Tiểu luận Bội chi ngân sách nhà nước và cách giải quyết bội chi ngân sách nhà nước

MỤC LỤC

 

 

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 3

1.Những vấn đề chung về các khoản chi NSNN: 3

1.1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước 3

1.2. Quá trình của chi ngân sách nhà nước . 3

1.3. Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước 3

1.4. Nội dung của chi ngân sách nhà nước 3

1.5. Phân loại chi ngân sách nhà nước 4

1.6. Yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước . 5

2. Quan điểm về bội chi ngân sách Nhà nước 5

3. Những nhân tố ảnh hưởng đến bội chi ngân sách Nhà nước 5

4. Nguyên nhân gây ra bội chi ngân sách nhà nước 6

5. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước 6

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 7

1. Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước . 7

2. Những ưu điểm và hạn chế trong quản lí bội chi ngân sách Nhà nước . 8

2.1. Ưu điểm và kết quả 8

2.2. Hạn chế và thách thức . 9

CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ BỘI CHI NSNN – ĐỊNH HƯỚNG KIỂM SOÁT BỘI CHI NSNN. 12

1. Giải pháp xử lý bội chi ngân sách nhà nước: 12

1.1. Phát hành thêm tiền: 12

1.2. Vay nợ cả trong và ngoài nước: 13

1.3. Bù đắp thâm hụt ngân sách: 14

1.4. Cắt giảm chi tiêu đi liền với tiết kiệm ngân sách nhà nước: 15

2. Định hướng kiểm soát tình hình bội chi ngân sách trong tương lai 16

2.1. Kiểm soát bội chi do tác động từ khách quan: 16

2.2. Kiểm soát bội chi do những tác động chủ quan: 17

Danh mục tài liệu tham khảo 21

 Giáo trình và bài viết học thuật: 21

 Văn bản pháp luật: 21

 Đường link trang web: 21

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17189 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bội chi ngân sách nhà nước và cách giải quyết bội chi ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt ngân sách nhà nước được khống chế ở mức thấp. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức bội chi ngân sách nhà nước như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên. Giai đoạn từ năm 2001-2007 bội chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn này về cơ bản được cân đối ở mức 5% GDP, tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi chỉ ở mức 2,63% GDP và giai đoạn 1996-2000 ở mức 3,87%GDP. Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. Bội chi ngân sách nhà nước tăng cao thể hiện chính sách tài khoá lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của chính phủ cho đầu tư và thường xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Ngày 10/11/2010, Quốc hội thông qua nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 với mức bội chi bằng 5,3% GDP. Theo nghị quyết, tổng thu ngân sách nhà nước là 595.000 tỷ đồng, tương đương 26,2% tổng sản phẩm trong nước (GDP), nếu tính cả 10.000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang năm 2011 thì tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 605.000 tỷ đồng. Tổng số chi ngân sách nhà nước là 725.600 tỷ đồng, mức bội chi 120.600 tỷ đồng, tương đương 5,3% GDP. Nghị quyết cũng tán thành các nhóm giải pháp của chính phủ về thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2011, trong đó tập trung thực hiện chính sách tài khóa thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thu, chi ngân sách nhà nước. Rà soát sắp xếp thứ tự ưu tiên đầu tư, đầu tư đồng bộ, tập trung bố trí vốn cho các dự án công trình trọng điểm, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011-2012, nhất là tại các địa phương nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước đi đôi với đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có thể tham gia. Những ưu điểm và hạn chế trong quản lí bội chi ngân sách Nhà nước: Ưu điểm và kết quả Trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi ngân sách nhà nước ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm). Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Từ năm 2001 trở lại đây, mức bội chi ngân sách nhà nước đã có những biến chuyển tích cực do sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân khoảng 19%. Trong đó, thu từ dầu thô chiếm tỷ trọng gần một phần tư tổng thu ngân sách nhà nước, chủ yếu do những năm vừa qua giá dầu thô tăng mạnh. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đưa vào cân đối ngân sách tăng bình quân khoảng 15%/năm và chiếm tỷ trọng khoảng 30%. Thuế đã được xem xét đúng với vai trò cơ bản của nó trong cơ chế thị trường là tạo nguồn thu cho ngân sách, kích thích tăng trưởng, điều chỉnh và phân phối lại thu nhập. Hệ thống thuế được cải cách theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế, tăng tỉ lệ động viên từ thuế so với GDP, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các sắc thuế có nội dung rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra và không trùng lắp, nhiều sắc lệnh thuế ban hành phù hợp với điều kiện nước ta và thông lệ quốc tế (thuế thu nhập, thuế đất đai, thuế tài nguyên). Chi tiêu ngân sách hàng năm được quốc hội thảo luận và thông qua trong các phiên họp của mình, thể hiện rõ định hướng của nhà nước trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chi ngân sách thực hiện theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả nhằm nâng dần phần tích lũy của ngân sách cho đầu tư phát triển. Khoản chi thường xuyên của ngân sách thường được khống chế tối đa trong khuôn khổ khả năng thu ngân sách. Mỗi khoản chi được xác định trên cơ sở phân định rõ đối tượng và mục đích cụ thể. Tốc độ tăng chi thường xuyên được khống chế thấp hơn tốc độ tăng chi cho phát triển.... Trong đó, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển; chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo; chi khoa học - công nghệ; chi cho y tế và kinh phí thực hiện chính sách đối với người có công, gia đình chính sách, thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo tăng lên… Do đó bội chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn này về cơ bản được cân đối ở mức 5% GDP. Như vậy, sự ra đời của Luật ngân sách nhà nước năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 1998, sau đó ban hành Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thay thế Luật 1996, và được sửa đổi bổ sung năm 2008 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phương pháp điều hành tài khóa, giúp cải thiện rất lớn tình hình ngân sách những năm qua. Do đối mặt với những khó khăn về nguồn thu, tiềm lực tài chính, tâm lý lo ngại nguy cơ giá cả tăng vọt không kiểm soát được, tình trạng lãng phí, chính sách tài khóa đã được điều hành theo hướng giảm áp lực lạm phát, ngân sách được điều hành theo chủ trương thắt chặt chi tiêu tiến hành tiết kiệm, cắt giảm chi thường xuyên. Việc duy trì được mức bội chi ngân sách 5% so với GDP trong thời gian vừa qua có thể coi là thành tựu lớn trong điều hành kinh tế vĩ mô vì đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng tương đối ổn định. 2.2. Hạn chế và thách thức Nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp, chúng ta phải vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để công trình vận hành và phát huy tác dụng, luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Để có nguồn kinh phí này hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước sửa đổi năm 2002 mở rộng thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của ngân sách địa phương. Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là không có việc bội chi ngân sách địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư.   Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư theo quy định tại khoản 3 điều 8 của Luật ngân sách nhà nước tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng cường cơ sở vật chất, tạo điều kiện phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có chưa tận dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì ngân sách địa phương lại để kết dư lớn. Mặt khác, còn một số khoản vay không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tạo nên khoản thu chi ngoài ngân sách và khi đến hạn, ngân sách địa phương không có nguồn để thanh toán gốc và lãi. Một trong những nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc thống nhất, điều đó đòi hỏi các khoản bội chi của ngân sách địa phương phải được tổng hợp để tính bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ bội chi khi quyết toán ngân sách nhà nước. Mức bội chi ngân sách nhà nước hằng năm trình quốc hội mới chỉ phản ánh được mức bội chi của ngân sách trung ương. Đây là một trong những mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi ngân sách nhà nước. Việc thu chi NSNN vẫn còn không ít tồn tại, cần có những thay đổi cơ bản: Tình trạng thất thu còn khá phổ biến, hiệu quả kiểm soát nguồn thu ngân sách còn hạn chế. Thu NSNN vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các biến động theo thị trường thế giới như dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu. Theo những đánh giá của IMF, hoạt động ngân sách trong một số năm gần đây là tích cực, ngoài ra, do có nguồn thu lớn từ dầu thô cho nên vị thế về trung hạn của ngân sách là có thể kiểm soát được, miễn là hoạt động cho vay lại và các khoản nợ nằm ngoài ngân sách được kiểm soát chặt chẽ.Tuy nhiên trong năm gần đây cũng ghi nhận những chuyển biến, theo đó cơ chế quản lý tài chính được sửa đổi theo hướng minh bạch và tăng cường tự chủ tài chính, gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách, tạo cơ sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công trong những năm tới. Luật NSNN sửa đổi từ năm ngân sách 2004 đã được hoàn thiện dần và đến nay cơ bản đã hoàn tất cùng với việc hoàn tất 3 luật thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN mới sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2004 chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và dẫn đến kết quả tích cực hơn cho thu chi NSNN năm 2004 và những năm sau.  Việc hoàn thuế và kiểm tra hoàn thuế còn nhiều bất cập. Vấn đề không hoàn thành các mục tiêu đề ra là cần phải xem xét. Như vậy, trong bối cảnh tiến hành hội nhập với những biến động phức tạp của thị trường thế giới thì đây là dấu hiệu cảnh báo về quản lý NSNN. Nguồn thu ngân sách qua các năm không ổn định và Thực hiện công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN là một giải pháp cấp bách trong quá trình hội nhập. Nhất là khi đường lối chủ động hội nhập quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế quan được công khai.  Bên cạnh những nhiệm vụ chi thực hiện sát với dự toán, một số nhiệm vụ chi tăng so với dự toán là cần thiết như tăng chi sự nghiệp kinh tế để khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ nông dân khắc phục hậu quả của dịch bệnh cúm gia cầm và khôi phục sản xuất chăn nuôi; tăng chi đầu tư phát triển; một số địa phưng đã chủ động bố trí vốn trong dự toán ngân sách năm 2004 để thanh toán nợ xây dựng cơ bản… Tuy nhiên, những tồn tại trong quản lý ngân sách còn lớn như nhiều địa phương bố trí vốn còn phân tán; sử dụng ngân sách lãng phí; việc sử dụng vốn trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng trường, lớp học chưa hiệu quả, vốn huy động phi lãi suất chưa được sử dụng kịp thời, thường xuyên bị tồn đọng ở mức lớn.  Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ thất thoát lớn khi mà nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN cao là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế – xã hội và kết quả cân đối ngân sách nhưng vẫn chậm được xử lý.  Trong khi đó, đội ngũ cán bộ, công chức không được đánh giá đúng, bố trí con người không phù hợp với chức vụ. Đáng lưu ý, tính chiến đấu và nhiệt huyết của cán bộ lãnh đạo ngày một giảm, không dám phản ánh sự thật. Việc chi chưa hiệu quả, lãng phí, nhưng cứ tăng thu được cái nào đã chi hết cái đó.Việc lễ hội, khánh thành, tổng kết, khai trương… tốn kém nhưng ngày càng tăng mà không thấy giảm CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ BỘI CHI NSNN – ĐỊNH HƯỚNG KIỂM SOÁT BỘI CHI NSNN. Giải pháp xử lý bội chi ngân sách nhà nước: Xử lý bội chi ngân sách nhà nước là vấn đề lớn, đang được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nó không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế hiện tại mà còn quyết định đến sự phát triển bền vững của một quốc gia sau này. Hiện nay, vấn đề về bội chi ngân sách nhà nước đang là mối quan tâm hàng đầu, là vấn đề nan giải của tất cả các nhà lãnh đạo trên thế giới. Xử lý bội chi ngân sách như thế nào để ổn định nền kinh tế vĩ mô, thực hiện các mục tiêu chiến lược về kinh tế-xã hội, hài hòa giữa phát triển kinh tế dựa trên những nguồn lực có hạn. Mỗi quốc gia, tùy vào điều kiện kinh tế và chính sách tài chính của mình trong từng thời kì để có thể đưa ra một phương thức để giải quyết bội chi phù hợp. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách do bội chi gây ra như: tăng thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngòa; phát hành tiền để bù đắp chi tiêu;… Việc đưa ra cách giải quyết bội chi như thế nào cần được cân nhắc và lựa chọn một cách cẩn thận, vì nó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế vĩ mô. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thường sử dụng các giải pháp sau nhằm giải quyết bội chi ngân sách nhà nước: Phát hành thêm tiền: Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa vào lưu thông trên thị trường. Đây là biện pháp được chính phủ nhiều nước sử dụng. Việt Nam cũng đã từng sử dụng cách này để giải quyết bội chi trong khoảng thời gian trước đây. Ưu điểm của biện pháp này là đơn giản, dễ thực hiện, trong một số trường hợp, việc phát hành thêm tiền cũng có tác dụng phân bố lại nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế, đặc biệt là phân bố lại vốn đầu tư giữa Nhà nước và các nhà đầu tư. Tuy nhiên, lạm phát sẽ xảy ra nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Nó là một trong những nguyên nhân tạo ra sự bất ổn trong nền kinh tế, làm cho hoạt động sản xuất khó khăn và trì trệ hơn. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây “tăng trưởng nóng”, không bền vững và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Chính vì vậy mà vào đầu những năm 1990, việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách so với GDP cũng như so với tổng số bội chi đã giảm và đến năm 1992 đã chấm dứt hẳn việc phát hành tiển để bội chi ngân sách nhà nước. Luật Ngân sách nhà nước hiện nay đã quy định rõ ràng và chặt chẽ, bội chi ngân sách chỉ cho đầu tư phát triển và nguồn bù đắp bội chi (vay trong nước và vay ưu đãi nước ngoài; không thực hiên phát hành tiền để bù đắp bội chi). Do vậy đã góp phần lành mạnh hóa ngân sách, đảm bảo an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô. Vay nợ cả trong và ngoài nước: Để có nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế, việc vay nợ của chính phủ nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách là một việc làm cần thiết. Các khoản nợ của chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bao gồm: vay trong nước và vay nước ngoài. -Về vay trong nước, được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Mặc dù, nước ta có nhiều hình thức huy động vốn trong nước, nhưng tỉ lệ huy động vốn vào ngân sách nhà nước qua vay nợ trong nước chiếm tỉ trọng không lớn lắm. Nguyên nhân là do tổng sản phẩm quốc nội thấp, thu nhập bình quân đầu người thấp, số tiết kiệm của dân cư nhỏ, hơn nữa dân chúng chưa quen với việc mua công trái, vì vậy nguồn vay của nhà nước từ dân cư bị hạn chế , hoặc nếu có vay được , chủ yếu vẫn là vay ngắn hạn. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập trung nguồn vốn cho ngân sách nhà nước. Bởi vì phát hành trái phiếu không làm tăng thêm lượng tiền cần thiết lưu thông trên thị trường, không làm tăng sức mua chung của xã hội, chủ động trong đầu tư, và nhờ hình thức này mà nhà nước có thể tập trung vốn cho việc xây dựng cơ cở hạ tầng và những công trình trọng điểm thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cần phải chú ý là không thể dùng biện pháp hành chính quá nhiều để phát hành trái phiếu một cách bắt buộc, cũng không thể quy định thời gian hoàn trả quá dài. Theo kinh nghiệm của một số nước, việc phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ ảnh hưởng đến việc tăng lãi suất, nhất là lãi suất thực, và vì thế giá cả có xu hướng gia tăng. Mặt khác, nếu Chính Phủ tăng cường vay nợ trong nước, số tiết kiệm của dân cư giảm, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư của khu vực tư nhân, và vì thế hạn chế sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác vào sự phát triển kinh tế. -Về vay nợ nước ngoài của Chính phủ, để bù đắp thiếu hụt ngân sách dành cho chi đầu tư phát triển kinh tế, khi vay trong nước không đáp đủ. Vay nợ nước ngoài của Chính phủ có 3 loại: vay nợ từ nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), vay ưu đãi cỉa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế (ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu Á, Quỹ tiền tệ quốc tế) và vay bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài (ít được sử dụng và kém hiệu quả hơn so cới những phương thức khác). Đối với vay nước ngoài, chúng ta thực hiện chính sách chỉ vay ưu đãi nước ngoài, không vay thương mại nước ngoài cho đầu tư phát triển. Bảng số liệu dưới đây cho thấy tình hình vay nợ trong và ngoài nước của chính phủ qua các năm: Năm Số tiền vay trong nước để bù đắp bội chi NSNN. Số tiền vay nước ngoài để bù đắp bội chi NSNN. 2007 43.000 13.500 2006 36.000 12.500 2005 32.420 8.326 2004 27.450 7.253 2003 22.895 7.041 2002 18.382 7 .125 Bù đắp thâm hụt ngân sách: Bằng cách tăng các khoản thu của nhà nước đặc biệt là thuế. Bên cạnh đó còn phải nâng cao công tác thu thuế, nhằm kiểm soát nghiêm ngặt tình trạng thuế, nợ thuế, buôn lậu, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đồng thời cũng cần nhanh chóng hoàn thiện các luật thuế, tiếp tục rà soát để giảm, bãi bỏ những khoản phí, lệ phí không còn phù hợp, kịp thời ngăn chặn tình trạng lạm dụng, tạo ra các khoản đóng góp bất hợp lý dưới mọi hình thức. Việc tăng các khoản thu, có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN. Bởi vì, nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn nó sẽ triệt tiêu động lực của doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cắt giảm chi tiêu đi liền với tiết kiệm ngân sách nhà nước: Các nội dung thực hiện tiết kiệm chủ yếu là: tạm dừng mua sắm ô tô, phương tiện, tài sản khác có giá trị lớn, sửa chữa tân trang các trụ sở làm việc; hạn chế tối đa các khoản chi hội nghị, hội thảo, lễ hội, tổng kết sơ kết…và các đoàn công tác sử dụng kinh phí nhà nước; tiết kiệm tối đa trong việc sử dụng điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu… Các nội dung cắt giảm chi tiêu. Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể chính phủ chị thị: Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước hầu như không thể kiểm soát được các khoản đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, mặt khác là do một số tập đoàn lớn mạnh đã tự lập ngân hàng riêng. Vì vậy, Chính phủ đã có chỉ đạo, yêu cầu họ rà soát lại và sẽ đi kiểm tra sau này. Nếu dư án nào không hiệu quả mà vẫn đầu tư thì DNNN đó phải chịu trách nhiệm. Chính phủ đồng thời cần có cơ chế đảm bảo những khoản đầu tư còn lại hiệu quả. Phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho những dự án kém hiệu quả bị loại bỏ ngay từ đầu, nên cần nghiêm túc trong việc thẩm định. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát, lãng phí. Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên đây thường là hạn mục cuối cùng trong danh sách cắt giảm. Vả lại, nước ta không có có nhiều khoản chi thường xuyên có thể cắt giảm. Tuy nhiên, nếu có cố gắng cắt giảm khoản chi thường xuyên này ở cả trung ương và địa phương thì cũng đóng góp không ít cho việc giảm nhẹ gánh năng của NSNN. Số tiền tiết kiệm này được dùng bổ sung cho dư phòng ngân sách, ưu tiên cho các nhiệm vụ chi bảo đảm an sinh xã hội, phòng, chống, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và xử lý các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phát sinh ngoài dự toán. Nhìn chung, những khó khăn hiện nay của nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ những sự bất cập trong chính sách phát triển dài hạn, đồng thời thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều hành vĩ mô của các cấp quản lý. Tuy nhiên, không có khó khăn nào là không giải quyết được nếu Chính phủ có quyết tâm mạnh mẽ và chính sách đúng đắn và lấy lại được lòng tin và sự hỗ trợ từ phía nhân dân. Thắt chặt và nâng cao hiệu quả của chi tiêu công, đặt biệt là áp đặt kỉ luật nghiêm ngặt đối với hoạt động đầu tư của các tập đoàn nhà nước là điều kiện tiên quyết để có thể khôi phục lại cân bằng vĩ mô và gia tăng hiệu quả, tính ổn định và đà tăng trưởng cho nền kinh tế. Định hướng kiểm soát tình hình bội chi ngân sách trong tương lai: Trên đây chúng em đã đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết tình hình khi bội chi ngân sách đã xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng chờ đến khi có “bệnh” thì mới tìm cách chữa trị, cách tối ưu nhất là biết cách “phòng” nó, tìm cách kiểm soát khi bội chi chưa xảy ra, hoặc giảm thiểu mức bội chi ngân sách sẽ xảy ra trong tương lai. Sau đây là một số cách mà nhóm em đưa ra nhằm hạn chế việc bội chi sẽ xảy ra. Kiểm soát bội chi do tác động từ khách quan: Đặc điểm của tác động khách quan là tính không thể dự đoán được của sự kiện đó.Những nguyên nhân này có thể do chu kì kinh tế, do thiên tại hay đại họa toàn cầu … Đối với sự kiện khách quan, theo quan niệm thông thường, ta chỉ có thể đánh giá rủi ro và bảo hiểm để đối phó với nó. Vậy để kiểm soát được bội chi do những nguyên nhân khách quan thì cần phải đẩy mạnh những mặt sau đây: Thứ nhất, phải tăng cường bổ sung và đào tạo nâng cao và đãi ngộ tốt đội ngũ chuyên gia kinh tế. Phải cho họ được có những tiếng nói thẳng thắng và công khai. Chính những nghiên cứu và dự đoán của họ sẽ giúp ta tìm ra các số liệu cần thiết để quyết định các bước hành động tiếp theo như đề phòng hay đánh giá tình hình sắp tới của nền kinh tế, các tác động của kinh tế thế giới, những bất cập nội bộ hệ thống… Thứ hai, đó là việc lập quỹ dự phòng ở trung ương. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, sự tác động từ kinh tế toàn cầu lớn dần, làm mất khi khả năng kiểm soát độc lập của mỗi cá thể. Khi đối mặt với suy thoái, các chính phủ sẽ cố hạn chế đà suy thoái. Sau khi hạn chế được đà suy thoái sẽ thực hiện nới lỏng tiền tệ, bơm tiền vào nền kinh tế để kích thích phát triển trở lại. Nhưng ở các chính phủ quản lý kém với quỹ ngân sách không nhiều, tiền đâu để giúp họ thực hiện việc đó. Họ sẽ huy động, vay mượn từ các nguồn khác ví dụ như phát hành trái phiếu… hoặc cho in thêm tiền. Thực ra, việc in thêm tiền phải dựa vào giá trị thực sự ở sản lượng của nền kinh tế, nếu giá trị đó không tăng mà in thêm, tất yếu sự trả giá sẽ là lạm phát. Nếu một nước có nội lực kinh tế mạnh thì việc trả nợ sẽ tương đối dễ dàng, nhưng với một nước có nền kinh tế nội bộ yếu và thiếu cân bằng như nước ta, làm như thế sẽ là mạo hiểm. Vậy nên khi kinh tế phát triển mạnh, khoản thặng dư ta không nên đem tất cả đi đầu tư, chi tiêu. Chính khoảng dự trữ đó sẽ được sử dụng khi có tác động khách quan bất lợi. Nhưng quỹ dự trữ này nên được tính toán kĩ, vì dự trữ lại chính là hy sinh một phần nguồn lực phát triển của đất nước. Kiểm soát bội chi do những tác động chủ quan: Minh bạch và chặt chẽ các số liệu về ngân sách: Phải có cơ chế buộc minh bạch hóa các số liệu về thu chi ngân sách. Sự minh bạch có thể đạt được khi yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền công khai số liệu kịp thời và đầy đủ, chi tiết. Việc này sẽ làm tăng sự giám sát của các cấp thẩm quyền cũng như của người dân đối với hoạt động thu chi, từ đó có cơ chế đánh giá và dự liệu đúng lúc các nguy cơ, đề ra chính sách kịp thời cho ngân sách. Tránh các khoản thất thoát do mập mờ, tham nhũng. Mặt khác, cần thống nhất cách tính toán, chuẩn mực kế toán kiểm toán trong toàn bộ hệ thống tài chính công một cách hiệu quả và khoa học. Điều này giúp cho các số liệu của các cơ quan có thẩm quyền công bố đáng tin cậy hơn. Song song đó, cần phải thực hiện chi tiết hóa luật ngân sách nhà nước. Các dự toán phải chi tiết hóa hơn trước khi đưa lến cho các cấp xét duyệt như Quốc Hội hay Hội Đồng Nhân Dân. Thí dụ như việc cấp phát ngân sách đến từng đơn vị, từng bộ ngành … đều có những con số cụ thể. Dựa trên báo cáo chi tiết đó ta có thể quản lý chặt chẽ, đề ra biện pháp xử lý ngiêm khắc hơn với những trường hợp chi vượt dự toán không cần thiết ở cấp địa phương. Tăng cường quản lý, giám sát tài sản công: Tài sản công là một trong những thứ mang lại nguồn thu cho ngân sách bằng cách cho thuê, chuyển nhượng… Nhưng hiện tại vẫn chưa được quan tâm đúng mức, thiếu các luật điều chỉnh đầy đủ và đồng bộ, gây thất thoát lãng phí.Vẫn còn một mảng rất lớn tài sản công hiện đang được các tố chức, cá nhân thuộc tư nhân thuê, mượn… nhưng không có cơ chế rõ ràng để giám sát, quản lý. Nếu là tài sản tư, khi cho thuê hiển nhiên chủ tài sản sẽ quan tâm hết mực đến việc người thuê sử dụng tài sản của mình như thế nào. Còn ở tài sản công, thiếu sự qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBi ngn snh.doc