóa bỏ hoàn toàn với lộ trình xác định. Thuế quan là biện pháp bảo hộ cụ thể và mang tính định lượng rõ ràng nhất, do đó việc nhượng bộ trong đàm phán nhằm hạn chế thuế quan thường dễ dàng hơn so với thương lượng xóa bỏ các hình thức bảo hộ thương mại khác. Trong phạm vi Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC tự do hóa thuế quan được thực hiện trên cơ sở hai văn kiện pháp lý quan trọng là Hiệp định CEPT và Hiệp định ATIGA. Rào cản phi thuế quan được định nghĩa là: Các biện pháp ngoài biện pháp thuế quan cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hóa trong một quốc gia thành viên. Điều 2, khoản 1, điểm k Hiệp định ATIGA. Như vậy, không phải tất cả các biện pháp phi thuế quan (không phải thuế quan) đều là các rào cản thuế quan cần được xóa bỏ. Rào cản phi thuế quan chỉ bao gồm một số các biện pháp phi thuế quan gây cản trở thương mại quốc tế mà không dựa trên cơ sở khoa học, bình đẳng hoặc được đặt ra quá mức cần thiết và vi phạm nguyên tắc đối với quốc gia. Rào cản phi thuế quan chủ yếu bao gồm hai bộ phận cơ bản, đó là: rào cản pháp lý (ví dụ: Các biện pháp cấm, hạn ngạch về số lượng hoặc giá trị được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định; giấy phép xuất nhập khẩu) hoặc các rào cản kỹ thuật (ví dụ: các tiêu chuẩn kỹ thuật trong thương mại như quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh…). Việc nới lỏng các rào cản phi thuế quan có thể được thực hiện theo hai cách phổ biến Một là, chuyển từ việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan sang áp dụng thuế quan ở mức bảo hộ tương đương. Hai là, xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan mà không sử dụng thuế quan như công cụ bảo hộ mậu dịch thay thế. . Trong phạm vi Cộng đồng kinh tế ASEAN, Hiệp định CEPT và ATIGA đều quy định việc dỡ bỏ chung đối với các hạn chế về số lượng. Các biện pháp phi thuế quan khác khi được xác định là rào cản thương mại cũng được yêu cầu đưa vào chương trình xóa bỏ của quốc gia thành viên. Việc xóa bỏ dần các rào cản phi thuế quan mặc dù rất phức tạp và khó khăn nhưng lại là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa. 1.1.2.2 Các biện pháp thuận lợi hóa thương mại hàng hóa Thuận lợi hóa thương mại hàng hóa bao gồm các biện pháp, chính sách và chương trình nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi, nhất quán và minh bạch và có thể dự doán được đối với trao đổi thương mại hàng hóa giữa các quốc gia thành viên, bao gồm các biện pháp liên quan đến thủ tục hải quan; các biện pháp hài hòa, nhất thể hóa hàng rào tiêu chuẩn và kỹ thuật trong thương mại… Các biện pháp này tuy không tác động rõ nét, nhanh chóng tới tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa như các biện pháp dỡ bỏ rào cản thương mại (1.1.2.1) nhưng thuận lợi hóa thương mại hàng hóa vẫn là một trong các nội dung quan trọng tạo điều kiện cho luồng hàng hóa di chuyển thuận lợi giữa các quốc gia ASEAN và hoàn thành AFTA, tức là xây dựng thành công thị trường hàng hóa đơn nhất giữa các quốc gia ASEAN. Tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN–Từ PTA đến AFTA và AEC Ở thập kỷ 70, chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (giảm bớt các hàng rào bảo hộ công nghiệp) mang lại những kết quả khả quan bước đầu, tăng tỷ lệ buôn bán nội bộ ngành giữa các nước thành viên ASEAN góp phần tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự quan tâm của các quốc gia đối với việc thúc đẩy trao đổi buôn bán ở khu vực. Nhận thức được lợi ích của tự do hóa thương mại trong hợp tác kinh tế, các nước ASEAN đã cùng nhau tiến hành các hoạt động tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ Chương trình ưu đãi thuế quan (PTA). PTA được thành lập năm 1977 theo Hiệp định về các thỏa thuận ưu đãi thương mại đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho những chính sách thương mại tự do thông thoáng và hợp lý sau này, khởi động tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN thông qua các cam kết cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng cơ bản. Bước vào những năm 90, đứng trước tác động của xu thế thành lập khu vực thương mại tự do trên thế giới cùng những ảnh hưởng nội tại khu vực ASEAN như hạn chế về năng lực cạnh tranh, quá trình công nghiệp hóa khiến quy mô sản xuất và sản phẩm hàng hóa tăng nhanh…là động lực để các quốc gia nâng cấp tiến trình tự do hóa thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các nước thành viên. Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) ra đời năm 1992 trên cơ sở Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) được coi như một động thái tích cực của khu vực trước tình hình trên khi việc thực hiện PTA tỏ ra chậm chạp, kém hiệu quả (ngay cả khi có những sửa đổi bổ sung vào cuối thập kỷ 80). Một trong các mục tiêu hàng đầu khi khởi xướng ý tưởng thành lập AFTA chính là thúc đẩy hơn nữa tự do hóa thương mại, tăng cường trao đổi buôn bán nội khối thông qua các quy định về loại bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan theo một lộ trình đã cam kết. AFTA có thể coi là chương trình hợp tác kinh tế có ý nghĩa nhất, khả thi sớm nhất và toàn diện nhất ở ASEAN trong giai đoạn này để đáp ứng những yêu cầu phát triển của khu vực và thế giới. Nét mới nổi bật trong hợp tác kinh tế nói chung, tự do hóa thương mại nói riêng trong khuôn khổ ASEAN ở những năm tiếp theo được đánh dấu bằng sự ra đời của khái niệm Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) trong Tuyên bố Bali II năm 2003. AEC được xây dựng dựa trên những tiền đề lý luận, thực tiễn cũng như pháp lý vững chắc là cơ sở để các quốc gia ASEAN đẩy mạnh hợp tác kinh tế cả về chiều rộng lẫn bề sâu, trong đó bao gồm cả quyết tâm của các quốc gia hướng tới việc nhất thể hóa thị trường và cơ sở sản xuất của các nền kinh tế thành viên thông qua tự do hóa các yếu tố sản xuất (như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư…). Tính đến thời điểm năm 2003, các nước ASEAN–6 gần như đã hoàn thành AFTA. Trong khi đó, ASEAN-4 cũng đã xác định được lộ trình giảm thuế trong khuôn khổ AFTA và đang từng bước được đưa vào thực hiện. Do đó, AEC – cấp độ liên kết khu vực cao hơn chính là sự phát triển khách quan của hợp tác kinh tế cũng như tự do hóa thương mại hàng hóa trong khu vực. CÔNG CỤ PHÁP LÝ THỰC HIỆN TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA TRONG AEC Các văn kiện pháp lý đa phương Cộng đồng kinh tế ASEAN là liên kết kinh tế của ASEAN, hình thành trên cơ sở một hệ thống thể chế và thiết chế pháp lý, nhằm xây dựng ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, có tính cạnh tranh cao, phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế thành viên và hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu. Tự do hóa thương mại hàng hóa là một trong năm yếu tố cốt lõi đề hoàn thành mục tiêu nhất thể hóa thị trường và cơ sở sản xuất của các nền kinh tế thành viên, do đó hoạt động tự do hóa TMHH giữa các quốc gia thành viên không thể tách rời các văn kiện có ý nghĩa nền tảng cho việc xây dựng AEC. Đồng thời, các hoạt động đó cũng được triển khai trên cơ sở các thiết chế pháp lý cơ bản của AEC có trách nhiệm quản lý, điều hành, tư vấn trong lĩnh vực tự do hóa thương mại ở khu vực. Cụ thể, các văn kiện pháp lý đa phương có ý nghĩa xây dựng hàng lang pháp lý cơ bản cho hoạt động tự do hóa TMHH trong khuôn khổ ASEAN phải kể đến: Hiệp định về các thỏa thuận ưu đãi thương mại (PTA); Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN 1992; Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA 1992 cùng 13 nghị định thư bổ sung và sửa đổi; Hiệp định khung về hội nhập các ngành ưu tiên APIS 2004. Đáng quan tâm nhất hiện nay đó chính là Hiệp định về thương mại hàng hóa ASEAN: ATIGA – văn kiện toàn diện nhất trong khu vực điều chỉnh các lĩnh vực hợp tác về thương mại hàng hóa. Sự ra đời của các văn kiện kể trên tạo lên các ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên về phương thức thực hiện tự do hóa TMHH cũng như các cam kết về lộ trình chung. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động của các thiết chế pháp lý cơ bản trong AEC như Hội nghị cấp cao, Hội đồng điều phối, Hội đồng AEC cùng Hội đồng khu vực thương mại tự do ASEAN (Hội đồng AFTA) các hoạt động bổ trợ cho việc đảm bảo thi hành, chấp hành nội dung trong các văn kiện pháp lý đa phương về tự do hóa TMHH được tăng cường, qua đó tạo điều kiện để các nội dung pháp lý có mục tiêu thúc đẩy tự do hàng hóa đạt được hiệu quả trên thực tiễn. Các cam kết đơn phương của quốc gia thành viên Quá trình tự do hóa thương mại có thể được thực hiện thông qua các chương trình với các cấp độ và phạm vi khác nhau. Bên cạnh các Hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa thể hiện mức độ tiến hành ở cấp độ khu vực và đa phương, hoạt động tự do hóa thương mại cũng có thể được thực hiện một cách đơn phương thông qua cam kết của các quốc gia thành viên khi tham gia vào tiến trình tự do hóa TMHH chung của khu vực. Tự do hóa thương mại đơn phương là việc các nước đơn phương loại bỏ các rào cản nhập khẩu, xuất khẩu hay trợ cấp…mà không đòi hỏi các đối tác có hành động tương tự đáp lại. Tự do hóa thương mại đơn phương có thể mang tới những lợi ích đáng kể mà không cần phải đàm phán với các nước khác. Lợi ích đạt được rất lớn nhưng lợi ích từ gia nhập thị trường là hạn chế bởi vì các nước khác không mở cửa thị trường của họ. Ngoài ra việc tăng đáng kể nhập khẩu (mặc dù ngưòi tiêu dùng có thể cho đây là một lợi thế), giảm nguồn thu thuế và mất đi khả năng thương lượng là những lí do khiến các cam kết đơn phương ít được các quốc gia thành viên ASEAN sử dụng trong thúc đẩy luồng di chuyển hàng hóa giữa các quốc gia trong AEC. Các vòng đàm phán Một công cụ pháp lý khác nhằm thực hiện việc dỡ bỏ các rào cản thương mại phải kể đến đó chính là các vòng đàm phán của các nước ASEAN trong lĩnh vực thương mại tự do. Nếu như đối với tiến trình tự do hòa thương mại dịch vụ của AEC, các vòng đàm phán mang tới những gói cam kết quan trọng đối với tự do hóa dịch vụ ở khu vực như: Kết quả của vòng đàm phán thứ 5, ASEAN hoàn thành gói cam kết thứ 7 bao trùm hơn 65 phân ngành dịch vụ và đã ký nghị định thư thực hiện gói cam kết thứ 8. Gói cam kết dịch vụ lần thứ 8 đưa ra lịch trình tự do hóa đối với 15 phân ngành mới…thì công cụ pháp lý này không chiếm vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do hóa hàng hóa ở ASEAN. Các cuộc đàm phán nội khối đã diễn ra giữa các quốc gia ASEAN liên quan đến tự do hóa TMHH chỉ chủ yếu giúp cho việc hình thành AFTA mà không đặt ra các cam kết mới là bởi đối với các rào cản dịch vụ vốn đa dạng, khó định lượng thì các vòng đàm phán là cơ hội để các quốc gia chia sẻ quan điểm về tự do hóa dịch vụ và đi tới thống nhất phương thức dỡ bỏ rào cản thông qua gói cam kết còn đối với các rào cản đối với tự do hóa TMHH chủ yếu dễ định lượng thì các cam kết đa phương trong các Hiệp định đa biên là đủ để cắt giảm, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn rào cản đó. PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA TRONG AEC Để những cam kết đơn phương cũng như các thỏa thuận thống nhất trong các văn kiện pháp lý đa phương về thương mại tự do giữa các quốc gia ASEAN được triển khai hiệu quả trên thực tế đòi hỏi những cam kết này phải được quy định chặt chẽ về lộ trình cùng các kênh triển khai xác định. Hay nói cách khác, nếu các công cụ pháp lý là cơ sở để hình thành các nội dung pháp lý về tự do hóa thương mại hàng hóa trong khu vực thì phương thức thực hiện hoạt động chỉ ra phương pháp (cách thức) và hình thức tiến hành hoạt động đó. Và như vậy, phương thức thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa trong AEC có thể được hiểu là tập hợp các cách thức và hình thức gỡ bỏ các rào cản thương mại hàng hóa giữa các nước thành viên và thực hiện các hoạt động thuận lợi hóa TMHH. Những vấn đề này được ghi nhận cụ thể, chi tiết trong các công cụ pháp lý mà trong đó Hiệp định ATIGA, với tính chất kế thừa và bổ sung toàn diện các vấn đề pháp lý về tự do hóa TMHH là “xương sống” cho việc xác định. Đối với hoạt động cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan, các quốc gia ASEAN thống nhất trong ATIGA thực hiện theo cơ chế phân chia các loại hàng hóa thành 08 danh mục cắt giảm thuế quan khác nhau (thay vì 4 danh mục như trong Hiệp định CEPT) với các lộ trình cắt giảm, xóa bỏ thuế quan chi tiết, linh hoạt hơn ATIGA quy định rõ số dòng thuế được lùi thời hạn xóa bỏ thuế quan đến năm 2018 với nhóm bốn nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam (CLMV), đồng thời, cho phép tạm ngừng hoặc điều chỉnh cam kết thực hiện nghĩa vụ cắt giảm, xóa bỏ thuế quan giữa các nước trong khối ASEAN. so với Hiệp định CEPT (Điều 19) nhằm tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thuế quan (mức thuế 0%) đối với tất cả các sản phẩm Trừ các sản phẩm thuộc diện loại trừ hoàn toàn theo Danh mục H (Điều 19, Khoản 2, Điểm h Hiệp định ATIGA) trong quan hệ nội khối vào năm 2010 đối với ASEAN 6 và vào năm 2015, linh hoạt tới năm 2018 với CLMV. Trên cơ sở tuân thủ lộ trình chung được vạch sẵn, mỗi quốc gia thành viên sẽ xây dựng lộ trình cắt giảm thuế quan chi tiết của mình phù hợp. Các quốc gia thành viên cũng có quyền lựa chọn kênh cắt giảm thuế nhanh hoặc kênh cắt giảm thông thường. Xét một cách tổng quát, hình thức tiến hành hoạt động tự do hóa TMHH trong AEC được quy định tương đối linh hoạt và mở, thể hiện ưu đãi đối với quốc gia kém phát triển hơn trong khu vực như: kéo dài thời gian thực hiện lộ trình, được hỗ trợ nhiều hơn về kỹ thuật, giảm bớt một số nghĩa vụ…Ví dụ: các quốc gia CLMV được thực hiện CEPT chậm hơn so với lộ trình chung theo nguyên tắc –X. Cơ chế mềm dẻo nhưng rất cụ thể và rõ ràng đã tạo nên hiệu quả đáng kể trong việc thực hiện tự do hóa TMHH của ASEAN khi chương trình CEPT đã được rút ngắn xuống 10 năm so với ban đầu cùng rất nhiều những thành quả khác không chỉ trong khối ASEAN 6 mà còn đối với cả nhóm nước CLMV. Ngoài ra, cách thức thực hiện cắt giảm/xóa bỏ thuế quan của AEC cũng tương đối đơn giản, hàng hóa căn cứ theo mức thuế suất hiện tại sẽ được cắt giảm dần từng bước giữa nhóm các danh mục hàng hóa khác nhau để đạt mức thuế xuất xác định (0– 5% đối với CEPT và ATIGA là 0%). VD: Các loại hàng hóa trong TEL sẽ bắt đầu cắt giảm chậm hơn so với IL 3 năm và kể từ một thời điểm xác định, 20% các mặt hàng từ TEL sẽ được chuyển dần xuống IL mỗi năm và đến hết thời hạn chuyển (5 năm) thì IL bao trùm TEL và TEL không còn tồn tại nữa (Theo CEPT). Đối với các rào cản phi thuế quan, phương thức thực hiện hoạt động này cũng được CEPT, ATIGA quy định tương đối uyển chuyển với các bước tiến hành cụ thể, ưu tiên các quốc gia CLMV được kéo dài lộ trình xóa bỏ các rào cản phi thuế quan trong danh sách đã được xác định (thông qua việc Hội đồng AFTA chấp thuận bảng tự kê khai xóa bỏ của quốc gia thành viên hoặc Ủy ban điều phối thực hiện ATIGA rà soát và xác định). Về thuận lợi hóa thượng mại hàng hóa: ASEAN đã tách biệt hẳn thuận lợi hóa TMHH độc lập với xóa bỏ rào cản thương mại nhằm nhấn mạnh cũng như khẳng định tầm quan trọng của phương thức này trong tự do hóa TMHH. ASEAN dành một chương riêng biệt trong ATIGA quy định về cách thức thuận lợi hóa thương mại với những nguyên tắc rõ ràng, cụ thể tại chương 5 của Hiệp định. Ngoài ra ATIGA còn đòi hỏi mỗi quốc gia Thành viên phải thành lập một Ủy ban điều phối thuận lợi hóa thương mại hoặc điểm hỏi đáp ở cấp quốc gia, cho thấy nỗ lực của ASEAN trong việc thực hiện phương thức này. Theo đánh giá chủ quan, phương thức tách biệt này là khá mềm dẻo phù hợp và có khả năng đem lại hiệu quả cao. Như vậy, với đặc trưng là số lượng thành viên tương đối ít so với các liên kết kinh tế khác trên thế giới và trình độ phát triển có sự chênh lệch giữa các quốc gia thành viên, phương thức thực hiện tự do hóa TMHH của AEC không chỉ mang tính chất chung chung, tổng quát ở cấp độ khu vực mà là sự hướng dẫn cụ thể với mục tiêu rõ ràng và thời hạn cần thiết ở từng quốc gia phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Điều này đã giúp cho các quốc gia kém phát triển lựa chọn được hướng đi đúng cho mình, tạo điều kiện phát triển kinh tế và tiến tới dần xóa bỏ khoảng cách phát triển. Ngoài ra, lợi thế về sự ra đời muộn của AEC cũng cho phép AEC kế thừa những ưu điểm về phương thức tự do hóa thương mại của các tổ chức, các liên kết kinh tế có quy mô lớn và thời gian hoạt động dài như WTO, EU…Đó cũng là lí do giải thích cho nhiều điểm tương đồng giữa AEC với WTO hay EU. MỐI TƯƠNG QUAN VỀ PHẠM VI VÀ MỨC ĐỘ TỰ DO HÓA TRONG AEC SO VỚI WTO. 4.1 Một số vấn đề khái quát về WTO WTO – tổ chức thương mại thế giới hiện có 153 quốc gia thành viên được hình thành trên cơ sở ban đầu là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947) được ký sau thế chiến thứ 2. Mục tiêu trọng tâm của WTO là góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho tự do thương mại nhưng vẫn tránh được những tác hại không mong muốn do một số hành vi tự phát của một số cá nhân, tổ chức mang lại. Đó là xoá bỏ những rào cản thương mại, thông báo những quy định thương mại hiện hành trên thế giới cho các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời bảo đảm với họ sẽ không có thay đổi đột ngột nào trong các chính sách, pháp luật đang được áp dụng. Hạt nhân của thiết chế pháp lý quốc tế này là các hiệp định của WTO được các nước, các nền kinh tế tham gia quan hệ thương mại quốc tế xây dựng và cam kết thực hiện. Liên quan đến tự do hóa thương mại, nhất là thương mại hàng hóa, đáng quan tâm nhất hiện nay phải kể đến Hiệp định GATT 1994. 4.2 So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC với WTO 4.2.1 Về phạm vi tự do hóa Phạm vi tự do hóa thương mại hàng hóa của WTO cũng như của AEC được thể hiện thông qua các công cụ pháp lý tiến hành tự do hóa hàng hóa. Đối với WTO, tự do hoá thương mại từng bước gắn với việc dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại thông qua các vòng đàm phán song phương và đa phương. Đây là cơ sở cho việc hình thành hệ thống các Hiệp định đa biên quan trọng về thương mại hàng hóa, phản ánh bề rộng, sự đa dạng trong các lĩnh vực cam kết tự do hóa của WTO. Bên cạnh Hiệp định GATT 1994 có quy định về giảm bớt các rào cản thuế quan và loại bỏ các rào cản phi thuế quan, WTO còn có 12 Hiệp định khác trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, bao trùm các lĩnh vực sau: nông nghiệp; các biện pháp vệ sinh y tế và vệ sinh thực vật; dệt và may mặc; các hàng rào kỹ thuật trong thương mại; các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại; chống bán phá giá; định giá hải quan; giám kiểm hàng hoá trước khi giao hàng; các quy tắc xuất xứ; cấp giấy phép nhập khẩu; chống trợ cấp; các biện pháp tự vệ. Trên cơ sở nghiên cứu phạm vi tiến hành tự do hóa của AEC (tại Mục 1.1.2), cho phép xác định một số lĩnh vực cả AEC và WTO đều tiến hành tự do hóa TMHH, đó là: tự do hóa thuế quan, các biện pháp phi thuế quan và tự do hóa trong các quy định về xuất xứ hàng hóa, tự do hóa thủ tục hải quan, tự do hóa tiêu chuẩn, quy định kĩ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp, các biện pháp vệ sinh dịch tễ…Có thế nói, với việc cùng chia sẻ mục tiêu chung của cả AEC và WTO là thúc đẩy thương mại tự do giữa các nước thành viên thì hiển nhiên việc chia sẻ các lĩnh vực tự do hóa TMHH quan trọng hàng đầu như gỡ bỏ rào cản thuế quan và phi thuế quan…là điều hoàn toàn dể hiểu. Bên cạnh đó, với tiền đề ra đời từ rất sớm – nền móng mở ra xu hướng tự do hóa thương mại trên thế giới và quy mô thành viên lớn với sự hội tụ của các đầu tàu trong nền kinh tế thế giới hiện nay, WTO có nhiều cơ hội và điều kiện để mở rộng các lĩnh vực tự do hóa, điều này chính là bất lợi mà các liên kết như AEC khó có thể theo kịp trong thời gian ngắn. Đó cũng là lí do giải thích cho sự hạn chế trong phạm vi các lĩnh vực tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC so với WTO. 4.2.2 Về mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC so với WTO Nếu như về phạm vi tiến hành tự do hóa WTO tỏ ra có ưu thế hơn thì xét về mức độ tự do hóa trong từng lĩnh vực trọng điểm, AEC lại bộc lộ mức độ tự do hóa rõ ràng, sâu sắc do những đặc trưng về số lượng thành viên ít cũng như khoảng cách phát triển lớn…Cụ thể: Chẳng hạn, khi xét về mức độ tự do hóa trong lĩnh vực thuế quan, thì AEC đã tiến hành thành công việc cắt giảm thuế quan xuống 0-5% với tuyệt đại đa số các loại hàng hóa. Song, với mục tiêu tự do hóa hoàn toàn thuế quan, ATIGA tiếp tục đưa ra chương trình cắt giảm thuế quan nhằm hoàn thành AFTA. Theo quy định của ATIGA, các quốc gia thành viên sẽ xóa bỏ thuế quan (mức thuế 0%), đồng thời xóa bỏ hạn ngạch thuế quan đối với tất cả các sản phẩm trong quan hệ thương mại nội khối vào năm 2010 đối với ASEAN 6 và linh hoạt tới năm 2018. Trong khi đó, ở WTO với bản chất thương mại là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau nên WTO mới chỉ thực hiện việc cắt giảm thuế quan, cụ thể, sau Vòng đàm phán Uruguay, mức thuế suất đối với hàng công nghiệp chỉ còn trung bình 3,8%, với các sản phẩm nông nghiệp thì các nước phát triển, đang phát triển đều cắt giảm thuế quan tương ứng 36% và 24%. Tuy nhiên, WTO vẫn chưa tiến tới mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn thuế quan như AEC đã thực hiện. Thậm chí, trong việc xóa bỏ các hạn ngạch thuế quan cũng chỉ hạn chế trong lĩnh vực nông nghiệp theo quy định tại Phụ lục 1, Hiệp định Nông nghiệp AoA. Đối với các biện pháp phi thuế quan thì việc tiến hành tự do hóa thủ tục hải quan là một vấn đề chiến lược bởi nó sẽ tạo được một hệ thống xác định giá trị hải quan của hàng hóa một cách công bằng, thống nhất, khách quan và phù hợp với các thực tiễn thương mại, ngăn cấm việc sử dụng những mức giá tùy tiện hay giả định, góp phần thuận lợi hóa quá trình tự do thương mại hàng hóa. Nếu như WTO có Hiệp định CVA đưa ra các quy định về áp giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu, các nguyên tắc cụ thể trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hoá, bắt buộc các thành viên phải thực thi đúng và minh bạch thì ở AEC lại đi sâu vào việc thống nhất biểu thuế quan, thống nhất hệ thống tính giá hải quan, xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan và thống nhất thủ tục hải quan. Rõ ràng, AEC đã có những bước tiến mạnh dạn hơn so với WTO thể hiện mức độ tự do hóa sâu sắc hơn của mình. Đặc biệt đối với các vấn đề liên quan đến tự do hóa xuất xứ hàng hóa thì ở WTO lại trở nên vô cùng nan giải. Mặc dù WTO đã thiết lập hẳn một Hiệp định về xuất xứ hàng hóa, với mục đích nhằm hài hòa hóa các qui tắc xuất xứ trong dài hạn, thay vì các qui tắc xuất xứ liên quan đến việc cấp ưu đãi thuế quan, và đảm bảo rằng các qui tắc xuất xứ bản thân nó không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại, song theo như nhận định của Mette Werdelin Azzam, một nhân viên kỹ thuật làm việc cho Tổ Chức Hải Quan Thế Giới (WCO) thì “Họ không thể nào đạt được sự đồng thuận về vấn đề dung hòa các quy định về xuất xứ trong WTO”. Trong khi đó, tại AEC, Khoản 1, Điều 22 ATIGA đã quy định: “Các sản phẩm mà thuế quan của quốc gia thành viên xuất khẩu đã đạt hoặc ở mức 20% hoặc thấp hơn, và đáp ứng được các quy định về quy tắc xuất xứ như được quy định tại Chương 3 (về quy tắc xuất xứ), sẽ tự động được hưởng cam kết thuế quan của quốc gia thành viên nhập khẩu”. Như vậy, các nước ASEAN đã đưa ra được một quy tắc thống nhất cơ bản để được hưởng ưu đãi thương mại trong AFTA là phải có xuất xứ ASEAN. Như vậy, những dẫn chứng trên đây chính là sự khẳng định thành công của ASEAN khi đẩy tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa ở khu vực đi vào chiều sâu, bên cạnh hạn chế về phạm vi tự do hóa thương mại hàng hóa trong AEC chưa thực sự toàn diện và đa dạng. KẾT LUẬN Thông qua bài viết trên ta thấy rằng, mặc dù ASEAN chỉ là một tổ chức mang tầm cỡ khu vực, lại có xuất phát điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa thấp hơn rất nhiều so với các tổ chức quốc tế, song những bước tiến mà nó đạt được trong tiến trình tự do hóa thương mại mà đặc biệt là tự do hóa thương mại hàng hóa là không thể phủ nhận. Đồng thời, trong mối tương quan với WTO – tổ chức có lịch sử bề dày hoạt động trên thế gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập asean- Bình luận tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa trong Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC.doc
Tài liệu liên quan