Tiểu luận Bình luận truyền hình Việt Nam trong tiến trình hội nhập

MỤC LỤC

I. Khái niệm và đặc điểm truyền hình - 3 -

1. Khái niệm - 3 -

2. Đặc điểm loại hình của truyền hình - 5 -

3. Sơ lược lịch sử truyền hình - 6 -

3.1. Trên thế giới - 6 -

3.2. Đài THVN là Đài truyền hình quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam và là đài phủ sóng toàn quốc duy nhất tại Việt Nam - 8 -

II. Kĩ thuật sản xuất các chương trình truyền hình - 9 -

1. Chương trình truyền hình - 9 -

2. Quy trình sản xuất chương trình truyền hình - 12 -

III. Bình luận truyền hình Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 15 -

1. Bình luận và bình luận truyền hình - 15 -

2. Những cơ hội và thách thức của bình luận trên truyền hình trước quá trình hội nhập của Việt Nam - 18 -

2.1. Cơ hội lớn - 18 -

2.2. Thách thức phải vượt qua - 22 -

KẾT LUẬN - 27 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO - 28 -

 

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bình luận truyền hình Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Anh, Pháp, Đức…truyền hình nhanh chóng trở thành mạng phủ sóng rộng khắp trên phạm vi quốc gia. - Vào giữa những năm 50 của thế kỷ XX, truyền hình màu xuất hiện ở Mỹ, sau đó nhanh chóng mở rộng sang Tây Âu và Nhật Bản. Người Nhật Bản nhanh chóng tìm thấy sự hấp dẫn của truyền hình màu cả về những khía cạnh xã hội và thương mại của nó. Công nghệ truyền hình màu và sản xuất các thiết bị cho nó được phát triển đặc biệt nhanh ở Nhật Bản từ đầu những năm 60. Quá trình phát triển truyền hình đồng thời với quá trình phát triển khuôn khổ màn hình, tăng giờ, tăng kênh phát sóngvà đa hệ hoá, tiêu chuẩn hoá kỹ thuật đối với thiết bị thu nhận tín hiệu truyền hình. - Truyền hình cáp bùng nổ vào thập niên 70 của thế kỷ XX ở Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản với sự giúp đỡ của các vệ tinh nhân tạo trong việc chuyển tiếp những chương trình. Tuy nhiên, từ năm 1949, truyền hình cáp đã xuất hiện ở Mỹ. Mục đích ban đầu của truyền hình cáp là nhằm khắc phục tình trạng khó phủ sóng ở các khu vực địa hình núi non hiểm trở. Hệ thống truyền hình cáp đầu tiên được thiết lập ở Pensinvania và Ôrêgiôn mới chỉ đựoc 3-5 kênh. Hiện nay đã có những kênh truyền hình cáp khổng lồ như CNN với gần 60 triệu thuê bao Ngày nay, truyền hình trên thế giới đang là một phương tiện truyền thông đại chúng phổ biến và có sức mạnh đặc biệt mà khó có phương tiện truyền thông nào khác sánh nổi. Chắc chắn truyền hình còn giữ được những ưu thế ấy trong thời gian dài nữa nhờ việc phát triển phong phú các loại chương trình, mở ra nhiều loại hình dịch vụ giải trí phục vụ cho nhu cầu đa dạng của con người. Với sự giúp đỡ của mạng lưới vệ tinh địa tĩnh trong không gian, các chương trình được truyền đi khắp thế giới bất chấp các biên gới quốc gia. Việc ứng dụng kĩ thuật số mở ra cho truyền hình những khả năng càng to lớn hơn trong việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng, thu hút công chúng. Trong khoảng 30 năm cuối thế kỉ X, số lượng máy thu hình trên thế gới đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng. Nếu năm 1970 trên toàn thế giới, số lượng máy thu hình tính bình quân trên 1000 dân là 81 máy thì năm 1997, con số đó là 240 máy, tăng gấp 3 lần. Số liện tương tự ở các nước phát triển là 9,9 và và 157 máy và ở các nước chậm phát triển là 0,5 và 28 máy, tức là tăng 55 lần. 3.2. Đài THVN là Đài truyền hình quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam và là đài phủ sóng toàn quốc duy nhất tại Việt Nam Đài được thành lập vào ngày 7/9/1970 từ một ban biên tập thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 1976, Đài tách khỏi Đài Tiếng Nói Việt Nam và chuyển trụ sở sang khu vực Giảng Võ hiện nay. Đài chính thức được đặt tên là Đài Truyền Hình Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1987 và bắt đầu từ đó Đài trở thành Đài Truyền hình Quốc gia . Một số dấu mốc quan trọng của Đài THVN - Ngày 7/9/1970: VTV được thành lập từ một ban biên tập của Đài Tiếng nói Việt Nam - 1976: Tách khỏi Đài Tiếng nói Việt Nam và chuyển tới địa điểm mới - 30/4/1987: Đài chính thức được đặt tên là Đài Truyền Hình Việt Nam - Ngày 1/1/1990: Bắt đầu phát sóng song song 2 kênh: VTV1 và VTV2 - Tháng 2/1991: Bắt đầu phát sóng vệ tinh kênh VTV1 để các đài địa phương thu và phát lại nhằm phủ sóng toàn quốc - Tháng 4/1995: Bắt đầu phát chương trình VTV3, và chương trình này được tách thành 1 kênh riêng và được phát sóng vệ tinh vào tháng 3 năm 1998. - Ngày 27/4/2000: VTV4 được chính thức phát trên mạng toàn cầu qua 3 quả vệ tinh phủ sóng toàn bộ châu Á, châu Âu, Bắc Phi, Bắc Mỹ và Tây Bắc Úc. - Tháng 3/2001: Chuẩn DVB -T được chính thức chọn làm chuẩn phát sóng số mặt đất của VTV - Ngày 10/2/2002: Bắt đầu phát VTV5 phục vụ đồng bào thiểu số bằng tiếng dân tộc - Tháng 10/2004: Mạng DTH được chính thức khai trương song song với mạng TH cáp và MMDS - Tháng 12/2005: Dịch vụ Internet băng thông rộng được chính thức khai trương trên mạng DTH và Truyền hình cáp - Năm 2007, kênh VTV6 sẽ ra đời Cơ cấu tổ chức của Đài THVN II. Kĩ thuật sản xuất các chương trình truyền hình 1. Chương trình truyền hình Thuật ngữ chương trình truyền hình thường được sử dụng trong hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, người ta dùng chương trình truyền hình để chỉ toàn bộ nội dung thông tin phát đi trong ngành, trong tuần hay trong tháng của mỗi kênh truyền hình hay cả đài truyền hình. Trường hợp thứ hai chương trình truyền hình dùng để chỉ một hay nhiều tác phẩm hoàn chỉnh hoặc kết hợp với một số thông tin tài liệu khác được tổ chức theo một chủ đề cụ thể với hình thức tương đối nhất quán, thời lượng ổn định và được phát đi theo định kì. Chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của một tập thể các nhà báo và cán bộ kĩ thuật, dịch vụ. Đồng thời đó cũng chính là quá giao tiếp truyền thông giữa những người làm truyền hình với công chúng xã hội rộng rãi. Có thể nói, chương trình truyền hình là sự gặp nhau giữa nhu cầu, thị hiếu của công chúng với mục đích và ý tưởng sáng tạo của những nhà truyền thông bằng phương tiện truyền hình. Một chương trình gọi là có chất lượng khi nó thu hút được sự quan tâm của người xem và thể hiện mục đích của người sáng tạo. Mặt khác bất kỳ chương trình truyền hình nào cũng hàm chứa những giá trị tư tưởng, văn hoá đặc thù của mỗi dân tộc, quốc gia, giai cấp, tầng lớp xã hội cụ thể. Những giá trị này không chỉ được truyền tải qua nội dung mà còn biểu hiênj cả trong phương pháp sáng tạo và hình thức thể hiện của các tác phẩm, tài liệu cũng như cách tổ chức xây dựng chương trình. Các chương trình truyền hình trong ngày hay trong tuần được bố trí phối hợp với nhau sao cho vừa tránh được sự nhàm chán, tạo sự thu hút liên tục đối với công chúng, vừa phù hợp với thời gian, điều kiện theo dõi của người xem. Đối với các kênh truyền hình tổng hợp, trong những ngày làm việc trong tuần, buổi tối được coi như là giờ “vàng” vì đó là thời điểm có nhiều người xem truyền hình nhất. Vì thế, người ta thường bố trí những chương trình quan trọng có ý nghĩa xã hội vào thời gian này. Những bản tin ngắn thường được bố trí vào sáng sớm và sau thời điểm bữa ăn trưa. Các chương trình giải trí tập trung nhiều vào các ngày nghỉ hoặc buổi chiều, ban đêm trong các ngày làm việc. Các chương trình dành cho các đối tượng chuyên biệt thường được phát vào thời điểm thích hợp nhất đối với việc tiếp nhận của từng đối tượng. Việc phát lại một chương trình vào các thời điểm khác nhau trong ngày hay trong tuần, tuỳ theo định kỳ của chương trình là điều kiện giúp công chúng có thể lựa chọn thời gian xem phù hợp với thời gian biểu làm việc và sinh hoạt của mình. Chương trình truyền hình rất phong phú, đa dạng. Người ta liên tục tìm cách để phát triển những chương trình mới đáp ứng kịp thời các nhu cầu khác nhau của xã hội. Nếu xét từ nội dung, chương trình truyền hình bao gồm các nhóm: nhóm các chương trình thời sự - tin tức, nhóm các chương trình giải trí, nhóm các chương trình giáo dục và phổ biến kiến thức khoa học – kĩ thuật. Nếu xét từ cách thức sản xuất, chương trình truyền hình bao gồm: loại các chương trình truyền hình trực tiếp, loại các chương trình sản xuất qua băng tù và loại chương trình phim truyện. Loai chương trình truyền hình trực tiếp là các cuộc tường thuật tại chỗ các sự kiện chính trị, xã hội, văn hoá, các cuộc toạ đàm, trao đổi tại trường quay, các chương trình trò chơi, các trận thi đấu thể thao… Đây là loại hình chương trình phát huy được đầy đủ thế mạnh của truyền hình. Tuy nhiên việc thực hiện các chương trình loại này đòi hỏi những điều kiện cho phép về kĩ thuật, kinh phí, khả năng tiếp cận cũng như khả năng tố chức thực hiện của mỗi cơ quan đài truyền hình. Loại chương trình truyền hình sản xuất qua băng từ bao gồm tất cả các chương trình có khâu hậu kỳ trong quá trình sản xuất. Nghĩa là các chương trình này bao giờ cũng phát đi sau khi sự kiện đã kết thúc. Trong khoảng thời gian giãn cách từ khi sự kiện kết thúc đến khi phát sóng người ta thực hiện các công việc biên tập, viết lời bình, dựng hình và thao tác khác để hoàn thiện tác phẩm. Lịch phát sóng của mỗi đài truyền hình sử dụng thời lượng rất lớn. Mỗi đài truyền hình khó có thể sản xuất đủ chương trình để lấp hết thời lượng phát sóng. Hơn nữa, nếu có sản xuất đủ thì đó cũng là một giải pháp kém tính hiệu quả vì vừa tốn kém kinh phí phí, vừa thiếu sự phong phú và sinh động. Chính vì thế, việc trao đổi chương trình là rất cần thiết đối với truyền hình. Tuy nhiên việc trao đổi chương trình cũng kéo theo những hình ảnh tiêu cực về văn hoá, chính trị, xã hội. Để tránh và hạn chế những hình ảnh tiêu cực ấy, mỗi đài truyền hình đều có sự lựa chọn kỹ khi mua hoặc trao đổi chương trình với các tổ chức sản xuất chương trình truyền hình của các quốc gia khác. 2. Quy trình sản xuất chương trình truyền hình Chương trình truyền hình được bắt đầu thực hiện sau khi kịch bản được duyệt. Việc thực hiện tiến hành trong điều kiện đặc thù của truyền hình nó phụ thuộc nhiều vào khả năng, trang bị kĩ thuật từ khi bắt đầu đến khi phát sóng tới máy thu của người xem. Sơ đồ các bước thực hiện 1 chương trình truyền hình như sau: Sơ đồ khối: Sản xuất tiền kì Biên tập Điều độ sản xuất Duyệt kịch bản Phát sóng Kiểm tra Sản xuất hậu kì b) Nhiệm vụ của từng khối: * Biên tập: Gồm các phóng viên, biên tập viên, đạo diễn là những người sáng tác hoặc dựa theo một kịch bản văn học có sẵn để xây dựng nên kịch bản truyền hình ( với các chương trình khác nhau như: thời sự, chuyên đề, văn nghệ, phim truyền hình…) Các nội dung trên được thể hiện dưới dạng kịch bản phân cảnh để thuận tiện cho các công đoạn sau. * Duyệt kịch bản: Từ nội dung kịch bản của khối biên tập đã lập ( các phóng viên, biên tập viên, đạo diễn), người phụ trách các ban biên tập sẽ duyệt và đưa ra quyết định sản xuất hay không sản xuất các chương trình theo đề cương, kịch bản đó. Việc này nhằm tránh lãng phí trong việc sản xuất chương trình. * Điều độ sản xuất; Sau khi kịch bản đã được duyệt cho phép sản xuất thì việc bố trí các phương tiện kỹ thuật, nhân lực… để thực hiện sản xuất chương trình thì là do khối điều độ sản xuất đảm nhiệm. Cụ thể công việc của khối này là bố trí: - Địa điểm: ở trường quay truyền hình, sân vận động, các tỉnh xa. - Thời gian: thời gian quay tiền kỳ, hậu kỳ, thời gian dự định phát sóng. - Thiết bị: số lượng thiết bị, chủng loại thiết bị ( xe truyền hình lưu động, thiết bị viba, máy nổ…) - Nhân sự: số người thực hiện chương trình ( camera, ánh sáng, kỹ thuật video, audio, lái xe…) * Sản xuất tiền kỳ: Sau khi xác định được địa điểm, thời gian sản xuất chương trình thì bắt đầu việc sản xuất tiền kỳ. Một kíp làm việc trong khâu này bao gồm: - Biên tập, đạo diễn, quay phim, hoạ sĩ, dựng cảnh, ánh sáng, kĩ thuật, chủ nhiệm chương trình. Kíp làm việc này phải tuân thủ theo kịch bản đã đề ra. Ví dụ: Chỉ dùng 1 camera nếu quay tin, phóng sự, chuyên đề. Chỉ dùng 1 studio với đầy đủ các thiết bị video, audio, kĩ sảo để quay các chương trình ca nhạc, sân khấu. Dùng 1 xe truyền hình lưu động gồm các thiết bị gần như 1 studio để làm tường thuật hoặc ghi hình các chương trình ca nhạc, diễn đàn, các chương trình thể dục thể thao… - Sản phẩm của khâu tiền kỳ: + Các băng gốc để sản xuất chương trình hậu kỳ. + Phát sóng trực tiếp các chương trình tường thuật trực tiếp tại chỗ ở các studio hoặc xe truyền hình lưu động. * Sản xuất hậu kỳ: Đây là giai đoạn sản xuất tiếp theo sau khi đã hoàn thành việc sản xuất tiền kỳ. Công việc của giai đoạn này trước tiên là phải xem băng và phân cảnh theo xung điều khiển trên băng, từ đó lên bố cục dựng trên giấy sau bắt đầu dựng hoàn chỉnh chương trình thì đến giai đoạn hoà âm, lồng tiếng cho chương trình đã dựng đó. Hoà âm từ đơn giản như đọc tin, đọc tiếng, khớp tiếng cho phim truyện, phim truyền hình, sân khấu, ca nhạc. Sản phẩm của hậu kỳ chình là băng thành phẩm với đầy đủ nội dung chương trình theo thời lượng đã quy định. * Kiểm tra: Khâu này có nhiệm vụ kiểm tra lại nội dung, hình thức thể hiện chương trình và chất lượng kĩ thuật ( gồm video và audio) của chương trình sau khi đã sản xuất hậu kỳ xong hoàn chỉnh. Nếu không có vấn đề gì xảy ra về mặt nội dung và kỹ thuật thì băng thành phẩm sẽ được niêm phong và đưa vào kho chờ phát sóng. * Phát sóng: Có nhiệm vụ phát sóng các băng thành phẩm đã qua kiểm tra Phát sóng trực tiếp các chương trình thời sự, tường thuật. ( đài có 5 bản tin phát sóng thẳng). Sản xuất chương trình truyền hình luôn luôn có mối quan hệ hữu cơ với kỹ thuật truyền hình. Chính kỹ thuật đã tạo điều kiện cho việc hình thành công nghệ và trong khi thực hiện công nghệ này lại nảy sinh ra các yêu cầu mới trở lại với kỹ thuật đòi hỏi kỹ thuật tìm biện pháp thích ứng cho công nghệ thể hiện được nhiều ý định nghệ thuật của sáng tác. Ở giai đoạn chuẩn bị đòi hỏi tập trung cao độ về trí óc, tính sáng tạo nghệ thuật và tổ chức công việc. Kế hoạch sản xuất phải có giải pháp cụ thể về nghệ thuật, kỹ thuật, công nghệ, tổ chức thực hiện, khả năng kinh tế, đồng thời phải nêu rõ phương thức thể hiện các ý đồ của đạo diễn, qua đó thấy rõ tính khả thi trong điều kiện kỹ thuật hiện có. Công tác chuẩn bị không nên coi nhẹ và rút ngắn, đơn giản hoá, vì nó sẽ ảnh hưởng đến các bước sau này, đặc biệt là ảnh hưởng đến quan hệ và sự cộng tác, đến không khí sản xuất. Nếu công tác chuẩn bị tốt, giai đoạn thực hiện sẽ chỉ phụ thuộc vào công nghệ lựa chọn, điều kiện cho phép trong dây chuyền sản xuất để thực hiện các ý đồ của kịch bản. Giai đoạn kết thúc chương trình có ý nghĩa chủ yếu đối với công việc tiếp theo. Ở đây việc thông báo đầy đủ các dữ liệu của chương trình, kiểm tra chất lượng kỹ thuật và nghệ thuật là điều kiện cho việc tiếp nhận và phân phối dễ dàng. Các bước thực hiện một chương trình truyền hình đã nêu trên sẽ tuỳ thuộc vào quy mô của từng đài, tuỳ thuộc vào trình độ của đội ngũ làm chương trình truyền hình để lựa chọn và tiến hành làm chương trình cho phù hợp với quy mô của đài. III. Bình luận truyền hình Việt Nam trong tiến trình hội nhập 1. Bình luận và bình luận truyền hình Theo các nhà nghiên cứu, thể loại bình luận đã xuất hiện trên báo chí phương Tây từ rất sớm. Ngay từ khi mới xuất hiện thể loại này đã nhanh chóng thu hút được tình cảm của công chúng vì nó đem lại cho họ những tri thức lý lẽ để đánh giá, lý giải những vấn đề, sự kiện, tình huống, hoàn cảnh… nảy sinh hàng ngày hàng giờ trong đời sống, mang lại cho họ những nhận thức đúng đắn tạo cở sở cho những hành động vì lợi ích của chính họ. Với năng lực phản ánh hiện thực như vậy, một bài bình luận thực chất là mộy sự giải thích, một cách cắt nghĩa, được dùng để hướng dẫn cách nhìn nhận những vấn đề của đời sống. Nó đảm nhiệm việc cung cấp thường xuyên các cách đánh giá về những tin tức quan trọng để làm cho công chúng hiểu và nhận thức được những diễn biến của đời sống. Thực tế đã cho thấy rằng so với các thể loại báo chí khác, bình luận có thể có những ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc hơn đến cách suy nghĩ của công chúng… Theo tư điển tiếng Việt, bình luận có nghĩa là “bàn bạc phải trái, hay dở nhân một biến cố gì hay một vấn đề gì”. Còn theo tác giả Trần Thế Phiệt “bình luận cần phải chú ý cả hai mặt: bình và luận. Bình là xem xét, phân tích các khía cạnh của vấn đề, đánh giá nó, khai thác nó ở các mặt nội dung ý nghĩa. Luận là bàn bạc mở rộng vấn đề, đặt nó vào trong quá trình diễn biến, phát triển, nhận định khả năng và triển vọng của vấn đề mà người bình luận quan tâm, rồi nêu những tác dụng của nó trong đời sống xã hội, trong thực tế và trong lý luận” Mặc dù có nhiều điểm tương đồng- nhất là ở đặc trưng thông tin lý lẽ nhưng giữa bài bình luận và bài xã luận vẫn có những điểm khác biệt. Một bài xã luận thường đề ra các nhiệm vụ chính trị, còn một bài bình luận tuy có luận điểm rõ ràng nhưng không nhất thiết phải là chỉ thị hay kêu gọi để hành động. Các bài xã luận thường có cấu trúc theo phương pháp diễn dịch - từ một vài luận điểm triển khai thành những nội dung lớn có tính chất định hướng rộng, còn bài bình luận chủ yếu đi theo phương pháp quy nạp. Nó rút ra kết luận thông qua việc bàn bạc về những vấn đề cụ thể. Như vậy bài bình luận thường chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ hơn, thể hiện sự nhất quán về chỗ đứng, về cách nhìn nhận đánh giá của người bình luận. Bình luận vừa phải có cái nhìn toàn diện đồng thời lại phải chặt chẽ, sắc sảo trong việc đánh giá, phân tích, lý giải những hiện tượng cụ thể và điều quan trọng là toàn bộ quá trình đó phải thể hiện được sự đánh giá của tác giả và ban biên tập về các sưj kiện trong đời sống, từ đó rút ra những bài học cần thiết. Trên thực tế trong đời sống truyền hình hiện nay, bình luận có vai trò vô cùng quan trọng. Đó là thể loại giải thích, cắt nghĩa một sự kiện, một quá trình hoặc một vấn đề trong xã hội. Một trong những đặc điểm quan trọng của bình luận truyền hình là tính nhạy bén, sự xác thực và độ tin cậy cao của nó. Một bài bình luận trên truyền hình thường gây được nhiều tranh luận trong người xem. Những ý kiến của bình luận truyền hình thường kích thích, khích lệ người xem tự kiểm tra đánh giá lại nhận thức của mình để từ đó hình thành quan điểm chính kiến riêng, Bình luận trên truyền hình là sự gợi ý là cách định hướng suy nghĩ cho người xem. Chúng ta có thể thấy sự tác động tích cực của bình luận truyền hình qua ví dụ sau: Gần đây các chương trình thời sự của VTV có đề cập đến vấn đề giá thuốc và quản lý giá, đặc biệt là chương trình Tiêu điểm đã phân tích một số vấn đến bất hợp lý liên quan đến Bảo hiểm y tế tự nguyện. Là khán giả xem truyền hình, chúng tôi rất hài lòng vì VTV đã nêu ra những vấn đề bức xúc từ cuộc sống, đặc biệt là đối với người nghèo, người không nằm trong diện bảo hiểm y tế bắt buộc"... Xem chương trình xong tôi thấy rất hài lòng. Nhưng, qua các phóng sự cũng phải thấy rằng, các thông tin về nguyên nhân giá thuốc tăng, vai trò quản lý dược phẩm của cục quản lý dược và các quan chức quản lý giá thuốc ở các địa phương còn chưa rõ ràng, dẫn đến giá thuốc tăng lên không hạ xuống thường xuyên vẫn chưa có lời giải đáp. Tệ hơn là chưa có cơ quan sản xuất hay nhập khẩu dược phẩm nào bị phạt nặng hay rút giấy phép kinh doanh. Nhiều xí nghiệp sản xuất dược phẩm… hô giá nguyên liệu tăng liên tục - chi phí nhập khẩu nguyên liệu tới 60% nên phải tăng giá, nhưng lợi nhuận hình như không giảm mà ngày càng tăng lên, thậm chí giá cổ phiếu cũng được đẩy lên rất cao so với thời điểm mới được cổ phần hoá??? Những thông tin đó hy vọng sẽ được tất cả mọi người lưu tâm. Liên quan đến Bảo hiểm Y tế tự nguyện phải tạm dừng, nay triển khai tiếp tục đi kèm với các qui định mang tính bắt buộc. Đây là quan điểm tính lời và lỗ trong kinh doanh bảo hiểm nhưng không hợp lý, chúng tôi đồng quan điểm với ý kiến của một Luật sư trong chương trình Tiêu điểm là để tránh lỗ nên có sự điều tiết quỹ Bảo hiểm y tế bắt buộc vì cùng là đóng góp của người dân. Việc tạm thời quản lý riêng chỉ mang tính chất tham khảo để phát triển loại hình y tế tự nguyện để tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, hoặc nhằm hoạch định chính sách thu phí cho phù hợp. Cũng cần nhìn nhận BHYT tự nguyện là một chính sách nhân đạọ về y tế, giả sử có lỗ thì nên đề xuất chính phủ hỗ trợ vì lỗ ở đây là lỗ vì tính chất xã hội, vì người nghèo. Song, vấn đề đặt ra là ngành BHXH nên đề ra các giải pháp quản lý khám và điều trị minh bạch hơn ở các bệnh viện. Bởi, các chương trình cũng chỉ rõ có tình trạng bệnh nhẹ cho thuốc đắt tiền, bệnh nặng thuốc không tương xứng…ỏồi tình trạng bệnh nhân là BHYT phải nằm 2 người/giường do quá tải người bệnh đông, giường bệnh ít nhưng việc thanh quyết toán với BHXH và người bệnh chưa bao giờ bệnh viện lấy tiền giường theo thực tế (2 người/giường) bao giờ cũng lấy đủ 1 người/giường. Đây là tình trạng móc túi bệnh nhân và BHXH công khai chưa ai lên tiếng. Mong chương trình Tiêu điểm và nhiều chương trình khác của VTV tiếp tục phản ánh sâu hơn nhằm cải thiện những bất hợp lý đang tồn tại". Trên đây là ý kiến của bạn xem đài Phương Dung qua đó có thể thấy được sự ảnh hưởng lớn lao của bình luận trên truyền hình. 2. Những cơ hội và thách thức của bình luận trên truyền hình trước quá trình hội nhập của Việt Nam 2.1. Cơ hội lớn Để biết mình biết người trong thế giới hôm nay, xin hãy đưa mắt nhìn quanh. Mỹ đang làm nhiều cách duy trì thế siêu cường, nhưng đồng thời đã phải tính đến những  nước cờ toàn cầu khác. Còn trong nước, ráo riết cải cách giáo dục nhằm duy trì lợi thế lâu dài. Thủ tướng Abe đang muốn cơ cấu lại nền kinh tế và thức tỉnh tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ Nhật Bản, với ý định đưa nước Nhật trở thành một trong những "diễn viên chính" của thế kỷ 21.Trung Quốc đang hun đúc tinh thần “trỗi dậy hoà bình” để giành lại 5 thế kỷ bị đánh mất, hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới tính theo GDP - PPP, và đang trên đường trở thành siêu cường mới. Ấn Độ đang tiến bước vững chắc thành cường quốc khu vực. Nga đang làm mọi việc phục hồi vị thế của mình. Thái Lan, láng giềng, mấy năm qua đã đưa ra chiến lược kinh tế mới với nhiều trung tâm, song nửa đường đứt gánh với cuộc đảo chính 19/09/2006. Nếu tin tức báo chí là đúng thì 10 năm qua kinh tế Campuchia tăng trưởng bình quân 8%/năm, riêng năm 2006 GDP tăng 10% - nghĩa là năng động hơn nền kinh tế Việt Nam… Nền kinh tế đang tràn đầy sức sống, nhưng thị trường còn nhiều khuyết tật hoang dã vì thiếu nền tảng vững chắc của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự; Là đất nước có tỷ lệ cao về dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào, nhưng tỷ lệ người không có việc làm và người thiếu việc làm rất lớn, mặt khác lại thiếu trầm trọng lực lượng lao động có nghề và nguồn nhân lực có kỹ năng cao; Giáo dục và y tế đang là hai vấn đề bức xúc lớn kéo dài từ hàng chục năm nay, hiện vẫn chưa có lời giải. Thực trạng này sẽ cho phép VN thoát khỏi nước nghèo và chậm phát triển vào năm 2010 (còn khoảng 3 năm nữa)?.v.v... Đất nước đứng trước tình hình: Những thành tựu của 20 năm đổi mới lớn bao nhiêu, thì những đòi hỏi của phát triển càng bức xúc bấy nhiêu, nếu không đáp ứng được, sự phát triển năng động sẽ chuyển hoá dần thành quá trình tích tụ năng lượng huỷ hoại. Về kinh tế: Chẳng những phải làm cho nền kinh tế nước ta có khả năng chấp nhận luật chơi chung, có khả năng tham gia hiệu quả vào sân chơi chung toàn cầu, mà còn phải có sức sống bên trong đủ mạnh để đối mặt được với mọi sóng gió đến từ bên ngoài, dù là trên mặt trận tài chính tiền tệ, hay là cuộc khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng chính trị, quân sự bất kỳ nơi nào, bất kể từ đâu tới. Hơn nữa, nước ta đang nằm trong lòng khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới, không theo kịp sự phát triển năng động này đồng nghĩa với thảm bại. Về chính trị: Phải chăm lo mọi mặt sao cho lòng người thu về một mối, để trong có ấm thì ngoài mới yên, có mạnh bên trong mới đứng vững được với bên ngoài. Trong lịch sử của mình, nước ta chưa bao giờ đứng trước tình hình phát huy sức mạnh dân tộc trở thành vấn đề sống còn quyết liệt như trong thời đại ngày nay. Muốn cạnh tranh kinh tế thắng lợi, phải phát huy được sức mạnh dân tộc. Muốn không bị đè bẹp dù là trên phương diện văn hoá hay trên bất kỳ phương diện chính trị, sức mạnh nào, rất cần đến sức mạnh dân tộc. Không muốn là cái bóng của bất kỳ ai, không phải cầu cạnh núp bóng ai, càng phải có sức mạnh dân tộc. Quan trọng hơn nữa, để được tất cả các đối tác tôn trọng, và để có hợp tác thật sự, nhất thiết phải phát huy sức mạnh dân tộc. Trong xu thế cơ bản là hoà bình, ổn định, thế giới ngày nay đang tích tụ những yếu tố của các biến động khó lường. Không nên hoang tưởng tự vẽ ra những con ngoáo ộp để hù doạ mình, song không thể không dự trù đến những tình huống bất trắc. Còn nhiều câu hỏi mới, nhiều vấn đề mới đặt ra, đặt ra cho cả đất nước mãi mãi về sau, nhưng hướng đi tìm câu trả lời chỉ có một: Một nước Việt Nam có sức sống mãnh liệt và có ích cho mọi đối tác của mình. Đây là thời đại của thông tin, việc chia sẻ thông tin trở nên dễ dàng hơn baog giờ hết. Nhưng cũng cần tỉnh táo nhận ra rằng nếu chúng ta không biết cách làm chủ thông tin chúng ta sẽ trở thành “nô lệ thông tin” của nước ngoài. Từ những năm 50 của thế kỷ 20 nước Mĩ đã đưa ra tuyên bố: “ Chúng ta cần phải buộc cả thế giới nghe chúng ta”. Giờ đây với sự phát triển mạnh mẽ của Internet và sự xuất hiện phát triển mạnh mẽ của loại hình truyền hình trả tiền (pay – TV) thì nhu cầu thông tin của công chúng được thoã mãn hơn , thế giới trở thành một “thế giới phẳng”. Nhưng quá nhiều thông tin, lượng thông tin ồ ạt khiến việc kiểm soát thông tin trở nên vô cùng khó khăn. Đó là cơ hội cho kẻ thù truyền bá những tư tưởng chống phá cách mạng, thường rất tinh vi.Điều cấp thiết đặt ra là chúng ta phải trang bị cho công chúng một công cụ tư tưởng để tỉnh táo trước mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Và dĩ nhiên công cụ hữu dụng nhất chính là bình luận truyền hình. Để có chương trình bình luận truyền hình hay tác giả phải khai thác tối đa khả năng kể chuyện bằng hình ảnh. Hãy để hình ảnh kể câu chuyện của chính bạn. Một phóng viên từng đạt giải thưởng báo chí của đàu BBC, Martin Bell đã thể hiện như sau: “Thủ thuật là nhường địa vị hàng đầu cho hình ảnh và để chúng kể hầu hết câu chuyện. Rồi sau đó bổ sung và trau chuốt nó bằng một vài lời cho câu chuyện”. Tất nhiên, không thể nhường lời cho hình ảnh chẳng nói lên điều gì. Cho nên đi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTBC 81.doc